Tiểu Luận Sự Giống Nhau Và Khác Nhau Giữa Triết Học Phương đông ...
Có thể bạn quan tâm
- Trang chủ >>
- Luận Văn - Báo Cáo >>
- Lý luận chính trị
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.8 KB, 20 trang )
MỞ ĐẦUTrong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loạinói chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đông và triết họcPhương Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đãđể lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triếthọc Phương Đông và triết học Phương Tây không thể thoát ly những vấn đềchung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triếthọc Phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triếthọc Phương Đông và triết học Phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhaucủa nó là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó ta có thểhiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại. Mặtkhác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết họcPhương Đông, do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương Đôngtrong mối quan hệ với đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là nhữngtư tưởng nhân văn trong thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắchơn bản sắc văn hoá Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Sự giống nhauvà khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây” làm đềtài nghiên cứu trong bài tiểu luận của mìnhPHẦN NỘI DUNG1. Những đặc điểm của lịch sử triết học phương Đông1.1. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Ấn ĐộSo với các nền triết học khác, triết học Ấn Độ là một trong những tràolưu triết học ra đời và phát triển rất sớm. Nó được hình thành từ cuối thiênniên kỷ thứ hai, đầu thiên niên kỷ thứ nhất, trước công nguyên và vận độngphát triển trong lịch sử. Với thời gian hàng ngàn năm, nền triết học Ấn Độđã tạo nên một vóc dáng đồ sộ, chứa đựng những tư tưởng quý báu của nhânloại. Tính đồ sộ của nó không chỉ ở qui mô, số lượng các tác phẩm, ở sự đadạng của các trường phái mà còn ở sự phong phú trong cách thể hiện và đặcbiệt là sự sâu rộng về nội dung phản ánh. Tính đồ sộ của triết học Ấn Độ thểhiện ở sự đa dạng các trường phái triết học. Chỉ riêng 9 trường phái triết họctiêu biểu ở thời kỳ cổ đại và sự phân hoá của nó trong lịch sử triết học cũngđã nói lên qui mô và sự phức tạp của nó. Tính đồ sộ của nó còn thể hiện ở sựphong phú về nội dung thể hiện. Có thể nói các trường phái triết học đều đềcập đến hầu hết các vấn đề lớn của triết học như: bản thể luận, nhận thứcluận, phép biện chứng và đặc biệt là vấn đề con người với đời sống tâm linhvà con đường giải thoát của nó…Trong quá trình giải quyết những nội dung phong phú đó, đa số cáctrường phái triết học Ấn Độ đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Veđa, lấycác tư tưởng của kinh Veđa làm điểm xuất phát, các luận điểm triết học vềsau thường dựa vào các luận thuyết ở triết học đã có trước. Vì vậy, các nhàtriết học sau thường không đặt ra mục đích tạo ra một triết học mới, mà bổnphận của họ là chỉ để bảo vệ, lý giải cho hoàn thiện thêm các quan niệm banđầu, còn việc tìm ra những sai lầm thường bị coi nhẹ thậm chí không đượcđặt ra.Triết học Ấn Độ đặc biệt chú ý tới vấn đề con người. Hầu hết cáctrường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm conđường “giải thoát” con người khỏi nỗi khổ trầm luân trong đời sống trần tục.Tuy nhiên, do sự hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của lập trường giaicấp, và của những tư tưởng tôn giáo nên hầu hết các học thuyết triết học ẤnĐộ lại đi tìm nguyên nhân của sự khổ đau của con người không phải từ đờisống kinh tế - xã hội mà ở trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự “ham muốn”của con người. Vì vậy “con đường giải thoát con người” đều mang sắc tháiduy tâm và yếm thế.Trong quá trình vận động và phát triển, các hệ thống triết học Ấn Độkhông thoát ra khỏi sự chi phối của những tín điều tôn giáo, do đó nó có sựđan xen với những quan niệm của tôn giáo. Các quan niệm triết học kể cảquan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền bí của kinh Veđa, cácquan niệm về hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trựcquan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời đan xen cái thầntiên của cõi Niết Bàn.Cùng với sự đan xen của các tín điều tôn giáo, trong phạm vi của triếthọc, các quan niệm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình trong triếthọc Ấn Độ không được thực hiện một cách rạch ròi, tách bạch nhau màchúng thường đan xen vào nhau, xen kẽ lẫn nhau trong quá trình vận độngvà phát triển. Chính vì thế, triết học Ấn Độ đã tạo nên vẻ đẹp thâm trầm,huyền bí, uyển chuyển của triết học Phương Đông. Nhìn chung, lịch sử triếthọc Ấn Độ là nền triết học lớn ở Phương Đông. Nó đã để lại nhiều tư tưởngquý báu cho nhân loại.1.2. Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Trung QuốcLịch sử triết học Trung Quốc thấm đượm tinh thần nhân văn, trong đóNho gia là một học thuyết tiêu biểu, đã coi con người là chủ thể của đốitượng nghiên cứu, đã tách con người khỏi động vật và thần linh, và chorằng: “con người có khí, có sinh, có trí thì cũng có nghĩa, bởi vậy là vật quýnhất trong thiên hạ) (Tuân Tử-Vương Chế). Nho gia thừa nhận vũ trụ là trời- đất- người cùng một thể, người được xếp ngang hàng với trời - đất thànhmột bộ “tam tài”. Như vây ngay từ buổi đầu, triết học Trung Quốc mà Nhogia là tiêu biểu đã khẳng định rõ giá trị của con người, thể hiện tinh thầnnhân văn đậm nét và thấm nhuần tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Trên cơ sởtư tưởng đó, những mệnh đề khác đã ra đời như: tâm, tính, tình, lý, khí,lương tri, “thiên nhân cảm ứng”… nhưng suy cho cùng đều phục vụ cho giảiquyết vấn đề nhân sinh của con người và xã hội. Có thể nói trong tư tưởngtriết học Trung Quốc, Các loại liên quan đến con người như triết học nhânsinh, triết học chính trị, triết học lịch sử đều phát triển còn triết học tự nhiêncó phần mờ nhạt.Vấn đề trọng tâm của tinh thần nhân văn trong lịch sử triết học TrungQuốc là vấn đề đạo đức xã hội và đạo đức con người. Họ luôn luôn tìm tòi,xây dựng những nguyên lý, những chuẩn mực đạo đức để thích nghi tronglịch sử và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhiều trườngphái tư tưởng đã đưa ra những nguyên tắc đạo đức cao nhất của mình vàchứng minh đó là hợp lý nhất: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia; Vô vicủa Đạo gia; Kiêm ái của Mặc gia; Công và Lợi của Pháp gia. Nhữngnguyên tắc đạo đức luôn gắn liền với tính đẳng cấp trong xã hội, coi nhẹthuộc tính tự nhiên của con người.Triết học Trung Quốc thường đem luân thường đạo lý của con ngườigán cho vạn vật trong trời đất, biến trời thành hoá thân của đạo đức rồi lấythiên đạo chứng minh cho nhân thế. Vũ trụ quan, nhân sinh quan, nhận thứcluận của nhà Nho đều thấm đượm ý thức đạo đức. Chuẩn mực đạo đức trởthành đặc điểm nổi bật. Vì vậy, họ tranh luận xung quanh vấn đề thiện ác.Họ liên hệ việc nhận thức thế giới khách quan với việc tu nhân, dưỡng tínhcá nhân. Thậm chí họ coi việc dưỡng tính cá nhân là cơ sở của việc nhậnthức thế giới khách quan, “người tận tâm thì biết được tính của mình, biếtđược tính của mình thì biết được trời”. Vì vậy, trong mấy ngàn năm lịch sử,các triết học đều theo đuổi cái vương quốc luân lý đạo đức, họ xem đạo đứclà cái “trời phú”. Bởi thế, họ xem việc thực hành đạo đức là hoạt động thựctiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xãhội. Có thể nói, đây là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển vềnhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng ở Trung Quốc.Mặt khác, triết học Trung Quốc đặc biệt chú ý đến sự hài hoà thốngnhất giữa các mặt đối lập. Các nhà triết học đều xem xét một cách biệnchứng sự vận động của vũ trụ, xã hội, nhân sinh, đều chú ý đến mặt đối lậpthống nhất của sự vật. Đa số họ đều nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữacác mặt đối lập, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giảiquyết vấn đề. Đạo gia, nho gia, Phật giáo đều phản đối cái “thái quá”, “bấtcập”. Tính tổng hợp và tính quán xuyến của hàng loạt các phạm trù “Thiênnhân hợp nhất”, “Tri hành hợp nhất”, “Thể dụng hợp nhất”, “Tâm vật dunghợp”, “Cảnh và tình hợp nhất”… đã thể hiện sự hài hoà thống nhất của tưtưởng triết học cổ đại Trung Quốc.2. Những đặc điểm của lịch sử triết học Phương Tây2.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đạiSự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại đã phản ánh cuộc đấu tranhgiữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà xét đến cùng là phản ánhcuộc đấu tranh giữa phái chủ nô dân chủ tiến bộ xét trong điều kiện lịch sửthời kỳ đó với phái chủ nô thượng lưu phản động.Triết học Hy Lạp cổ đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh của khoa họcchống thần học và tôn giáo. Các nhà khoa học đồng thời cũng là nhữngngười vô thần. Họ đưa ra và bảo vệ những quan điểm về khoa học tự nhiên,trong đó có học thuyết nguyên tử. Tuy chưa vạch ra hết nguồn gốc của thầnhọc và tôn giáo, nhưng những tư tưởng của họ đã góp phần to lớn vào cuộcđấu tranh chống tư tưởng hữu thần của các nhà triết học duy tâm.Chủ nghĩa duy vật của Hy Lạp cổ đại mang tính mộc mạc và tự phát.Đó là kết quả của khoa học tự nhiên còn ở thời kỳ nguyên thuỷ, mới phátsinh và bắt đầu phát triển. Các tri thức khoa học do các nhà triết học duy vậtnêu ra hầu như chỉ là sự phỏng đoán về thế giới xung quanh, chưa có cơ sởkhoa học vững chắc, song đó là những phỏng đoán thiên tài. Rất nhiềuphỏng đoán của họ sau này đã được khoa học thừa nhận và mở ra cho cácnhà khoa học những con đường để đi đến chân lý và phát triển các khoa học.Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thường dựa vào các sự vật, hiệntượng cụ thể như nước, không khí, lửa để nêu lên bản nguyên của thế giới.Tuy có nhà triết học đã đưa ra quan niệm trừu tượng hơn, song cũng chưathoát khỏi tính trực quan trong việc xác định bản nguyên của thế giới nhưĐêmocrit chẳng hạn.Một trong những đặc điểm cơ bản khác của triết học Hy Lạp cổ đại làtính chất biện chứng sơ khai tự phát. Những nhà triết học Hy Lạp đầu tiêncủa Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh và Aritxtôt-bộóc bách khoa nhất của các nhà triết học ấy cũng đã nghiên cứu những hìnhthức căn bản nhất của tư duy biện chứng.Xét về mặt lịch sử, tính biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại là mộtthành tựu vĩ đại. Song nó vẫn là biện chứng “ngây thơ”. Ăngghen đã nhậnxét: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét thế giới tự nhiên, lịch sử loàingười, hay dùng hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta, thì trước nhất,chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệvà những sự tác động qua lại, trong đó không có cái gì đứng nguyên, khôngthay đổi, mà tất cả đều vận động, biến hoá, phát sinh và mất đi. Cái thế giớiquan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quancủa các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêracrit trìnhbày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và cũng không tồn tại, vì mọi vậtđang trôi qua, mọi vật đều không ngừng biến hoá, mọi vật đều không ngừngphát sinh và tiêu vong”. Nhưng cách nhìn ấy, dù cho nó có đúng đến thế nàochăng nữa, tính chất chung của toàn bộ bức tranh về hiện tượng, vẫn khôngđủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ và chừng nàochúng ta chưa giải thích được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõđược bức tranh toàn bộ. Đó là hạn chế và sự thiếu sót lớn của triết học HyLạp cổ đại.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời trung cổLịch sử phát triển của xã hội Tây Âu thời trung cổ là sự tiếp nối của sựphát triển lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại. Tuy nhiên đây là cả giaiđoạn mà cả xã hội thống trị bởi hệ tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện đó,chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống. Cả xã hội chìm đắm và bịngưng trị bởi tư tưởng duy tâm, tôn giáo, thần học, và chủ nghĩa ngu dân. Vìvậy, triết học phục tùng thần học, phương pháp suy luận hình thức, viểnvông. Tôn giáo áp đặt sự thống trị của mình lên triết học, tư tưởng khoa họcvà tự do. Chủ nghĩa kinh viện không chấp nhận cái mới và sự tiến bộ.Thời kỳ này đã diễn ra hai cuộc đấu tranh giữa hai phái triết học là pháiduy danh và phái duy thực, phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượnggiữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Học thuyết duy danh gắn liềnvới khuynh hướng duy vật trong việc thừa nhận sự vật có trước, khái niệmcó sau. Học thuyết duy thực xem cái chung là tồn tại độc lập, có trước, sinhra cái riêng và không phụ thuộc vào cái riêng. Trong cuộc đấu tranh dai dẳngđó, các trào lưu triết học của phái duy danh đã đem đến một luồng sinh khímới. Đó là sự nhận thức thế giới thông qua kinh nghiệm, thực nghiệm, là sựgiải phóng và sự đề cao của thần học và sự tối tăm, trì trệ. Đây là mầm mốngchuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và sự phát triển mới của triếthọc và khoa học trong thời kỳ Phục hưng.Một nội dung mà triết học Tây Âu thời trung cổ đề cập là vấn đề conngười. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm, thần bí, họ xem con người là sảnphẩm của Thượng đế sang tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự mayrủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ con người thấp hơn trítuệ anh minh sáng suốt của Thượng đế. Do đó, triết học cũng hoàn toàn bấtlực trong việc cứu thoát con người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộcsống, nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnhphúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Con người bị thủ tiêu ý chí đấu tranh để tựgiải thoát mình. Khi phương thức tư bản chủ nghĩa ra đời, khoa học và triếthọc đã xác lập vị thế lịch sử tiên tiến của nó, thì con người mới có thể thoátkhỏi sự kìm hãm của triết học kinh viện và thế giới quan thần học trung cổ.Mặc dù quá trình phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ rất phứctạp, đầy mâu thuẫn, nhưng nó vẫn tuân theo quy luật phát triển kế thừa liêntục của lịch sử và của các hình thái ý thức xã hội. Nó chuẩn bị những hạtnhân hợp lý cho sự phục hồi chủ nghĩa duy vật cổ đại và phát triển vớinhững thành tựu rực rỡ trong thời kỳ Phục hưng.2.3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưngTriết học thời kỳ này là thế giới quan của triết học giai cấp tư sản đangở trong quá trình hình thành, phát triển. Sau “đêm trường trung cổ”, dưới sựthống trị của thần học và triết học kinh viện, thời kỳ này chủ nghĩa duy vậtđược khôi phục và phát triển. Sự khôi phục và phát triển đó lại gắn liền vớicuộc đấu tranh quyết liệt chống lại thần học và triết học kinh viện.Do tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật vớichủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, hơn nữa do ảnh hưởng rất lớn của thần học lúcbấy giờ nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chưa triệt để, nó vẫn mang tínhhình thức phiếm luận. Tuy nhiên trong đó, tư tưởng duy vật vẫn giữ vai tròchi phối.Triết học thời kỳ này đặc biệt đề cao vai trò con người, quan tâm đếnviệc giải phóng con người, mang lại quyền tự do cho con người.Thời kỳ này triết học có bước phát triển mới, dựa trên cơ sở các thànhtựu khoa học tự nhiên. Tuy nhiên giữa triết học và khoa học tự nhiên vẫnthống nhất chặt chẽ với nhau, chưa có sự phân chia rạch ròi. Trên cơ sởnhững thành tựu mới của khoa học tự nhiên, các nhà khoa học tự nhiên lại điđến những khái quát mới về mặt triết học. Các nhà khoa học tự nhiên đồngthời là các nhà triết học.Có thể nói triết học thời kỳ Phục hưng đã tạo ra một bước ngoặt trongsự phát triển của triết học sau “đêm trường trung cổ”. Nó tạo tiền đề cho triếthọc tiếp tục phát triển vào thời cận đại.2.4. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ cận đạiTriết học Tây Âu thời kỳ cận đại là sự phát triển tiếp tục các tư tưởngtriết học thời kỳ Phục hưng trong giai đoạn mới - giai đoạn cách mạng tư sảnvà sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên.Đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa tâm,của khoa học đối với tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là thế giớiquan của giai cấp tư sản cách mạng; là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sảntrong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội, xác lập xã hội tư bản.Do yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thờikỳ này khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và phát triểnmột cách mạnh mẽ. Nhờ những thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duyvật có một bước phát triển mới, nó có cơ sở khoa học vững chắc và đượcchứng minh về chi tiết.Do yêu cầu phát triển của khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này đặcbiệt chú ý đến những vấn đề nhận thức luận, về phương pháp nhận thức.Cuộc đấu tranh của phái duy cảm với duy lý; giữa phương pháp quy nạp vớiphương pháp diễn dịch đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm kiếmcác phương pháp nhận thức khoa học và góp phần thúc đẩy khoa học pháttriển.Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời kỳ Phục hưng, thời kỳ nàycác nhà triết học càng đề cao vị trí con người, giương cao ngọn cờ đấu tranhgiải phóng con người khỏi sự thống trị của phong kiến và giáo hội, mang lạiquyền tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho con người. Đây chính là vấn đềbức xúc của cuộc cách mạng tư sản đặt ra và nó có sức cổ vũ mãnh mẽ quầnchúng đứng lên làm cách mạng.Mặc dù thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối vớichủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nhưng hầu hết các nhà duy vật vẫn rơi vàophiếm thần luận, chỉ có một số ít nhà duy vật đi đến chủ nghĩa vô thần. Điềunày không chỉ do ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo mà còn do giai cấp tư sảnvẫn cần đến tôn giáo cho nên có lập trường thiếu triệt để.Do thói quen trong nghiên cứu khoa học chuyên môn, tách biệt khỏicác mối liên hệ chung, hơn nữa do sự thống trị của cơ học Niutơn, nên trongthời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình, máy móc vẫn giữ vai trò chi phối.2.5 Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển ĐứcTriết học cổ điển Đức nghiên cứu lịch sử của nhân loại, cũng như toànbộ quan hệ con người – tự nhiên theo quan niệm biện chứng. Vì vậy, quanniệm biện chứng về hiện thực là đặc điểm hết sức quan trọng của triết học cổđiển Đức. Trước những bước phát triển như vũ bão của khoa học và thựctiễn ở Châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII, đã cho thấy hạn chế của bức tranh cơhọc về thế giới. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biệnchứng trong di sản triết học từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trởthành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượngtự nhiên và xã hội. Hêghen đã phát hiện ra và phân tích một cách hệ thốngnhững quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trởthành một phương pháp luận, một cách tư duy, quan niệm về tất thảy mọi sựvật trong thế giới hiện thực. Phương pháp tư duy biện chứng của các nhàtriết học cổ điển Đức về sau được C.Mác cải biến duy vật, phát triển tiếp, trởthành thành linh hồn của chủ nghĩa Mác.Với cách nhìn biện chứng về toàn bộ hiện thực, nhiều nhà triết học cổđiển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhânloại đã đạt được từ trước tới lúc bấy giờ. Tiếp thu những tinh hoa của siêuhình học thế kỷ 17 trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá trithức của con người, các nhà triết học, nhất là Kant và Hêghen có ý đồ xâydựng một hệ thống triết học vạn năng của mình, làm nền tảng cho toàn bộcác khoa học và mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người, khôi phục lạiquan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Vì vậy, họ là nhữngbách khoa toàn thư, uyên bác không chỉ về tri thức triết học mà còn am hiểuvề khoa học tự nhiên, lịch sử, pháp quyền, tôn giáo… Dĩ nhiên quan niệmnày hiện nay không còn phù hợp, nhưng về phương diện lịch sử, nó đáp ứngnhu cầu khoa học cần hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người mà các nhàsiêu hình học là những người khởi sướng.3. So sánh đặc điểm của triết học Phương Đông và triết họcPhương Tây3.1 Sự giống nhauC.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng taphải hiểu được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theoC.Mác, tồn tại xã hội luôn quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồntại xã hội – những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Chính vì thế, cáctrào lưu triết học Phương Đông và Phương Tây đều được nảy sinh trênnhững điều kiện kinh tế - xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Xét trongmối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thì triết học là mộtyếu tố của kiến trúc thượng tầng, do đó các học thuyết triết học Đông – Tâyđều chịu sự quyết định của cơ sở hạ tầng và đến lượt nó cũng có vai trò hếtsức to lớn đối với cơ sở hạ tầng.Triết học Phương Đông và Phương Tây đều được hình thành, phát triểntrong cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp siêu hình vàphương pháp biện chứng. Thực chất cuộc đấu tranh này là một phần cuộcđấu tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những quanniệm duy vật thường gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến bộ trongxã hội và ngược lại những quan niệm duy tâm thường gần gũi và gắn liềnvới lực lượng lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.Triết học Phương Đông và Phương Tây có thể sử dụng những kháiniệm, phạm trù khác nhau nhưng đều phải bàn đến vấn đề cơ bản của triếthọc, đồng thời đều tuân theo những phương pháp chung trong nhận thức thếgiới: Phương pháp biện chứng hoặc Phương pháp siêu hình.Triết học Phương Đông và Phương Tây đều bàn đến vấn đề con ngườiở những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua nhữngthời kỳ lịch sử khác nhau đều có cách đánh giá khác nhau về con ngườiCác học thuyết triết học ở Phương Đông hay Phương Tây đều cókhuynh hướng chung là xâm nhập lẫn nhau, vừa có sự kế thừa giữa các họcthuyết, hoặc trong sự phát triển của học thuyết đó, vừa có sự đào thải, lọc bỏnhững quan niệm lạc hậu, hoặc những quan niệm không phù hợp với nhãnquan của giai cấp thống trị.Mỗi học thuyết trong triết học ở Phương Đông hay Phương Tây cũngvậy, đều có những mặt tích cực và hạn chế của nó nhưng đã góp phần tạonên những giá trị văn minh nhân loại.3.2 Sự khác nhauTriết học thuộc thượng tầng kiến trúc, bị chi phối bởi cơ sở hạ tầng, tồntại xã hội. Vậy những điều kiện sinh hoạt vật chất của Phương Đông vàPhương Tây có điểm gì khác nhau? C.Mác đã chỉ ra những điểm đặc trưngcủa xã hội truyền thống Ấn Độ nói riêng và Phương Đông nói chung, đó làxã hội nông nghiệp với chế độ công xã nông thôn – chế độ đem lại cho mỗiđơn vị nhỏ bé một cuộc sống cô lập, biệt lập. Cái xã hội truyền thống đómang tính chất thụ động, quân bình, ít thay đổi, kéo dài từ những thời hếtsức xa xưa cho đến 10 năm đầu của thế kỷ XIX. C.Mác đã dùng các kháiniệm “bất động”, “tĩnh” để chỉ xã hội Phương Đông. Khi phân tích các xãhội Daminđari và Raiatvari, ông cho rằng dù chúng có xấu xa như thế nào đichăng nữa, chúng cũng là hai hình thức tư hữu về ruộng đất, cái mà xã hộiChâu Á đang rất khát khao. Xét về điều kiện xã hội, ở Phương Tây có chế độnô lệ đại quy mô điển hình như ở Hy Lạp và La Mã. Với quá trình xuất hiệnnhà nước ở Hy – La đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển, từ đó chế độthị tộc, bộ lạc được thanh toán nhanh, quan hệ sản xuất mới ra đời. ỞPhương Đông, chế độ nô lệ có manh nha từ Nhà Ân (thế kỷ XIV Tr.CN),đến thời Tây Chu (1027-770 Tr.CN) nhà nước mang tính chất nô lệ ra đời. Ởđây nhà nước nô lệ không mang tính chất điển hình. Đến thời kỳ Xuân Thu -Chiến Quốc thật sự là một giai đoạn lịch sử mà các học giả cho rằng “xã hộiđại loạn”, “người ăn thịt người” nhưng đông thời lại là thời kỳ “bách giatranh minh” và nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên chỉ ra đời sau khiTần Thuỷ hoàng thống nhất nước Trung Quốc. Ở Ấn Độ cũng vậy, nhà nướcchiếm hữu nô lệ ra đời với sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt và nỗi thốngkhổ của người dân trong xã hội chính là cội nguồn cho sự ra đời của cáctrường phái triết học.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích khá chính xác về Phương Đông khiNgười cho rằng: Ở đó về cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội PhươngTây thời trung cổ cũng như thời cận đại và đấu tranh giai cấp ở đó khôngquyết liệt như ở Phương Tây (Hồ Chí Minh toàn tập – T1. NXB Chính trịQuốc gia, Hà Nội 1995, Tr.465). Như vậy, với những điều kiện kinh tế - xãhội khác nhau, triết học Phương Đông và Phương Tây tất yếu phải có nhữngđặc điểm khác nhau.Triết học Phương Tây thường đi từ thế giới quan, vũ trụ quan, bản thểluận đến nhân sinh quan, nhận thức luận, logic học để từ đó tạo nên một hệthống hoàn chỉnh, chặt chẽ thì triết học Phương Đông lại đi ngược lại nghĩalà từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Nếu như các nhà triết học Hy – La cổđại thường đi tìm những yếu tố đầu tiên tạo nên thế giới như nước, lửa,không khí… thì ở Phương Đông hai nhà tư tưởng lớn tiêu biểu là Khổng Tửvà Đức Phật lại không làm như vậy. Đứng trước xã hội loạn lạc thời XuânThu, Khổng Tử đã đưa ra học thuyết Nhân – đường lối đức trị nhằm ổn địnhtrật tự xã hội lúc bấy giờ. Bởi vậy có người coi học thuyết của Khổng Tử làhọc thuyết mang tính chất chính trị, xã hội – đạo đức chứ không phải là họcthuyết triết học, bởi lẽ nó hầu như không có phần bản thể luận hay vũ trụquan. Đến Mạnh Tử thời Chiến Quốc thì tình hình này hầu như không có gìthay đổi. Mãi đến thời Tống sau này, khiếm khuyết đó mới được bổ sungbằng những yếu tố thế giới quan, vũ trụ quan của Phật và Lão.Phật giáo cũng vậy, đầu tiên không phải đi vào xây dựng vũ trụ quanhay bản thể luận mà đối với Phật giáo vấn đề cấp bách là cứu khổ của chúngsinh. Bởi vậy, Phật giáo đưa ra phương pháp, biện pháp để cứu khổ, kêu gọichúng sinh hãy thấm nhuần và làm theo Tứ Diệu Đế. Có ý kiến cho rằng,Phật giáo không bao giờ bàn đến những vấn đề siêu hình trừu tượng.Như vậy, hai học thuyết cơ bản của Phương Đông là Nho giáo và Phậtgiáo đều đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan, trái ngược với triết họcPhương Tây. Có thể nói, nếu triết học Phương Tây đi từ gốc đến ngọn thìtriết học Phương Đông hầu như đi từ ngọn đến gốc.Nếu ở Phương Tây triết học thường gắn liền với những thành tựu khoahọc, đặc biệt là khoa học tự nhiên và nhà triết học thường là nhà khoa học,nhà bác học thì ở Phương Đông triết học thường gắn liền với tôn giáo. Triếthọc Ấn Độ và triết học Trung Quốc ngay từ đầu đã quyện lẫn với tôn giáo.Triết học Ấn Độ biểu hiện rõ nét hơn triết học Trung Quốc. Xã hội Ấn Độngay từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thần quyền đã ngự trị trên vương triều.Tình trạng này kéo dài không dưới bốn nghìn năm. Nói chung 9 trường pháicủa triết học Ấn Độ hoặc ít nhiều đều bắt nguồn từ Kinh Vêđa, một bộ kinhtối cổ xuất hiện khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II trước công nguyên. KinhVêđa cũng là kinh điển của đạo Bà la môn – Tôn giáo có mặt sớm nhất ở ẤnĐộ xa xưa. Như vậy, kinh Vêđa buổi đầu xuất hiện với tư cách là tôn giáochứ không phải tư cách triết học. Tính triết học rõ nét khi kinh Vêđa được bổsung thêm phần Upanisad sau này. Như vậy, triết học Ấn Độ thoát thai từtôn giáo và sống dựa vào tôn giáo chứ không đẩy lùi tôn giáo như PhươngTây. Kinh dịch xuất hiện từ thời Ân – Chu ở Trung Quốc cũng với tư cách làtôn giáo nhiều hơn là triết học. Như vậy, triết học từ Dịch truyện cũng dựavào tôn giáo để tồn tại. Thời Hán, Đổng Trọng Thư đã giải quyết khôn khéomối quan hệ giữa tôn giáo – triết học – chính trị - đạo đức. Ông đã làm độngtác thống nhất giữa chính trị và đạo đức để rồi tôn giáo cả chính trị lẫn đạođức.Mục đích của triết học Phương Tây là giải thích và cải tạo thế giới.Điều này đã được C.Mác chỉ rõ: Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thếgiới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới. Còn mụcđích của triết học Phương Đông lại nhằm xây dựng một xã hội có trật tự kỷcương và hòa mục, nhân ái (Nho giáo); giải thoát cho con người (Phật giáo)và làm cho con người hoà đồng với thiên nhiên (Đạo gia).Về đối tượng giữa triết học Phương Tây và triết học Phương Đông cóđiểm gì khác nhau? Đối tượng của triết học Phương Tây rất rộng, bao gồmtoàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy nhưng nó lấy tự nhiên làm gốc, làm cơ sở.Vì đối tượng nghiên cứu rộng như vậy nên phạm vi tri thức của nó cũng rấtrộng, bao gồm mọi lĩnh vực. Triết học Phương Tây lấy tự nhiên làm gốc nênnó hơi ngả sang hướng ngoại, lấy bên ngoài giải thích bên trong. Điều đóquy định tính chất của triết học Phương Tây là hơi ngả về duy vật. Khuynhhướng trội này còn được chứng minh bởi nó đi từ thế giới quan đến nhânsinh quan, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Điều đó đã đượcchứng minh: trong 7 trường phái triết học thời Hy Lạp – La Mã cổ đại thì cóđến 5 trường phái là duy vật, chỉ có 2 trường phái là duy tâm (Platon,Pithagore).Trong khi đó, đối tượng của triết học Phương Đông lại là xã hội, cánhân con người, là cái tâm và cái nhìn chung nó lấy con người làm gốc.Chính vì thế, vấn đề cơ bản của triết học, được triết học Phương Đông bànđến là vấn đề: Thiên – Địa – Nhân (trời đất và con người). Điều đó quy địnhtri thức của triết học Phương Đông chủ yếu là về xã hội, chính trị, đạo đức,tâm linh. Nếu triết học Phương Tây hơi nghiêng về hướng ngoại thì triết họcPhương Đông hơi nghiêng về hướng nội. Nếu triết học Phương Tây lấyngoài giải thích trong thì triết học Phương Đông lại lấy trong giải thíchngoài. Nếu triết học Phương Tây hơi ngả về Duy vật thì triết học PhươngĐông hơi ngả về Duy tâm. Trong triết học Ấn Độ cổ đại có 9 trường phái thìđến 8 trường phái duy tâm, chỉ còn lại một trường phái duy vật là Lokayata,điều này được lý giải bởi triết học Ấn Độ đi từ nhân sinh quan đến thế giớiquan.Triết học Phương Đông từ thời xa xưa đã thiên về đạo đức. Học thuyếtNhân của Khổng Tử đã ngự trị suốt mấy nghìn năm trong lịch sử Trung Hoalà học thuyết đạo đức – chính trị. Phàn Trì hỏi thầy về chữ Nhân, Khổng Tửtrả lời: Yêu người. Tiếp đó Phàn Trì lại hỏi về trí tuệ, Khổng Tử trả lời: hiểuvề con người. Như vậy, nội dung học thuyết của Khổng Tử là học thuyết vềđạo đức nhân văn. Phật giáo ở Ấn Độ cũng vậy, luôn khuyên con người phảikhuyến thiện, làm phước, lời nói phải ngay thẳng, chân chính… Mặc dù,Pháp gia ở Trung Quốc lại chú trọng đến tài năng, trí tuệ, nhưng nhìn chungtriết học Phương Đông có khuynh hướng chung là thiên về đạo đức. ngượclại, khuynh hướng chung của triết học Phương Tây là tuyệt đối hoá trí tuệ,đặc biệt là thời kỳ ánh sáng (thế kỷ XVII-XVIII) người ta đã xem trí tuệ nhưđôi đũa thần kỳ của nàng tiên trong truyện Lọ Lem có thể đem lại cho nhânloại mọi thứ trên đời.Triết học Phương Tây thiên về trí tuệ phù hợp với sự phát triển của Chủnghĩa tư bản, dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị lợi,phát huy tính phiến diện này đến đỉnh cao trong nền kinh tế thị trường. Chonên cùng với nó là sự suy thoái về đạo đức là dĩ nhiên. Mà sự suy thoái vềđạo đức ở Phương Tây là từ biểu hiện tan giã gia đình. Trong lúc đó, ởPhương Đông đạo đức lại được củng cố ngay từ gia đình. Cho nên tinh thầncộng động, họ hàng đặt Nghĩa lên trên Lợi luôn đè bẹp sự trỗi dậy của chủnghĩa cá nhân theo kiểu Phương Tây.Về phương tiện, phương pháp nhận thức giữa triết học Phương Tây vàtriết học Phương Đông có điểm gì khác nhau? Nếu triết học Phương Tây hơingả về tư duy duy lý, phân tích, mổ xẻ thì triết học Phương Đông hơi ngả vềtrực giác. Phương pháp tư duy duy lý đã tạo ra những điều kiện cho sự pháttriển của khoa học kỹ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà các nước PhươngTây hoặc Phương Tây hóa có nền khoa học công nghệ đứng đầu thế giới.Nhưng xét ở góc độ triết học, phương pháp này có mặt yếu của nó. Nhưchúng ta đã biết, quá trình nhận thức, quá trình đi đến chân lý cuối cùng làvô hạn. Theo Lênin, con người không thể nắm bắt giới tự nhiên một cáchđầy đủ như là chỉnh thể trong tính “chỉnh thể trực tiếp” của giới tự nhiên; tấtcả những cái mà con người có thể nhận thức được là đi gần mãi đến đó bằngcách tạo ra những trừu tượng, những khái niệm, những quy luật – một bứctranh khoa học về vũ trụ.Phương pháp trực giác là sự cảm nhận hay thể nghiệm, đó là đặc điểmnổi bật của phương thức tư duy của triết học Phương Đông. Cảm nhận (haythể nhận) tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vậtăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều chiều trong chốc lát, từ đónắm vững bản thể. Đặc biệt là các nhà tư tưởng triết học Trung Quốc đềuquen với những phương thức tư duy trực giác. Nho gia chủ trương “phảntĩnh cầu nội”, Đạo gia chăm chút “toả vong”, Phật học có phép “đốn ngộ”,Lý học đề xướng “Trí lương tri”…Phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái “tâm”,coi “tâm” là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”, rất ít đi sâuphân tích quá trình tác động của “tâm”. Vì vậy trong các tác phẩm triết họccủa họ thường rời rạc, phần ám thị nhiều hơn, thiếu sự chứng minh chu đáo.Mặt khác, cũng phải thấy rằng, các triết gia Phương Đông đi sâu nhấnmạnh tính chỉnh thể hợp nhất của các khái niệm và phạm trù, không tìm hiểusự khác biệt về bản chất giữa chúng, chỉ nắm chỉnh thể ở cảm nhận. Nhưvậy, nếu dùng quan điểm chỉnh thể để nắm sự vật thì phương thức tư duytrực giác “gặp sự vật là hiểu nội dung” tỏ ra quan trọng, còn phương thức đitừ phân tích nội hàm và ngoại diên của khái niệm dẫn đến suy luận logic lạithừa.Sự sáng tạo phương thức tư duy trực giác đương nhiên là sự sáng tạo trítuệ siêu phàm của tư tưởng triết học Phương Đông, nhưng do thiếu sự luậnchứng và phân tích cho nên các khái niệm, phạm trù thường là trực giác,thiếu suy tính logic, do thiếu phương pháp cần thiết để xây dựng một hệthống lý luận khoa học. Nhưng phương pháp trực giác lại đạt đến cái mà tưduy duy lý phân tích, mổ xẻ không bao giờ có được. Nó là phương thức phùhợp với đối tượng vận động.Thực ra hai phương pháp trội của hai nền triết học này có mối liên hệmật thiết với nhau, không tách rời nhau và bổ sung cho nhau. Nếu không cóphân tích, mổ xẻ thì làm sao mà hiểu được sự vật, hiện tượng. Nhưng nếucho nó là tuyệt đối duy nhất thì lại là sai lầm. Đối với nhiều lĩnh vực,phương pháp phân tích tỏ ra rất yếu ớt, hạn chế trong khi đó phương pháptrực giác lại tỏ ra khá thích hợp. Bởi vậy, tuỳ từng lĩnh vực, đối tượng màphương pháp nào là nổi trội nhưng cũng không loại trừ hoàn toàn phươngpháp khác.Một điểm khác nhau có tính phương pháp luận giữa hai nền triết họcĐông Tây là ở chỗ: triết học Phương Tây tách rời chủ thể và khách thể, chủquan và khách quan, người nhận thức và đối tượng nhận thức. Trong khi đó,triết học Phương Đông lại cho rằng, muốn hiểu đối tượng thì phải hoà vàođối tượng. Con người phải hài hoà với thiên nhiên.Ngày nay một số bậc học giả cho rằng khuynh hướng trội của PhươngTây là hướng ngoại, chủ động tư duy lý luận, đấu tranh sống còn, hiếu chiến,cạnh tranh, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy luận, khoa học, tưduy, cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể… còn khuynh hướng trội của PhươngĐông là hướng nội, bị động, trực giác huyền bí, hoà hợp, quân bình, thốngnhất, hợp tác, giữ gìn, tập thể, tổng hợp, minh triết, trực giác, tôn giáo, tâmlý, tâm linh, tư duy hữu cơ, chú ý nhiều tới quan hệ… thiết nghĩ đây là mộtvấn đề lớn cần phải được phân tích và lý giải.KẾT LUẬNWill Durant – Nhà triết gia, sử gia đã viết: “Chúng ta sẽ ngạc nhiên nếuđược biết các món nợ tinh thần của chúng ta đối với Ai Cập và PhươngĐông, nợ về các phát minh hữu ích cũng như về tổ chức chính trị, kinh tế, vềkhoa học, văn chương, triết học, tôn giáo. Hiện nay Châu Á tràn trề một sinhlực mới, càng ngày càng mau đuổi kịp Châu Âu và chúng ta có thể đoánđược rằng vấn đề quan trọng của thế kỷ XX sẽ là sự xung đột giữa Đông vàTây; vậy thì viết sử mà có óc hẹp hòi theo truyền thống cũ, bắt đầu bằng sửHy Lạp, chỉ chép vài hàng về sử Châu Á… thì là thiển cận, thiếu hiểu biết,hậu quả có thể tai hại. Tương lai ở phía Thái Bình Dương và chúng ta phảihướng cặp mắt và trí óc về phía đó”. Đúng thật vậy, có một thời gian dài,chúng ta chỉ nghiên cứu triết học Phương Tây, chính vì thế chúng ta khôngnhận thức được những giá trị của triết học Phương Đông. Không thấy đượcsự khác nhau giữa đặc điểm triết học Phương Đông và Phương Tây.Ngày nay, các trào lưu triết học Phương Đông vẫn còn ảnh hưởng rấtlớn trong xã hội Phương Đông hiện đại, đặc biệt là Nho giáo và Phật giáo.Các nhà tư tưởng đang tìm mọi cách để khai thác những yếu tố tích cực củatriết học Phương Đông, để góp phần tạo nên nguồn lực thúc đẩy sự pháttriển kinh tế - xã hội. Các trào lưu của triết học Phương Tây hiện đại ngàynay phản ánh sâu sắc những mâu thuẫn khách quan của xã hội tư bản hiệnđại. Trong đó chủ nghĩa duy lý là động lực tạo nên nền văn minh hiện đại,còn chủ nghĩa phi duy lý lấy nhân tố con người để “tự cai trị” trong một xãhội ngày càng bị duy lí hoá đe doạ cuộc sống của con người. Hai xu hướngtriết học đó lại được tăng cường bởi triết học tôn giáo. Chúng không hoàntoàn đối lập nhau một cách tuyệt đối mà dựa vào nhau, bổ sung cho nhau để23đáp ứng sự tồn tại và phát triển của con người trong thế giới Phương Tâyhiện đại. Nhưng trong thực tế, xã hội tư bản hiện đại đã sản sinh ra những cánhân vị kỷ, tình trạng bạo lực… đe doạ sự bất ổn trong xã hội. Và hiện nay,các nhà tư tưởng Phương Tây đang quay về nghiên cứu Phương Đông đểhọc tập cái hay, cái đẹp của Phương Đông, đúng như dự đoán của sử giangười Pháp Y.Michelet: “Người nào đã từng hành động hoặc ham muốn quánhiều, hãy uống cạn ly rượu đầy sức sống và tươi trẻ này. Ở Phương Tây cáigì cũng chật hẹp. Hy Lạp nhỏ bé làm cho tôi ngột ngạt. Xứ Do Thái khôkhan làm cho tôi khó thở. Hãy để cho tôi hướng về Châu Á cao cả vàPhương Đông thâm trầm trong giây lát”.Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta phải có nhiệm vụ nghiêncứu những giá trị của triết học Phương Đông và Phương Tây, đặc biệt là triếthọc Phương Đông. Bởi lẽ chính lịch sử tư tưởng Việt Nam ảnh hưởng khásâu sắc những học thuyết triết học Phương Đông như Nho giáo, Phật giáo,Đạo gia. Những học thuyết đó trong lịch sử đã bị “Việt Nam hoá” và lànhững thành tố tạo nên bề dày của bản sắc văn hoá Việt Nam. Để từ đó pháthuy nội lực, phát huy những giá trị truyền thống trong sự nghiệp côngnghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước./
Tài liệu liên quan
- Tiểu luận sự hình thành và phát triển của kiểm toán nhà nước việt nam
- 25
- 2
- 11
- Tài liệu Tiểu luận "Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán" ppt
- 43
- 899
- 3
- Tài liệu Tiểu luận - Sự hình thành và phát triển xã hội học Đức cuối thê kỷ XIX đầu thế kỷ XX docx
- 40
- 2
- 25
- TIỂU LUẬN: Sự hình thành và phát triển thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty xuất nhập khẩu nam sơn pptx
- 19
- 736
- 1
- tiểu luận sự lựa chọn và thích nghi trong chiến lược và thay đổi
- 23
- 303
- 0
- Tiểu luận sự tinh chế và đặc điểm của serin protease từ khuẩn bacillus laterosporus AK1 kiềm,chịu nhiệt
- 21
- 707
- 0
- Tiểu luận: Sự hình thành và phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam doc
- 22
- 575
- 1
- TIỂU LUẬN SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
- 20
- 6
- 102
- tiểu luận Sự ra đời và quá trình phát triển của Phố Hiến
- 16
- 1
- 0
- tiểu luận Sự giống và khác nhau trên con đường cứu nước của Inđônêxia và Việt Nam.
- 29
- 1
- 0
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(143 KB - 20 trang) - TIỂU LUẬN SỰ GIỐNG NHAU VÀ KHÁC NHAU GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Tiểu Luận So Sánh Triết Học Phương đông Và Phương Tây
-
Tiểu Luận So Sánh Sự Khác Nhau Giữa Triết Học Phương Đông Và Triết ...
-
3 Mẫu Tiểu Luận So Sánh Sự Khác Nhau Giữa Triết Học Phương Đông ...
-
Tiểu Luận: Điểm Khác Biệt Căn Bản Giữa Triết Học Phương Đông Và ...
-
Tiểu Luận Tìm Hiểu Hai Nền Triết Học Phương đông ... - Tài Liệu - Ebook
-
[DOC] Sự Giống Nhau Giữa Triết Học Phương đông Và Phương Tây - 5pdf
-
[DOC] Sự Khác Nhau Giữa Triết Học Phương đông Và Phương Tây - 5pdf
-
Tiểu Luận Triết Học: Sự Khác Biệt Giữa Triết Học Phương Đông Và ...
-
Top 15 Bài Mẫu Tiểu Luận Triết Học Chọn Lọc Mới Nhất - Tải Miễn Phí
-
Sự Khác Biệt Giữa Triết Học Phương đông Và Phương Tây', Luận Văn
-
SỰ KHÁC NHAU CƠ BẢN GIỮA TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ ...
-
Vài So Sánh Giữa Triết Học Phương Đông Và Triết Học Phương Tây
-
Vài So Sánh Giữa Triết Học Phương Đông Và Triết Học Phương Tây
-
Danh Sách Tài Tiểu Luận Triết Học Phương Đông Và Phương Tây
-
Tiểu Luận Triết Học - PDFCOFFEE.COM