TIỂU LUẬN MARKETING VỀ CHIẾN LƯỢC ĐƯA SẢN PHẨM MỚI ...
Có thể bạn quan tâm
TIỂU LUẬN MARKETING VỀ CHIẾN LƯỢC ĐƯA SẢN PHẨM MỚI RA THỊ TRƯỜNG
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.45 KB, 27 trang )
Bạn đang đọc: TIỂU LUẬN MARKETING VỀ CHIẾN LƯỢC ĐƯA SẢN PHẨM MỚI RA THỊ TRƯỜNG – Tài liệu text
TIỂU LUẬNMARKETING VỀ CHIẾN LƯỢC ĐƯA SẢN PHẨM MỚI RA THỊ TRƯỜNG1MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU Xây dựng chiến lược cho sản phẩm là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của mỗi doanh nghiệp nhằm thực hiện có hiệu quả nhất ba mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Trong một thị trường cạnh tranh khốc liệt như thị trường điện thoại di động (ĐTDĐ) Việt Nam, làm mới mình và giành được sự hài lòng của khách hàng là điều kiện tiên quyết dẫn tới thành công của mỗi nhà sản xuất. Năm 2008 phát huy thế mạnh về thiết kế tinh tế và hiện đại, điện thoại SAMSUNG 2đã chinh phục được đa số khách hàng. Năm 2009 dự đoán sẽ là năm thành công nữa với điện thoại SAMSUNG bởi hãng tiếp tục tung ra các dòng sản phẩm ĐTDĐ màn hình cảm ứng. Để phục vụ một cách tốt nhất nhu cầu và mong muốn của khách hàng, SASUNG đã thiết kế ra dòng sản phẩm mới SAMSUNG BEAT DJ với rất nhiều tính năng vượt trội. Trước tình hình thực tế, sau thời gian nghiên cứu, căn cứ vào thực trạng hoạt động của Công ty và với những kiến thức được học, em xin thực hiện đề tài với nội dung: Chiến lược đưa sản phẩm điện thoại BEAT DJ của tập đoàn SAMSUNG đến với thị trường Việt Nam. Đề tài được thực hiện dưới sự giúp đỡ của các cô, các chú cán bộ công nhân viên trong Công ty và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của Thầy: Phan Thành Hưng – Giảng viên bộ môn Marketing, Trường Đại Học Lao Động – Xã Hội.Ngoài Lời mở đầu và phần kết luận, bài tiểu luận gồm 3 chương:Chương I: Cơ sở lý luận.Chương II: Thực trạng sản xuất và đưa sản phẩm mới ra thị trường Việt Nam của Samsung mobile.
Chương III: Những định hướng, giải pháp trong việc thực hiện chiến lược sản phẩm mới của Samsung mobile trên thị trường Việt Nam.CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬNI. Những vấn đề cơ bản về sản phẩm: 1. Khái niệm sản phẩm: Khi nói về sản phẩm người ta thường quy về một hình thức tồn tại vật chất cụ thể và do đó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu tố có thể quan sát được. Đối với các chuyên gia marketing, họ hiểu sản phẩm ở một phạm vi rộng lớn.3– Sản phẩm: Là tất cả những cái, những yếu tố có thể thỏa mãn nhu cầu hay ước muốn được đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng. Theo quan niệm này, sản phẩm hàng hóa bao hàm cả những vật thể hữu hình và vô hình, bao hàm cả những yếu tố vật chất và phi vật chất. Ngay cả trong những sản phẩm hữu hình thì cũng bao hàm cả các yếu tố vô hình. Trong thực tế, người ta thường xác định sản phẩm thông qua đơn vị sản phẩm.2. Cấp độ các yếu tố cấu thành đơn vị sản phẩm: Đơn vị sản phẩm vốn là một chỉnh thể hoàn chỉnh chứa đựng những yếu tố, đặc tính và thông tin khác nhau về sản phẩm. Những yếu tố đặc tính và thông tin đó có thể có những chức năng marketing khác nhau. Khi tạo ra một mặt hàng người ta thường xếp các yếu tố đặc tính và thông tin đó theo ba cấp độ có những chức năng marketing khác nhau.– Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm theo ý tưởng. Sản phẩm theo ý tưởng có chức năng cơ bản là trả lời câu hỏi: về thực chất, sản phẩm này thỏa mãn những điểm lợi ích cốt lõi nhất mà khách hàng theo đuổi là gì? Và chính đó là những giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho khách hàng.– Cấp độ thứ hai là sản phẩm hiện thực. Đó là những yếu tố phản ánh sự có mặt trên thực tế của hàng hóa. Những yếu tố đó bao gồm: các chỉ tiêu phản
Xem thêm: Điều hòa tốt nhất thị trường hiện nay mà bạn nên chọn
ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bề ngoài, đặc thù, tên nhãn hiệu cụ thể và đặc trưng của bao gói.– Cấp độ cuối cùng là sản phẩm bổ sung. Đó là những yếu tố như: Tính tiện lợi cho việc lắp đặt, những dịch vụ bổ sung sau khi bán, những điều kiện bảo hành và điều kiện hình thức tín dụng…3. Khái niệm sản phẩm mới: Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ, tình hình cạnh tranh, công ty không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào những sản phẩm hiện có. Vì vậy mỗi công ty dều phải quan tâm đến chương trình phát triển 4sản phẩm mới nếu muốn tồn tại và phát triển với uy tín ngày càng tăng. Vậy ta có thể hiểu sản phẩm mới là một sản phẩm, một dịch vụ hoặc một ý tưởng được một số khách hàng tiềm năng cảm nhận như mới. Đứng trên góc doanh nghiệp để xem xét, người ta chia sản phẩm mới thành hai loại: Sản phẩm mới tương đối và sản phẩm mới tuyệt đối.3.1. Sản phẩm mới tương đối: Sản phẩm mới tương đối là sản phẩm đầu tiên doanh nghiệp sản xuất và đưa ra thị trường, nhưng không mới đối với các doanh nghiệp khác và đối với thị trường. Chúng cho phép doanh nghiệp mở rộng dòng sản phẩm cho những cơ hội kinh doanh mới. Chi phí để phát triển loại sản phẩm này thường thấp, nhưng khó định vị sản phẩm trên thị trường vì người tiêu dùng vẫn có thể thích sản phẩm của đối thủ cạnh tranh hơn. 3.2. Sản phẩm mới tuyệt đối: Sản phẩm mới tuyệt đối là sản phẩm mới đối với cả doanh nhiệp và thị trường. Doanh nghiệp giống như “người tiên phong” đi đầu trong việc sản xuất sản phẩm này. Sản phẩm này ra mắt người tiêu dùng lần đầu tiên. Đây là một quá trình tương đối phức tạp và khó khăn (trong cả giai đoạn sản xuất và bán hàng). Chi phí dành cho nghiên cứu, thiết kế và sản xuất thử và thử nghiệm trên thị trường rất cao. Một sản phẩm có được coi là mới hay không phụ thuộc vào cách thị trường
mục tiêu nhận thức về nó. Nếu người mua cho rằng sản phẩm đó khác đáng kể so với một số sản phẩm của đối thủ cạnh tranh về một số tính chất (hình thức bên ngoài hay chất lượng), thì sản phẩm đó sẽ được coi là sản phẩm mới.II. Những vấn đề cơ bản về chiến lược sản phẩm mới:1. Chiến lược của công ty: Để duy trì sự phát triển của mình, mọi doanh nghiệp đều phải hướng đế tương lai với những mục tiêu cần đạt tới và những thách thức để đạt được mục tiêu đó. Ngày nay, việc quản lý dựa trên những kinh nghiệm trực giác và 5sự suy đoán chủ quan không thể là một sự đảm bảo cho thành công của doanh nghiệp. Vì vậy một chiến lược marketing được thiết lập và phát triển cho toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp đều là cần thiết. Chiến lược là một tập hợp của các chuỗi hoạt động được thiết kế nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững. Chiến lược không chỉ là một kế hoạch, cũng không phải là một ý tưởng, chiến lược là triết lý sống của một công ty. Chiến lược ở đây không phải lúc nào cũng đồng nghĩa hoàn toàn với từ dài hạn mà nó thể hiện những cố gắng của công ty nhằm đạt tới một vị trí mong muốn xét trên vị thế cạnh tranh và sự thay đổi của hoàn cảnh. Đó là sự thể hiện việc tìm hiểu và nhận biết những yếu tố môi trường marketing bên ngoài, đánh giá những điều kiện và khả năng bên trong của công ty để soạn thảo các chiến lược kinh doanh nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định. Từ khái niệm chiến lược, chúng ta có thể hiểu chiến lược marketing là: mục tiêu mà công ty muốn đạt tới.2. Chiến lược marketing cho sản phẩm mới:2.1. Chiến lược marketing là gì? Chiến lược marketing là mục tiêu mà công ty muốn đạt được như khối lượng sản phẩm, thị phần trên những thị trường tiềm năng, khả năng sinh lợi, thế lực trong kinh doanh, an toàn trong kinh doanh và có thể gọi là mục tiêu
marketing. Chiến lược marketing là một hoạt động của Công ty nói chung và của bộ phận marketing nói riêng nhằm đạt được mục tiêu của Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh.2.2. Soạn thảo chiến lược marketing cho sản phẩm mới: Sau khi dự án sản phẩm mới tốt nhất được thông qua, công ty cần soạn thảo chiến lược marketing cho sản phẩm đó. Chiến lược marketing cho sản phẩm mới bao gồm ba phần:6– Phần thứ nhất: mô tả quy mô, cấu trúc thị trường và thái độ cảu khách hàng trên thị trường mục tiêu, dự kiến xác lập vị trí sản phẩm, chỉ tiêu về khối lượng bán, thị phần và lợi nhuận trong những năm trước mắt;– Phần thứ hai: Trình bày quan điểm chung về phân phối sản phẩm và dự đoán chi phí marketing cho năm đầu;– Phần thư ba: Trình bày những mục tiêu tương lai về các chỉ tiêu: tiêu thụ lợi nhuận, quan điểm, chiến lược lâu dài.2.3. Triển khai sản xuất hàng loạt và tung sản phẩm mới ra thị trường: Sau khi thử nghiệm thị trường công ty đã có căn cứ rõ nét hơn để quyết định có sản xuất đại trà sản phẩm mới hay không. Nếu việc sản xuất đại trà được thông qua công ty phải thực sự bắt tay vào triển khai phương án tổ chức sản xuất và marketing sản phẩm mới. Trong giai đoạn này, những quyết định liên quan đến việc tung sản phẩm mới vào thị trường là cực kỳ quan trọng. Cụ thể là trong giai đoạn này, công ty phải thông qua bốn quyết định:– Khi nào tung sản phẩm mới chính thức vào thị trường?– Sản phẩm mới sẽ được tung ra ở đâu?– Sản phẩm mới trước hết phải tập trung bán cho đối tượng khách hàng nào?– Sản phẩm mới được tung ra bán như thế nào? Với những hoạt động hỗ trợ nào để xúc tiến việc bán?2.4. Các hoạt động cần thực hiện đảm bảo sự thành công của sản phẩm mới: Để chiến lược đưa sản phẩm mới ra thị trường một cách có hiệu quả, các doanh nghiệp cần nghiên cứu đến các yếu tố: Đối thủ cạnh tranh; xác định
Xem thêm: KẾT QUẢ CỦA PHA SÁNG – sinh tế bào cơ bản – https://dvn.com.vn
mục tiêu khách hàng; khác biệt hóa, tạo nên một giá trị, một lý do thuyết phục nhất; chiến lược riêng biệt cho sản phẩm…2.4.1. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh: Hầu hết các doanh nghiệp khi áp dụng vào thực tế thường quên nguyên tắc này, không coi trọng đối thủ cạnh tranh vì tin tưởng vào các sản phẩm của mình. Tuy nhiên sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng thuận lợi và phù hợp với thực tế thị trường, trong khi thị trường lại bắt 7đầu bằng chính đối thủ của họ. Liệt kê những doanh nghiệp có sản phẩm tương đồng với sản phẩm mà doanh nghiệp có ý định muốn tung ra. Ngay cả khi sản phẩm mới chưa từng được biết đến, đặt mình vào vị trí của người tiêu dùng để biết được phản ứng của họ đối với sản phẩm này như thế nào. Khi xác định được các đối thủ cạnh tranh, nghiên cứu những công cụ marketing của họ: áp phích, quảng cáo…Đánh giá mối tương quan giữa sản phẩm của mình với sản phẩm của các đối thủ. Xác định xem phải đương đầu với sự cạnh tranh của đối thủ như thế nào, đặc biệt đối với những doanh nghiệp có mối đe dọa thực sự.2.4.2. Xác định mục tiêu khách hàng: Bất cứ sản phẩm nào cũng có một đối tượng khách hàng riêng của nó, doanh nghiệp không thể bán những mặt hàng cao cấp cho khách hàng trung lưu hoặc những mặt hàng bình dân thì thường không được giới thượng lưu để ý tới. Phân đoạn khách hàng mà bạn nhắm tới có thể là những người hiện đang tiêu dùng một sản phẩm tương đồng của đối thủ cạnh tranh hoặc những người thích cái mới với đặc tính có sức thuyết phục. Những khách hàng tiềm năng tốt nhất sẽ là những người hiểu được tính hữu dụng của sản phẩm.2.4.3. Khác biệt hóa, tạo nên một giá trị, một lý do thuyết phục nhất: Đây chính là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Đối với mọi sản phẩm khi tung ra thị trường, mọi doanh nghiệp phải hiểu đâu là đặc tính phân biệt nó với các sản phẩm khác. Mỗi doanh nghiệp phải tự đặt câu hỏi “Sản phẩm của tôi mang lại điều gì mà những sản phẩm của các đối thủ khác không có?”.
Đặt ra câu hỏi dạng này sẽ giúp doanh nghiêp xác định rõ hơn điều mà sản phẩm cần có để đáp ứng nhu cầu mong muốn của khách hàng.2.4.4. Chiến lược riêng biệt cho sản phẩm: Doanh nghiệp phải tìm ra cách thức tốt nhất để quảng bá cho sản phẩm của mình. Lựa phối tới tay người tiêu chọn hình thức và địa điểm để bán sản phẩm. Hệ thống bán hàng qua các kênh phân phối hay trực tiếp tới người tiêu dùng. Lựa chọn xem xét chiến lược marketing truyền thống nhằm tới từng cá 8nhân hay trực tiếp, vai trò của truyền hình báo chí trong quá trình xâm nhập thị trường.Chuẩn bị sẵn sàng cho việc hoàn thiện sản phẩm. Tổ chức nơi gặp gỡ để khách hàng dùng thử sản phẩm và yêu cầu họ phát biểu cảm nghĩ về sản phẩm….CHƯƠNG IITHỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ ĐƯA SẢN PHẨM MỚI CỦA SAMSUNG MOBILE RA THỊ TRƯỜNG VIỆT NAMI. Tổng quan về Tập Đoàn SAMSUNG:1. Lịch sử hình thành và phát triển:9 Tập đoàn SAMSUNG là một trong những tập đoàn thương mại lớn nhất Hàn Quốc. Được bắt đầu từ công ty xuất khẩu năm 1938, nhưng mau chóng có nhiều dạng. SAMSUNG được Lee Byung Chul thành lập năm 1953. Tập đoàn trước đây là khối kết có hơn 400.000 công nhân trên toàn thế giới và chế tạo ra xe hơi, đồ điện, hóa chất, máy bay, tàu thủy, ngành buôn bán, kinh doanh khách sạn… trong các công ty riêng rẽ sau sự cải tổ lại của sự khủng hoảng tài chính Châu Á. Samsung Electronics, hãng điện tử Samsung, được thành lập năm 1969, là một bộ phận lớn nhất của Tập đoàn Samsung và là một trong nững công ty điện tử lớn nhất thế giới. Được sáng lập tại Daegu, Hàn Quốc, hãng điện tử Samsung hoạt động tại chừng 58 nước và có khoảng 208.000 công nhân.
Hãng điện tử Samsung được coi là một trong 10 nhãn hàng hóa tốt nhất thế giới. Hãng này là một trong bốn hãng tại Châu Á, bao gồm Nhật Bản, với vốn thị trường lên đến 100 tỷ Mỹ kim. Tập đoàn Samsung bao gồm nhiều ngành kinh doanh ở Hàn Quốc, bao gồm cả Điện tử Samsung và bảo hiểm Samsung. Chủ tịch hiện nay là Lee Kun Hee kế thừa tập đoàn vào năm 1987. Trong thập niên 90, Samsung nổi lên như một tập đoàn quốc tế đa ngành. Chi nhánh của công ty xây dựng đã từng được giải thưởng lớn vì công trình xây dựng một trong hai tòa tháp đôi Petronas tháng 9 năm 1993, và Burj Dubai năm 2004, những công trình cao nhất thế giới. Samsung đã sống sót qua khủng hoảng tiền tệ Châu Á 1997-1998, tuy nhiên, Công ty Motor Samsung, đã phải bán cho hãng Renault. Được coi là một đối thủ cạnh tranh của Nhật Bản, Thung lũng Sillicon, Đài Loan và cả các doanh nghiệp nội địa, Samsung ngày càng mở rộng sản xuất nhằm trở thành nhà cung cấp bộ nhớ Ram động, tủ lạnh, bộ nhớ flash, đầu DVD lớn nhất thế giới, và sẽ trở thành một trong 20 doanh nghiệp hàng đầu toàn cầu vào năm 2010. Hiện nay, Samsung đã là một trong những nàh sản xuất dẫn đầu thế giới về màn hình plasma và điện thoại di động thế hệ 2. Samsung đang cố gắng để có bước đột phá ở thị trường Nhật, quê hương của Sony và Panasonic. Vì Samsung hoạt 10 Chương III : Những xu thế, giải pháp trong việc triển khai chiến lượcsản phẩm mới của Samsung mobile trên thị trường Nước Ta. CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬNI. Những yếu tố cơ bản về sản phẩm : 1. Khái niệm sản phẩm : Khi nói về sản phẩm người ta thường quy về một hình thức sống sót vật chấtcụ thể và do đó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu tố hoàn toàn có thể quan sátđược. Đối với những chuyên viên marketing, họ hiểu sản phẩm ở một phạm virộng lớn. – Sản phẩm : Là toàn bộ những cái, những yếu tố hoàn toàn có thể thỏa mãn nhu cầu nhu yếu hayước muốn được đưa ra chào bán trên thị trường với mục tiêu lôi cuốn sự chú ýmua sắm, sử dụng hay tiêu dùng. Theo ý niệm này, sản phẩm sản phẩm & hàng hóa bao hàm cả những vật thể hữuhình và vô hình dung, bao hàm cả những yếu tố vật chất và phi vật chất. Ngay cảtrong những sản phẩm hữu hình thì cũng bao hàm cả những yếu tố vô hình dung. Trong trong thực tiễn, người ta thường xác lập sản phẩm trải qua đơn vị chức năng sảnphẩm. 2. Cấp độ những yếu tố cấu thành đơn vị chức năng sản phẩm : Đơn vị sản phẩm vốn là một chỉnh thể hoàn hảo tiềm ẩn những yếutố, đặc tính và thông tin khác nhau về sản phẩm. Những yếu tố đặc tính vàthông tin đó hoàn toàn có thể có những công dụng marketing khác nhau. Khi tạo ra mộtmặt hàng người ta thường xếp những yếu tố đặc tính và thông tin đó theo ba cấpđộ có những công dụng marketing khác nhau. – Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm theo ý tưởng sáng tạo. Sản phẩm theo ý tưởng sáng tạo cóchức năng cơ bản là vấn đáp thắc mắc : về thực ra, sản phẩm này thỏa mãnnhững điểm quyền lợi cốt lõi nhất mà người mua theo đuổi là gì ? Và chính đó lànhững giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho người mua. – Cấp độ thứ hai là sản phẩm hiện thực. Đó là những yếu tố phản ánh sự cómặt trên thực tiễn của sản phẩm & hàng hóa. Những yếu tố đó gồm có : những chỉ tiêu phảnánh chất lượng, những đặc tính, bố cục tổng quan hình thức bề ngoài, đặc trưng, tên thương hiệu đơn cử vàđặc trưng của bao gói. – Cấp độ sau cuối là sản phẩm bổ trợ. Đó là những yếu tố như : Tính tiệnlợi cho việc lắp ráp, những dịch vụ bổ trợ sau khi bán, những điều kiện kèm theo bảohành và điều kiện kèm theo hình thức tín dụng thanh toán … 3. Khái niệm sản phẩm mới : Do những đổi khác nhanh gọn về thị hiếu, công nghệ tiên tiến, tình hình cạnhtranh, công ty không hề sống sót và tăng trưởng nếu chỉ dựa vào những sản phẩmhiện có. Vì vậy mỗi công ty dều phải chăm sóc đến chương trình phát triểnsản phẩm mới nếu muốn sống sót và tăng trưởng với uy tín ngày càng tăng. Vậyta hoàn toàn có thể hiểu sản phẩm mới là một sản phẩm, một dịch vụ hoặc một ý tưởngđược 1 số ít người mua tiềm năng cảm nhận như mới. Đứng trên góc doanh nghiệp để xem xét, người ta chia sản phẩm mới thànhhai loại : Sản phẩm mới tương đối và sản phẩm mới tuyệt đối. 3.1. Sản phẩm mới tương đối : Sản phẩm mới tương đối là sản phẩm tiên phong doanh nghiệp sản xuất vàđưa ra thị trường, nhưng không mới so với những doanh nghiệp khác và đối vớithị trường. Chúng được cho phép doanh nghiệp lan rộng ra dòng sản phẩm cho nhữngcơ hội kinh doanh thương mại mới. Ngân sách chi tiêu để tăng trưởng loại sản phẩm này thường thấp, nhưng khó xác định sản phẩm trên thị trường vì người tiêu dùng vẫn có thểthích sản phẩm của đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu hơn. 3.2. Sản phẩm mới tuyệt đối : Sản phẩm mới tuyệt đối là sản phẩm mới so với cả doanh nhiệp và thịtrường. Doanh nghiệp giống như “ người tiên phong ” đi đầu trong việc sảnxuất sản phẩm này. Sản phẩm này ra đời người tiêu dùng lần tiên phong. Đây làmột quy trình tương đối phức tạp và khó khăn vất vả ( trong cả quá trình sản xuất vàbán hàng ). Chi tiêu dành cho điều tra và nghiên cứu, phong cách thiết kế và sản xuất thử và thửnghiệm trên thị trường rất cao. Một sản phẩm có được coi là mới hay không phụ thuộc vào vào cách thị trườngmục tiêu nhận thức về nó. Nếu người mua cho rằng sản phẩm đó khác đángkể so với 1 số ít sản phẩm của đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu về một số ít đặc thù ( hìnhthức bên ngoài hay chất lượng ), thì sản phẩm đó sẽ được coi là sản phẩmmới. II. Những yếu tố cơ bản về chiến lược sản phẩm mới : 1. Chiến lược của công ty : Để duy trì sự tăng trưởng của mình, mọi doanh nghiệp đều phải hướng đếtương lai với những tiềm năng cần đạt tới và những thử thách để đạt đượcmục tiêu đó. Ngày nay, việc quản trị dựa trên những kinh nghiệm tay nghề trực giác vàsự suy đoán chủ quan không hề là một sự bảo vệ cho thành công xuất sắc của doanhnghiệp. Vì vậy một chiến lược marketing được thiết lập và tăng trưởng cho toànbộ những hoạt động giải trí của doanh nghiệp đều là thiết yếu. Chiến lược là một tập hợp của những chuỗi hoạt động giải trí được phong cách thiết kế nhằm mục đích tạora lợi thế cạnh tranh đối đầu vững chắc. Chiến lược không chỉ là một kế hoạch, cũng không phải là một sáng tạo độc đáo, chiến lược là triết lý sống của một công ty. Chiến lược ở đây không phải khi nào cũng đồng nghĩa tương quan trọn vẹn với từ dàihạn mà nó biểu lộ những nỗ lực của công ty nhằm mục đích đạt tới một vị trí mongmuốn xét trên vị thế cạnh tranh đối đầu và sự biến hóa của thực trạng. Đó là sự thểhiện việc tìm hiểu và khám phá và phân biệt những yếu tố thiên nhiên và môi trường marketing bênngoài, nhìn nhận những điều kiện kèm theo và năng lực bên trong của công ty để soạnthảo những chiến lược kinh doanh thương mại nhằm mục đích đạt tới những tiềm năng nhất định. Từ khái niệm chiến lược, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể hiểu chiến lược marketing là : mụctiêu mà công ty muốn đạt tới. 2. Chiến lược marketing cho sản phẩm mới : 2.1. Chiến lược marketing là gì ? Chiến lược marketing là tiềm năng mà công ty muốn đạt được như khốilượng sản phẩm, thị trường trên những thị trường tiềm năng, năng lực sinh lợi, thế lực trong kinh doanh thương mại, bảo đảm an toàn trong kinh doanh thương mại và hoàn toàn có thể gọi là mục tiêumarketing. Chiến lược marketing là một hoạt động giải trí của Công ty nói chung vàcủa bộ phận marketing nói riêng nhằm mục đích đạt được tiềm năng của Công ty tronghoạt động sản xuất kinh doanh thương mại. 2.2. Soạn thảo chiến lược marketing cho sản phẩm mới : Sau khi dự án Bất Động Sản sản phẩm mới tốt nhất được trải qua, công ty cần soạn thảochiến lược marketing cho sản phẩm đó. Chiến lược marketing cho sản phẩmmới gồm có ba phần : – Phần thứ nhất : diễn đạt quy mô, cấu trúc thị trường và thái độ cảu khách hàngtrên thị trường tiềm năng, dự kiến xác lập vị trí sản phẩm, chỉ tiêu về khốilượng bán, thị trường và doanh thu trong những năm trước mắt ; – Phần thứ hai : Trình bày quan điểm chung về phân phối sản phẩm và dựđoán ngân sách marketing cho năm đầu ; – Phần thư ba : Trình bày những tiềm năng tương lai về những chỉ tiêu : tiêu thụ lợinhuận, quan điểm, chiến lược vĩnh viễn. 2.3. Triển khai sản xuất hàng loạt và tung sản phẩm mới ra thị trường : Sau khi thử nghiệm thị trường công ty đã có địa thế căn cứ rõ nét hơn để quyếtđịnh có sản xuất đại trà phổ thông sản phẩm mới hay không. Nếu việc sản xuất đại tràđược trải qua công ty phải thực sự bắt tay vào triển khai phương án tổ chứcsản xuất và marketing sản phẩm mới. Trong quá trình này, những quyết địnhliên quan đến việc tung sản phẩm mới vào thị trường là cực kỳ quan trọng. Cụ thể là trong quá trình này, công ty phải trải qua bốn quyết định hành động : – Khi nào tung sản phẩm mới chính thức vào thị trường ? – Sản phẩm mới sẽ được tung ra ở đâu ? – Sản phẩm mới trước hết phải tập trung chuyên sâu bán cho đối tượng người tiêu dùng người mua nào ? – Sản phẩm mới được tung ra bán như thế nào ? Với những hoạt động giải trí hỗ trợnào để triển khai việc bán ? 2.4. Các hoạt động giải trí cần thực thi bảo vệ sự thành công xuất sắc của sản phẩm mới : Để chiến lược đưa sản phẩm mới ra thị trường một cách có hiệu suất cao, cácdoanh nghiệp cần nghiên cứu và điều tra đến những yếu tố : Đối thủ cạnh tranh đối đầu ; xác địnhmục tiêu người mua ; độc lạ hóa, tạo nên một giá trị, một nguyên do thuyếtphục nhất ; chiến lược riêng không liên quan gì đến nhau cho sản phẩm … 2.4.1. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu : Hầu hết những doanh nghiệp khi vận dụng vào trong thực tiễn thường quên nguyên tắcnày, không coi trọng đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu vì tin cậy vào những sản phẩm củamình. Tuy nhiên sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp không phải lúc nàocũng thuận tiện và tương thích với thực tế thị trường, trong khi thị trường lại bắtđầu bằng chính đối thủ cạnh tranh của họ. Liệt kê những doanh nghiệp có sản phẩmtương đồng với sản phẩm mà doanh nghiệp có dự tính muốn tung ra. Ngay cảkhi sản phẩm mới chưa từng được biết đến, đặt mình vào vị trí của người tiêudùng để biết được phản ứng của họ so với sản phẩm này như thế nào. Khi xác lập được những đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu, nghiên cứu và điều tra những công cụmarketing của họ : áp phích, quảng cáo … Đánh giá mối đối sánh tương quan giữa sản phẩm của mình với sản phẩm của những đốithủ. Xác định xem phải đương đầu với sự cạnh tranh đối đầu của đối thủ cạnh tranh như thế nào, đặc biệt quan trọng so với những doanh nghiệp có mối rình rập đe dọa thực sự. 2.4.2. Xác định tiềm năng người mua : Bất cứ sản phẩm nào cũng có một đối tượng người tiêu dùng người mua riêng của nó, doanh nghiệp không hề bán những loại sản phẩm hạng sang cho người mua trunglưu hoặc những mẫu sản phẩm tầm trung thì thường không được giới thượng lưu đểý tới. Phân đoạn người mua mà bạn nhắm tới hoàn toàn có thể là những người hiệnđang tiêu dùng một sản phẩm tương đương của đối thủ cạnh tranh cạnh tranh đối đầu hoặc nhữngngười thích cái mới với đặc tính có sức thuyết phục. Những người mua tiềmnăng tốt nhất sẽ là những người hiểu được tính hữu dụng của sản phẩm. 2.4.3. Khác biệt hóa, tạo nên một giá trị, một nguyên do thuyết phục nhất : Đây chính là lợi thế cạnh tranh đối đầu của doanh nghiệp. Đối với mọi sản phẩmkhi tung ra thị trường, mọi doanh nghiệp phải hiểu đâu là đặc tính phân biệtnó với những sản phẩm khác. Mỗi doanh nghiệp phải tự đặt câu hỏi “ Sản phẩmcủa tôi mang lại điều gì mà những sản phẩm của những đối thủ cạnh tranh khác không có ? ”. Đặt ra câu hỏi dạng này sẽ giúp doanh nghiêp xác lập rõ hơn điều mà sảnphẩm cần có để cung ứng nhu yếu mong ước của người mua. 2.4.4. Chiến lược riêng không liên quan gì đến nhau cho sản phẩm : Doanh nghiệp phải tìm ra phương pháp tốt nhất để tiếp thị cho sản phẩm củamình. Lựa phối tới tay người tiêu chọn hình thức và khu vực để bán sảnphẩm. Hệ thống bán hàng qua những kênh phân phối hay trực tiếp tới người tiêudùng. Lựa chọn xem xét chiến lược marketing truyền thống cuội nguồn nhằm mục đích tới từng cánhân hay trực tiếp, vai trò của truyền hình báo chí truyền thông trong quy trình xâm nhậpthị trường. Chuẩn bị sẵn sàng chuẩn bị cho việc hoàn thành xong sản phẩm. Tổ chức nơi gặp gỡ đểkhách hàng dùng thử sản phẩm và nhu yếu họ phát biểu cảm nghĩ về sảnphẩm …. CHƯƠNG IITHỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ ĐƯA SẢN PHẨM MỚI CỦASAMSUNG MOBILE RA THỊ TRƯỜNG VIỆT NAMI. Tổng quan về Tập Đoàn SAMSUNG : 1. Lịch sử hình thành và tăng trưởng : Tập đoàn SAMSUNG là một trong những tập đoàn lớn thương mại lớn nhấtHàn Quốc. Được mở màn từ công ty xuất khẩu năm 1938, nhưng mau chóngcó nhiều dạng. SAMSUNG được Lee Byung Chul xây dựng năm 1953. Tậpđoàn trước kia là khối kết có hơn 400.000 công nhân trên toàn quốc tế vàchế tạo ra xe hơi, đồ điện, hóa chất, máy bay, tàu thủy, ngành kinh doanh, kinhdoanh khách sạn … trong những công ty riêng rẽ sau sự cải tổ lại của sự khủnghoảng kinh tế tài chính Châu Á.Samsung Electronics, hãng điện tử Samsung, được xây dựng năm 1969, làmột bộ phận lớn nhất của Tập đoàn Samsung và là một trong nững công tyđiện tử lớn nhất quốc tế. Được sáng lập tại Daegu, Nước Hàn, hãng điện tửSamsung hoạt động giải trí tại chừng 58 nước và có khoảng chừng 208.000 công nhân. Hãng điện tử Samsung được coi là một trong 10 nhãn sản phẩm & hàng hóa tốt nhất thếgiới. Hãng này là một trong bốn hãng tại Châu Á Thái Bình Dương, gồm có Nhật Bản, với vốnthị trường lên đến 100 tỷ Mỹ kim. Tập đoàn Samsung gồm có nhiều ngànhkinh doanh ở Nước Hàn, gồm có cả Điện tử Samsung và bảo hiểm Samsung. quản trị lúc bấy giờ là Lee Kun Hee thừa kế tập đoàn lớn vào năm 1987. Trong thập niên 90, Samsung nổi lên như một tập đoàn lớn quốc tế đa ngành. Chi nhánh của công ty thiết kế xây dựng đã từng được phần thưởng lớn vì công trìnhxây dựng một trong hai tòa tháp đôi Petronas tháng 9 năm 1993, và BurjDubai năm 2004, những khu công trình cao nhất quốc tế. Samsung đã sống sótqua khủng hoảng cục bộ tiền tệ Châu Á Thái Bình Dương 1997 – 1998, tuy nhiên, Công ty MotorSamsung, đã phải bán cho hãng Renault. Được coi là một đối thủ cạnh tranh cạnh tranhcủa Nhật Bản, Thung lũng Sillicon, Đài Loan và cả những doanh nghiệp trong nước, Samsung ngày càng lan rộng ra sản xuất nhằm mục đích trở thành nhà phân phối bộ nhớRam động, tủ lạnh, bộ nhớ flash, đầu DVD lớn nhất quốc tế, và sẽ trở thànhmột trong 20 doanh nghiệp số 1 toàn thế giới vào năm 2010. Hiện nay, Samsung đã là một trong những nàh sản xuất đứng vị trí số 1 quốc tế về màn hìnhplasma và điện thoại di động thế hệ 2. Samsung đang nỗ lực để có bước độtphá ở thị trường Nhật, quê nhà của Sony và Panasonic. Vì Samsung hoạt10
Từ khóa » Bài Tiểu Luận Marketing Sản Phẩm Mới
-
Tiểu Luận Chiến Lược Marketing Cho Sản Phẩm Mới - 123doc
-
TIỂU LUẬN MARKETING VỀ CHIẾN LƯỢC ĐƯA SẢN ... - 123doc
-
Bài Tiểu Luận Marketing Marketing Sản Phẩm Trà Thảo Mộc anh
-
Thư Viện Mẫu Tiểu Luận Marketing Đặc Sắc Và Hay Nhất 2022
-
Top 30 Tiểu Luận Chiến Lược Marketing Cho Sản Phẩm Mới 2022
-
[DOC] Tiểu Luận Marketing Cho Sản Phẩm Mới - 5pdf
-
Tiểu Luận:CHIẾN LƯỢC MARKETING CHO SẢN PHẨM SON MÔI ...
-
"Bài Tiểu Luận Chiến Lược Sản Phẩm" Trang 1 - Tailieunhanh
-
Tải Mẫu Tiểu Luận Marketing Miễn Phí - Kho 90 Đề Tài Chọn Lọc
-
Tiểu Luận Chiến Lược Marketing Cho Sản Phẩm Mới - Trần Gia Hưng
-
Top 10 Bài Tiểu Luận Marketing Hay Nhất | SGTT
-
Bài Tiểu Luận: Kế Hoạch Marketing Sản Phẩm X_CLEANER
-
PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM MỚI 2021 - BỘ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI ...
-
TẢI FREE => 10+ Bài Tiểu Luận Marketing Căn Bản => Đạt 10đ