Tiểu Sử Tổ Lâm Tế – Nghĩa Huyền Thiền Sư (Khai Tổ Tông Lâm Tế

Fb-Button

TIỂU SỬ

TỔ LÂM TẾ – NGHĨA HUYỀN 臨 濟 義 玄 (787-867)

Khai Tổ tông Lâm Tế – Thiền Tông Trung Hoa

oOo

Tổ Sư Lâm Tế họ Hình, sinh năm Đinh Mão (787), niên hiệu Trinh Nguyên thứ 3 triều vua Đường Đức Tông, tại Nam Hoa thuộc Tào Châu (nay là huyện Đông Minh, tỉnh Sơn Đông). Thuở nhỏ Ngài đã tỏ ra có chí xuất trần, đến lớn xuất gia thọ Cụ-túc giới hiệu là Nghĩa Huyền.

Ngài thường dừng các nơi giảng pháp, nghiên cứu tinh tường giới luật, thâm hiểu kinh luận nhưng than rằng: “Đây là phương thuốc cứu đời, chưa phải yếu chỉ của giáo ngoại biệt truyền”. Ngài liền đi du phương và đầu tiên đến pháp hội của Hoàng Bá.

Tại đây, Ngài oai nghi nghiêm chỉnh, đức hạnh chu toàn; Thủ tọa (Trần Tôn Túc) thấy khen rằng “tuy là hậu sanh cùng Chúng chẳng giống.” Thủ tọa bèn hỏi: Thượng Tọa ở đây được bao lâu?

Ngài thưa: Ba năm.

– Từng tham vấn chưa?

– Chưa từng tham vấn, cũng chẳng biết tham vấn cái gì.

– Sao Thầy không đến hỏi Hòa Thượng Đường Đầu, thế nào là đại ý Phật Pháp.

Ngài liền đến hỏi, chưa dứt lời, Hoàng Bá liền đánh! Ngài trở xuống, thủ tọa hỏi: Hỏi thế nào?

Ngài thưa: Tôi hỏi lời chưa dứt Hòa Thượng liền đánh, tôi chẳng hội.

– Nên đi hỏi nữa.

Ngài lại đến hỏi, Hoàng Bá lại đánh! Cứ như vậy, ba phen hỏi, bị ba lần đánh. Ngài đến bạch thủ tọa: Nhờ lòng từ bi của Thầy dạy tôi đến thưa hỏi Hòa Thượng, ba phen hỏi bị ba lần đánh. Tôi tự buồn chướng duyên che đậy không lãnh hội được thâm chỉ, nay xin từ giã ra đi.

– Nếu khi Thầy đi nên đến giã từ Hòa Thượng rồi sẽ đi.

Ngài lễ bái trở về phòng. Thủ tọa đến thất Hòa Thượng trước, thưa: Người đến thưa hỏi ấy, thật là đúng pháp. Nếu khi đến từ, Hòa Thượng dùng phương tiện tiếp y, về sau đục đẽo sẽ thành một gốc đại thọ che mát người trong thiên hạ.

Ngài đến từ, Hoàng Bá bảo: Chẳng nên đi chỗ nào khác, ngươi đi thẳng đến Cao An chỗ Thiền Sư Đại Ngu, ông ấy sẽ vì ngươi nói.

Ngài đến Đại Ngu. Đại Ngu hỏi: Ở chỗ nào đến?

Ngài thưa: Ở Hoàng Bá đến.

– Hoàng Bá có dạy lời gì?

– Con ba phen hỏi đại ý Phật Pháp, ba lần bị đánh. Chẳng biết con có lỗi hay không lỗi?

– Bà già Hoàng Bá đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi?

Ngay câu nói ấy, Ngài đại ngộ. Ngài thưa: Xưa nay Phật Pháp của Hoàng Bá không nhiều.

Đại Ngu nắm đứng lại, bảo: Con quỷ đái dưới sàng, vừa nói có lỗi không lỗi; giờ lại nói Phật Pháp của Hoàng Bá không nhiều. Ngươi thấy đạo lý gì nói mau! Nói mau!

Ngài liền cho vào hông Đại Ngu ba thoi! Đại Ngu buông ra, nói: Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì việc của ta.

Ngài lại từ tạ Đại Ngu trở về Hoàng Bá. Hoàng Bá thấy Ngài về, liền bảo: Kẻ này đến đến đi đi, biết bao giờ liễu ngộ.

Ngài thưa: Chỉ vì tâm lão bà quá thiết tha nên nhân sự đã xong, đứng hầu.

– Đến đâu về?

– Hôm trước vâng lời dạy của Hòa Thượng đến tham vấn Đại Ngu trở về.

– Đại Ngu có lời dạy gì?

Ngài liền thuật lại việc trước. Hoàng Bá bảo: Lão Đại Ngu này đã buông lời, đợi đến đây ta cho ăn đòn.

Ngài tiếp: Nói gì đợi đến, ngay bây giờ cho ăn.

Ngài liền bước tới sau lưng Hoàng Bá tát một tát! Hoàng Bá bảo: Gã phong điên này lại đến trong ấy nhổ râu cọp.

Ngài liền hét! Hoàng Bá gọi: Thị giả! Dẫn gã phong điên này lại nhà thiền.

oOo

Ngài trồng tùng, Hoàng Bá hỏi: Trong núi sâu trồng tùng làm gì?

Ngài thưa: Một cho sơn môn làm cảnh trí, một cho người sau làm tiêu bảng.

Nói xong, Ngài trở đầu cuốc đánh xuống đất ba cái. Hoàng Bá bảo: Tuy nhiên như thế, con đã ăn ba mươi gậy của ta rồi.

Ngài lại dùng đầu cuốc đánh xuống đất ba cái, cất tiếng: “Hư! Hư.!” Hoàng Bá bảo: Tông của ta đến con rất hưng thạnh ở đời.

Một hôm, Ngài ngồi trước tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, liền trở về phương trượng. Ngài theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu ở đó, Hoàng Bá bảo: Vị Tăng đây tuy là hậu sanh lại biết có việc này.

Thủ tọa thưa: Hòa Thượng già dưới gót chân chẳng dính đất, lại chứng cứ kẻ hậu sanh.

Hoàng Bá liền vả trên miệng một cái! Thủ tọa thưa: Biết là được.

oOo

Ngài ngủ trong tăng đường, Hoàng Bá đến thấy, lấy gậy đánh bảng một tiếng. Sư ngóc đầu xem thấy Hoàng Bá liền nhắm mắt. Hoàng Bá lại đánh bảng một tiếng, đi đến gian trên thấy Thủ tọa ngồi thiền. Hoàng Bá bảo: Gian dưới hậu sanh ngồi thiền, ông trong đây vọng tưởng làm gì?

Thủ tọa nói: Ông già làm gì?

Hoàng Bá đánh bảng một tiếng, liền đi ra.

Một hôm, ngày lao tác công cộng, Ngài đi sau, Hoàng Bá ngó ngoái lại thấy Ngài đi tay không bèn hỏi: Cuốc đâu?

Ngài thưa: Có người đem đi rồi.

Hoàng Bá gọi: Lại gần đây cùng ngươi bàn luận một việc.

Ngài lại gần. Hoàng Bá dựng đứng cây cuốc bảo: Chỉ cái này, mọi người nắm bắt chẳng được.

Ngài chụp tay giựt lấy cây cuốc, đưa lên nói: Tại sao lại ở trong tay của con?

Hoàng Bá nói: Ngày nay đã có người thay lao tác.

Hoàng Bá trở về viện.

oOo

Đang lao tác cuốc đất, thấy Hoàng Bá đến, Ngài bèn dựng cuốc, đứng. Hoàng Bá hỏi: Gã này mệt sao?

Ngài thưa: Cuốc vẫn chưa giở, mệt cái gì?

Hoàng Bá liền đánh! Ngài chụp cây gậy, cho một đạp té nhào! Hoàng Bá gọi: Duy-na! Duy-na! Đỡ ta dậy.

Duy-na chạy lại đỡ dậy nói: Hòa Thượng đâu dung được gã phong điên này!

Hoàng Bá vừa đứng dậy, liền đánh Duy-na! Ngài cuốc đất nói: Các nơi thì hỏa táng, còn tôi một lúc chôn sống.

oOo

Ngài mang thơ Hoàng Bá đến Quy Sơn. Khi ấy Ngưỡng Sơn – Huệ Tịch làm tri khách, tiếp được thơ liền hỏi: Cái này là của Hoàng Bá, cái kia là của người đem thơ.

Ngài liền tát! Ngưỡng Sơn nắm đứng lại nói: Lão huynh biết việc ấy?

Ngài liền thôi, hai người cùng đến Quy Sơn. Quy Sơn hỏi: – Sư huynh Hoàng Bá có chúng nhiều ít?

Ngài thưa: Bảy trăm chúng.

– Người nào dẫn đầu?

– Vừa đem thơ xong.

Ngài lại hỏi Quy Sơn: Khoảng này Hòa Thượng được bao nhiêu chúng?

Quy Sơn đáp: Một ngàn năm trăm chúng.

– Thật nhiều thay!

– Sư huynh Hoàng Bá cũng chẳng ít.

Ngài từ Quy Sơn, Ngưỡng Sơn đưa ra cửa nói: Chỉ đi, về sau có một người phụ tá lão huynh, người này có đầu không đuôi, có thủy không chung(1).

oOo

Giữa hạ Ngài đến gặp Hoàng Bá, thấy Hòa Thượng xem kinh. Ngài nói: Tôi sẽ bảo người ấy, xưa nay là Hòa Thượng già đâm đậu đen (ý: mức đen trên giấy trắng).

Ngài ở lại mấy hôm, bèn từ đi.

Hoàng Bá bảo: Ngươi phá hạ đến, sao chẳng trọn hạ rồi đi?

Ngài thưa: Con tạm đến lễ bái Hòa Thượng.

Hoàng Bá bèn đánh, đuổi đi. Ngài đi được mấy dặm, nghĩ việc này liền trở lại ở trọn hạ.

Một hôm, Ngài từ Hoàng Bá. Hoàng Bá hỏi: Đi đâu?

Ngài thưa: Chẳng phải Hà Nam là về Hà Bắc.

Hoàng Bá liền đánh! Sư nắm đứng lại, cho một tát! Hoàng Bá cười to, gọi: Thị giả! đem thiền bảng, kỷ án của Tiên Sư Bá Trượng ra đây.

Ngài gọi: Thị giả! Đem lửa lại.

Hoàng Bá bảo: Tuy nhiên như thế, con vẫn đem đi; về sau ở đâu sẽ dẹp sạch ngôn ngữ của mọi người.

oOo

Ngài đến Hòa Thượng Bình ở Tam Phong. Bình hỏi: Ở đâu đến?

Sư đáp: Ở Hoàng Bá đến.

– Hoàng Bá có dạy lời gì?

– Đêm qua trâu vàng gặp đất tro, thẳng đến hôm nay chẳng thấy dấu (Kim ngưu tạc dạ tao đồ thán, trực chí như kim bất kiến trung).

Bình nói: Gió vàng thổi sáo ngọc, cái gì là tri âm (Kim phong suy ngọc quản, na cá thị tri âm).

Ngài nói: Suốt thẳng muôn lớp cổng, chẳng dừng trong giữa đêm (Trực thấu vạn trùng quan, bất trụ thanh tiêu nội).

Bình nói: Một câu hỏi của ngươi cao tột trời xanh.

Ngài lại nói: Rồng sanh con phụng vàng, vọt nát vách lưu ly (Long sanh kim phụng tử, xung phá bích lưu ly).

Bình bảo: Hãy ngồi uống trà.

Lại hỏi: Vừa ở đâu đến?

Ngài thưa: Long Quang.

Bình hỏi: Long Quang gần đây thế nào?

Ngài liền ra đi.

oOo

Ngài đến Phụng Lâm, Lâm hỏi: Có việc đem hỏi nhau được chăng?

Ngài đáp: Đâu được khoét thịt làm thương tích.

Lâm nói: “Trăng biển lặng không bóng, cá lội tự làm mê”. (Hải nguyệt trừng vô ảnh, du ngư độc tự mê).

Ngài đáp: Trăng biển đã không bóng, cá lội đâu thể lầm (Hải nguyệt ký vô bóng, du ngư hà đắc mê).

Lâm nói: Xem gió biết sóng dậy, nhìn nước đoán buồm bay (Quán phong tri lãng khởi, ngoạn thủy dã phàm phiêu).

Ngài đáp: Một vầng riêng chiếu non sông lặng, chợt cười một tiếng đất trời kinh (Cô luân độc chiếu giang sơn tịnh, tự tiếu nhất thanh thiên địa kinh).

Lâm nói: Mặc đem ba tấc soi trời đất, một câu hợp lý thử bàn xem (Nhậm tương tam thốn huy thiên địa, nhất cú lâm cơ thức đạo khan).

Ngài nói: Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ (Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm, bất thị thi nhân mạc hiến thi).

Phụng Lâm liền thôi. Ngài để bài tụng:

Đại đạo tuyệt đồng Nhậm hướng tây đông Thạch hỏa mạc cập Điển quang võng thông.

Dịch:

Đại đạo hẳn đồng Mặc hướng tây đông Đá lửa chẳng kịp Lằn chớp không thông.

oOo

Đã được Hoàng Bá ấn khả, Ngài tìm đến Hà Bắc ở góc nam thành Đông Trấn Châu, gần sông Hô Đà đất Lâm Tế trụ trì một viện nhỏ. Nơi đây Phổ Hóa đã ở trước. Mỗi khi có thiền giả đến tham đạo, Ngài thường dùng tiếng hét và gậy đánh để khai ngộ. Ngài đã tạo nên một sắc thái mới đặc thù của Thiền Tông nên mọi người mới gọi là tông Lâm Tế.

Một hôm, Ngài gọi Phổ Hóa, Khắc Phù đến bảo: Ta muốn ở đây dựng lập tông chỉ Hoàng Bá, hai ông hãy giúp đỡ ta.

Hai vị trân trọng lui ra. Ba ngày sau, Phổ Hóa đến hỏi: Ba ngày trước Hòa Thượng nói gì?

Ngài liền đánh! Ba ngày sau, Khắc Phù lại lên hỏi: Ba ngày trước Hòa Thượng đánh Phổ Hóa là sao?

Ngài cũng đánh!

oOo

Phủ chủ Vương Thường Thị cùng các quan thỉnh Ngài đăng tòa. Ngài thượng đường bảo:

– Hôm nay sự bất đắc dĩ, sơn tăng chiều theo nhân tình mới lên tòa này. Nếu nhằm dưới cửa tổ tông, khen ngợi việc lớn, hẳn là mở miệng chẳng đặng, không có chỗ các ông để chân. Hôm nay, do Thường Thị cố thỉnh, sơn tăng tạm ẩn cương tông. Trong đây nếu có tác gia (bậc minh sư), chiến tướng liền xổ cờ bày trận đi! Đối chúng chứng cứ xem.

Tăng hỏi: Thế nào là đại ý Phật Pháp?

Ngài liền hét! Tăng lễ bái. Ngài bảo: Ông thầy này lại nên bàn luận.

– Thầy tuyên dương gia khúc tông phong ai? Nối pháp vị nào?

– Ta ở chỗ Hoàng Bá ba phen thưa hỏi ba lần bị đánh.

Vị Tăng suy nghĩ, Ngài liền hét, và theo sau đánh, nói: Không thể đến trong hư không mà đóng đinh.

Có tọa chủ hỏi: Ba thừa và mười hai phần giáo đâu chẳng phải chỉ rõ Phật Tánh?

Ngài đáp: Cỏ hoang chưa từng cuốc.

– Phật đâu dối người?

– Phật ở chỗ nào?

Tọa chủ không đáp được. Ngài tiếp:

– Ở trước Thường Thị định làm mờ lão tăng, lui mau! lui mau! Làm chướng ngại người khác thưa hỏi. Hôm nay pháp hội vì một đại sự, lại có người thưa hỏi chăng? Mau đến hỏi đi. Ông vừa mở miệng đã chẳng dính dáng. Vì sao như thế? Đâu chẳng nghe Thích Tôn nói: “Pháp lìa văn tự, vì chẳng thuộc nhân chẳng ở duyên.” Bởi các ông tin chẳng đến, cho nên ngày nay mới dùng phương tiện (cát đằng) sợ e Thường Thị cùng các quan viên lầm Phật Tánh ấy, chi bằng hãy lui.

Ngài hét một tiếng! nói tiếp: Người gốc tin kém, trọn không có ngày xong, đứng lâu, trân trọng!

oOo

Ngài thượng đường bảo:Trên cục thịt đỏ có vô vị chân nhân, thường từ cửa mặt các ông ra vào. Người chưa được chứng cứ hãy xem! xem!

Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là vô vị chân nhân?

Ngài bước xuống tòa nắm lấy, đứng bảo: Nói! Nói!

Vị Tăng ấy suy nghĩ. Ngài liền buông ra, nói: Vô vị chân nhân là cái gì, cục cứt khô.

Ngài liền trở về phương trượng.

Tham vấn buổi chiều, Ngài dạy Chúng: Có khi đoạt nhân chẳng đoạt cảnh. Có khi đoạt cảnh chẳng đoạt nhân. Có khi nhân cảnh đều đoạt. Có khi nhân cảnh đều chẳng đoạt.

Tăng hỏi: Thế nào là đoạt nhân chẳng đoạt cảnh?

Ngài đáp: Ngày ấm nẩy sanh gấm trải đất, trẻ con rủ tóc trắng như tơ (Hú nhật phát sanh phô địa cẩm, anh hài thùy phát bạch như ty).

– Thế nào đoạt cảnh chẳng đoạt nhân?

– Lệnh vua vừa xuống khắp thiên hạ, tướng quân biên ngoại khói mù tan (Vương lệnh dĩ hành thiên hạ biến, tướng quân tắc ngoại tuyệt yên trần).

– Thế nào nhân cảnh đều đoạt?

– Bặt tin tịnh phần, riêng ở một chỗ (Tịnh phần tuyệt tín, độc xử nhất phương).

– Thế nào nhân cảnh đều chẳng đoạt?

– Vua lên điện báu, lão quê hát ca (Vương đăng bảo điện, dã lão âu ca).

Ngài lại bảo:

– Thời nay người học Phật Pháp cần yếu có kiến giải chân chánh. Nếu được kiến giải chân chánh thì sanh tử chẳng nhiễm, đi đứng tự do chẳng cần cầu thù thắng mà thù thắng tự đến. Đạo Lưu! (đồng đạo, chỉ chúng Tăng) các bậc tiên đức từ xưa đều có con đường đưa người, như sơn tăng chỉ chỗ cho người. Cốt các ông đừng bị người gạt, cần dùng liền dùng, lại chớ ôm ngờ vực. Hiện nay học giả chẳng được, bệnh tại chỗ nào? Bệnh tại chỗ chẳng tin. Các ông nếu tự tin chẳng đến, là rộn ràng theo tất cả cảnh chuyển, bị muôn cảnh lôi, lại chẳng được tự do. Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền cùng Phật, Tổ chẳng khác. Các ông muốn biết được Phật, Tổ chăng? Chính trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy. Học nhân tin chẳng đến, liền chạy tìm ra ngoài. Dù có tìm được, cũng chỉ là tướng thù thắng của văn tự, trọn chẳng đặng ý của Phật, Tổ sống. Chớ lầm!

Chư Thiền Đức! Thời nay chẳng gặp, muôn kiếp ngàn đời luân hồi tam giới, chạy theo cảnh thích rồi phải sanh trong bụng trâu, bụng lừa? Đạo Lưu! Nhằm chỗ thấy của sơn tăng cùng Thích-ca không khác. Hiện nay nhiều chỗ ứng dụng, kém thiếu cái gì? Sáu đường thần quang chưa từng cách dứt. Nếu hay thấy được như thế, chỉ một đời làm người vô sự.

Đại Đức! Ba cõi không yên như trong nhà lửa, đây không phải là chỗ các ông dừng ở lâu, quỷ vô thường giết người trong khoảng chớp mắt chẳng lựa người sang kẻ hèn, người già kẻ trẻ. Các ông muốn cùng Phật, Tổ chẳng khác, chỉ chớ tìm kiếm bên ngoài. Trên một tâm niệm thanh tịnh sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật Pháp Thân của ông. Trên một tâm niệm vô phân biệt sáng suốt của ông là ngôi nhà Phật Báo Thân của ông. Trên một tâm niệm vô sai biệt sáng suốt là ngôi nhà Phật Hóa Thân của ông. Ba thứ thân này là người hiện nay ở trước mắt nghe pháp của ông. Chỉ không tìm kiếm bên ngoài, liền có công dụng này. Theo các nhà kinh luận lấy ba thân này làm nguyên tắc tột cùng. Nhằm chỗ thấy của sơn tăng thì chẳng phải vậy. Ba thân này là danh ngôn, cũng là ba thứ y. Người xưa nói: “Thân y nghĩa lập; cõi cứ thế bàn”. Pháp tánh thân, pháp tánh độ biết rõ là quang ảnh (bóng sáng).

Đại Đức! Các ông hãy nhận biết người đùa quang ảnh, là nguồn gốc tất cả chỗ của Chư Phật, là chỗ các ông về nhà. Xác thân tứ đại của các ông không biết thuyết pháp, nghe pháp. Gan mật dạ dày ruột không biết thuyết pháp, nghe pháp. Hư không chẳng biết thuyết pháp, nghe pháp? Là một cái “riêng sáng hiện bày rõ ràng” ở trước mắt ông, nó biết thuyết pháp, nghe pháp. Nếu thấy được như thế đã cùng Phật, Tổ không khác, chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mắt đều phải. Chỉ vì Tình sanh Trí cách, Tưởng dấy Thể sai. Do đó, luân hồi trong tam giới, chịu các thứ khổ. Nếu nhằm chỗ thấy của sơn tăng thật là rất sâu, thật là giải thoát.

Đạo Lưu! Tâm pháp không hình thông suốt mười phương, ở mắt gọi thấy, ở tai gọi nghe, ở mũi gọi ngửi, ở miệng nói bàn, ở tay nắm bắt, ở chân đi chạy, vốn là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp. Một tâm đã không, tùy chỗ giải thoát. Sơn tăng nói thế ấy, ý ở chỗ nào? Chỉ vì tất cả các ông chạy tìm Tâm không thể dừng, leo lên cơ cảnh nhàn của cổ nhân. Các ông nhận được chỗ thấy của sơn tăng, ngồi chặt đầu Phật, Báo, Hóa. Hằng mãn tâm thập địa ví như nhận khách làm con. Bậc Đẳng Giác là kẻ mang gông xiềng. La-hán, Bích-chi ví như xí uế. Bồ-đề Niết-bàn như cọc cột lừa. Vì sao như thế? Chỉ vì các ông không thấu được ba kỳ kiếp là không, nên có chướng ngại này. Nếu là đạo nhân chân chánh trọn chẳng như thế, chỉ “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”, cần đi thì đi, cần ngồi thì ngồi, tâm không một niệm mong cầu quả Phật. Bởi đâu như thế? Cổ nhân nói: “Nếu muốn làm việc cầu Phật, Phật là điềm lớn sanh tử.”

Đại Đức! Thời giờ đáng tiếc, chỉ tính đến nhà bên lăng xăng học thiền học đạo, nhận danh nhận cú, cầu Phật cầu Tổ, cầu thiện tri thức độ. Chớ lầm! Các ông sẵn có một cha mẹ, lại cầu vật gì? Các ông tự phản chiếu xem! Cổ nhân nói: “Diễn-nhã-đạt-đa quên mất đầu, tâm cầu dứt sạch liền vô sự.”

Đại Đức! Cần yếu bình thường chớ tạo hình thức. Có một bọn tớ trọc chẳng biết tốt xấu, thấy thần thấy quỷ, chỉ đông vẽ tây, thích mưa thích tạnh. Bọn như thế đáng quở trách, có ngày đến trước lão Diêm Vương bị nuốt hoàn sắt nóng. Kẻ nam nữ tốt tại gia bị bọn tinh mị dã hồ này mê hoặc, liền tác quái; có ngày quên mất hết những điều cần yếu trong cuộc sống thanh bạch của mình.

oOo

Có vị Tăng hỏi: Thế nào là chân Phật, chân Pháp, chân Đạo xin Thầy chỉ dạy?

Ngài đáp: Phật là tâm thanh tịnh, Pháp là tâm sáng suốt, Đạo là mỗi chỗ không ngại. Tịnh, sáng… tuy ba mà một, đều là danh từ suông không thật có. Người chân chánh đạo nhân niệm niệm tâm không gián đoạn. Đại Sư Đạt-ma từ phương Tây đến, chỉ tìm cái người chẳng bị người gạt. Nhị Tổ một câu nói liền liễu ngộ, mới biết từ trước uổng dụng công phu. Hiện nay sơn tăng chỗ thấy cùng Phật, Tổ không khác. Nếu trong đệ nhất cú tiến được, kham cùng Phật, Tổ làm thầy. Nếu trong đệ nhị cú tiến được, kham cùng Trời, Người làm thầy. Nếu trong đệ tam cú tiến được, tự cứu chẳng xong.

Tăng hỏi: Thế nào là đệ nhất cú?

Ngài đáp: Tam yếu ấn khai điểm son hẹp, chưa cho nghĩ nghị chủ khách phân (Tam yếu ấn khai chu điểm trách, vị dung nghĩ nghị chủ tân phân).

– Thế nào là đệ nhị cú?

– Diệu giải đâu cho không đến hỏi, bọt tan nào dễ chặn dòng sông (Điệu giải khởi dung vô trước vấn, âu hòa tranh phụ tiệt lưu cơ).

– Thế nào là đệ tam cú?

– Chỉ xem tượng gỗ đùa trên gác, lôi kéo toàn nhờ người ẩn trong.

Ngài lại bảo: Phàm người diễn xướng tông thừa trong một câu phải đủ ba huyền môn, mỗi huyền môn phải đủ tam yếu. Có quyền có thật, có chiếu có dụng. Các ông làm sao được hội?

oOo

Ngài dạy Chúng:

– Đạo Lưu! Cốt tìm lấy kiến giải chân chánh, dọc ngang trong thiên hạ, khỏi bị bọn yêu tinh hoặc loạn, vô sự là người quý, chớ tạo tác, chỉ là bình thường. Các ông nghĩ hướng nhà bên cầu vượt qua, tìm ngón tay gót chân, lầm rồi! Chỉ nghĩ cầu Phật, Phật là danh cú. Các ông lại biết chạy tìm chăng? Ba đời mười phương Phật Tổ ra đời cũng chỉ vì cầu pháp. Như Đạo Lưu hiện nay tham học cũng chỉ vì cầu pháp, được pháp mới xong, chưa được vẫn như trước luân hồi trong năm đường.

Thế nào là pháp? Pháp là tâm pháp. Tâm pháp không hình thông suốt mười phương, hiện dụng trước mắt. Người tin không đến, bèn nhận danh nhận cú, hướng trong danh tự cầu, ý suy xét Phật Pháp, cách xa trời đất.

Đạo Lưu! Sơn tăng nói pháp, là nói pháp gì? Nói pháp Tâm Địa, hay vào phàm vào thánh, vào tịnh vào uế, vào chân vào tục. Hẳn chẳng phải các ông là chân tục phàm thánh, mà hay cùng chân tục phàm thánh an bài danh tự. Chân tục phàm thánh cùng người này an bài danh tự chẳng được.

Đạo Lưu! Nắm được liền dùng chẳng mắc danh tự, gọi đó là huyền chỉ. Sơn tăng nói pháp cùng mọi người khác. Như có Văn-thù, Phổ-hiền xuất hiện trước mắt, mỗi vị hiện một thân hỏi pháp, vừa nói: “Thưa Hòa Thượng”. Tôi đã biết rõ. Lão tăng ngồi yên, lại có đạo lưu đến thấy nhau, tôi trọn hiểu rành. Tại sao như thế? Chỉ vì chỗ thấy của tôi khác, ngoài chẳng nhận phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt chẳng còn nghi lầm.

oOo

Ngài dạy Chúng:

– Đạo Lưu! Phật Pháp không có chỗ dụng công, chỉ bình thường vô sự. Đi đại đi tiểu, mặc áo ăn cơm, nhọc đến thì nằm, người ngu cười ta, kẻ trí biết ta. Người xưa nói: “Làm công phu bên ngoài, thảy là kẻ ngu si”. Các ngươi phải tùy thời làm chủ, ngay đó đều chân, cảnh đến lôi kéo chẳng được, dù có tập khí nghiệp địa ngục vô gián, tự chuyển thành biển lớn giải thoát.

Học giả thời nay hoàn toàn không biết pháp, ví như nắm mũi con dê để đồ vào miệng nó, không biện kẻ tớ người sang, chẳng rành chủ khách. Bọn như thế tâm tà vào đạo. Chỗ ồn vào chẳng được, gọi là người chân xuất gia, chính là người chân tại gia.

Người xuất gia phải biện được kiến giải chân chánh bình thường, biết Phật biết ma, rành chân rành ngụy, rõ phàm rõ thánh. Nếu biện được như thế, gọi là chân xuất gia. Nếu ma, Phật, không biết, chính là xuất gia này vào gia kia, gọi là chúng sanh tạo nghiệp chưa được gọi là người chân xuất gia.

Hiện nay có cái ma – Phật đồng thể chẳng phân, như nước với sữa hợp. Chỉ có con ngỗng chúa mới biết uống sữa chừa nước. Hàng đạo lưu mắt sáng ma, Phật đều đánh. Các người nếu mến Phật ghét phàm, thì phải trôi nổi trong biển sanh tử.

Hỏi: Thế nào là Phật là ma?

Ngài đáp: Ngươi vừa khởi một niệm tâm nghi ấy là ma. Nếu ngươi đạt được muôn pháp không sanh, tâm như huyễn hóa, không có một hạt bụi, một pháp, ngay đó liền thanh tịnh là Phật. Song Phật cùng ma là hai cảnh nhiễm tịnh. Nếu chỗ thấy của sơn tăng, không Phật không chúng sanh, không xưa không nay, được liền đó được, chẳng trải qua thời tiết, không tu không chứng, không được không mất, trong tất cả thời lại không có một pháp riêng. Dù là một pháp vượt hơn cái này, ta nói như mộng như hóa.

Sơn tăng nói ra đều phải, hiện nay trước mắt đạo lưu riêng sáng rỡ lắng nghe. Người này nơi nơi chẳng kẹt, thấu suốt mười phương, tự tại trong tam giới, vào tất cả cảnh sai biệt không thể lôi kéo, trong khoảng sát-na vào tột pháp giới, gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La-hán nói La-hán, gặp ngạ quỷ nói ngạ quỷ, đi tất cả chỗ, dạo các cõi nước, giáo hóa chúng sanh, mà chưa từng lìa một niệm, tùy chỗ thanh tịnh, ánh sáng thấu mười phương, muôn pháp nhất như. Đạo Lưu! Kẻ đại trượng phu hiện đây mới biết xưa nay vô sự. Chỉ vì các ngươi chẳng tin đến, niệm niệm tìm cầu, bỏ đầu tìm đầu, tự không thể thôi, như các vị Bồ-tát viên đốn mà vào trong pháp giới hiện thân. Nhằm trong Tịnh Độ chán phàm mến thánh, bọn người như thế chưa quên bỏ lấy, tâm nhiễm tịnh vẫn còn. Kiến giải Thiền Tông chẳng phải như vậy, thẳng trong hiện tại lại không thời tiết.

Sơn tăng nói ra đều là một lúc thuốc trị bệnh nhau, trọn không có pháp thật. Nếu thấy được như vậy là người chân xuất gia, mỗi ngày tiêu muôn lượng vàng cũng được.

Đạo Lưu! Chớ chấp lấy, sẽ bị các bậc lão sư đập bể cửa mặt. Nói rằng ta hiểu thiền hiểu đạo, biện luận thao thao như nước chảy, đều là người tạo nghiệp địa ngục. Nếu là người chân chánh học đạo, chẳng tìm lỗi của thế gian, cấp bách cầu kiến giải chân chánh, mới mong tròn sáng xong xuôi.

Hỏi: Thế nào là kiến giải chân chánh?

Ngài đáp: Ngươi chỉ tất cả vào phàm vào thánh, vào nhiễm vào tịnh, vào cõi nước Chư Phật, vào lầu các Đức Di-lặc, vào pháp giới Tỳ-lô-giá-na, chỗ chỗ đều hiện; cõi nước thành trụ hoại không, Phật ra đời chuyển đại pháp luân lại nhập Niết-bàn, chẳng thấy có tướng mạo đi lại, tìm cái sanh tử của Ngài trọn không thể được, liền vào pháp giới vô sanh; nơi nơi dạo qua các cõi nước, vào thế giới Hoa Tạng, trọn thấy các pháp không tướng, đều không Phật Pháp, chỉ có Đạo Nhân vô y (không chỗ nương) nghe pháp. Đó là mẹ Chư Phật, bởi vì Chư Phật đều từ vô y sanh. Nếu ngộ vô y, Phật cũng không thể được. Nếu người thấy được như thế, là kiến giải chân chánh.

Người học không hiểu chấp danh cú, bị danh phàm thánh làm ngại. Do đó, chướng ngại đạo nhãn không được phân minh. Mười hai phần giáo nói ra đều cốt biểu hiển lẽ này, học giả không hội, bèn nhằm trên danh cú biểu hiển sanh hiểu, đều là nương tựa rơi tại nhân quả, chưa khỏi sanh tử trong tam giới.

Các ngươi nếu muốn trong sanh tử đi đứng tự do, tới lui tự tại thì hiện nay nên biết người nghe pháp này. Y không hình không tướng, không cội không gốc, không chỗ ở, mà hoạt bát rõ ràng, ứng hiện muôn thứ hành động, chỗ dùng chỉ là không chỗ. Bởi đó, càng tìm càng xa, cầu đó thì trái, gọi đó là bí mật.

Đạo Lưu! Các ngươi chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn, trong khoảng sớm chiều sẽ trở về vô thường. Các ngươi đến trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát? Tìm lấy một bữa cơm mà ăn, mặc áo vá qua ngày, chỉ cốt phỏng tầm tri thức. Chớ theo đuổi thú vui, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, nếu thô thì bị bốn thứ đất nước lửa gió ép ngặt, tế thì bị sanh trụ dị diệt bức bách.

Đạo Lưu! Thời nay cần biết bốn cảnh vô tướng, mới khỏi bị cảnh kéo lôi.

Hỏi: Thế nào là bốn cảnh vô tướng?

Ngài đáp: Các ngươi một niệm tâm nghi bị đất làm ngại. Các ngươi một niệm tâm ái bị nước nhận chìm. Các ngươi một niệm tâm sân bị lửa đốt cháy. Các ngươi một niệm tâm hỷ bị gió thổi bay. Nếu khéo biện được như thế chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, vọt bên đông lặn bên tây, vọt bên nam lặn bên bắc, vọt ở giữa lặn ở bên, vọt ở bên lặn ở giữa, đi trên nước như đất, đi trên đất như nước. Bởi sao được như vậy? Vì đạt bốn đại như mộng huyễn.

Đạo Lưu! Các ngươi hiện nay biết nghe pháp, chẳng phải tứ đại của các ngươi, cái biết ấy hay dùng được tứ đại. Nếu khéo thấy được như thế, là đi đứng tự do. Chỗ thấy của sơn tăng chẳng ngờ pháp ấy. Các ngươi nếu mến Thánh thì, thánh chỉ là tên Thánh. Có một nhóm người học đạo nhắm trong Ngũ Đài Sơn tìm Văn-thù, trọn đã lầm vậy. Trong Ngũ Đài Sơn không có Văn-thù. Các ngươi muốn biết Văn-thù chăng? Chỉ cái dùng trước mắt các ngươi trước sau chẳng khác, nơi nơi chẳng nghi, cái ấy là Văn-thù sống. Các ngươi một tâm niệm sáng không sai biệt, nơi nơi thảy là chân Phổ Hiền. Các ngươi một tâm niệm tự hay mở trói, tùy chỗ giải thoát, đây là Quan-thế-âm. Ba pháp lẫn nhau làm chủ bạn, ra thì đồng thời ra, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế, mới nên xem kinh.

Hỏi: Ý Tổ Sư từ phương Tây sang thế nào?

Ngài đáp: Nếu có ý tự cứu chẳng xong.

Hỏi: Đã không ý làm sao Nhị Tổ được pháp?

Ngài đáp: Được đó là chẳng được.

– Nếu đã chẳng được, thế nào là ý chẳng được?

– Vì nhằm tất cả chỗ tìm kiếm Tâm không thể thôi. Do đó, Tổ Sư nói: “Dốt thay! Đại trượng phu đem đầu tìm đầu”. Ngươi ngay lời nói này liền tự hồi quang phản chiếu, chẳng cầu cái gì khác, biết Thân Tâm cùng Phật Tổ chẳng khác, liền đó vô sự mới gọi là được pháp.

Đại Đức! Sơn tăng hôm nay sự bất đắc dĩ nói ra khá nhiều điều vụng về. Các ngươi chớ nhận lầm. Theo chỗ thấy của tôi, thật không chấp nhận các thứ đạo lý nhiều như thế, cần dùng liền dùng, chẳng dùng liền thôi. Các nơi nói lục độ vạn hạnh cho là Phật Pháp. Tôi nói đó là cửa trang nghiêm, cửa Phật sự, chẳng phải là Phật Pháp. Cho đến, trì trai giữ giới như bưng dầu chẳng nghiêng, nếu đạo nhãn chẳng sáng trọn có ngày phải đền lại nợ cơm tiền. Vì sao như thế? Vì, học đạo chẳng thông lý, đem thân đền tín thí, trưởng giả tuổi tám mốt, cây kia chẳng sanh nhĩ. Nhẫn đến ở trên chót núi, một ngày ăn một bữa, thường ngồi chẳng nằm, sáu thời hành đạo, vẫn là người tạo nghiệp. Hoặc đem đầu mắt tủy não, vợ con đất nước, voi ngựa bảy báu hoàn toàn thí xả; hành động như thế đều là làm khổ thân tâm, lại chuốc quả khổ. Đâu bằng vô sự thuần nhất không tạp. Những hàng Bồ-tát thập địa mãn tâm muốn tìm dấu vết của vị này trọn không thể được. Do đó, Chư Thiên vui mừng, Địa Thần nâng chân, Chư Phật mười phương thảy đều khen ngợi. Bởi sao như thế? Vì đạo nhân hiện nghe pháp, chỗ dùng không dấu vết vậy.

oOo

Một hôm Ngài cùng Hà Dương, Trưởng Lão Mộc Tháp cùng ở tại tăng đường, ngồi quanh lò lửa. Nhân nói chuyện Phổ Hóa mỗi ngày ở ngoài đường chợ chụp gió chụp đầu, biết y là phàm là thánh? Nói chưa xong, Phổ Hóa vào Chúng đi đến. Ngài liền hỏi: Ngươi là phàm là thánh?

Phổ Hóa nói: Ông hãy nói tôi là phàm là thánh?

Ngài liền hét! Phổ Hóa lấy tay chỉ nói: Hà Dương kẻ tân phụ(2), Mộc Tháp thiền lão bà, Lâm Tế đứa tớ nhỏ, lại đủ một con mắt.

Ngài bảo: Kẻ giặc.

Phổ Hóa nói: “Giặc, giặc”, liền đi ra.

oOo

Vương Thường Thị đến thưa hỏi Ngài, theo Ngài đến trước tăng đường, xem xong liền hỏi: Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?

Ngài đáp: Chẳng xem kinh.

Thị hỏi: Lại học thiền chăng?

Ngài đáp: Chẳng học thiền.

Thị nói: Kinh đã chẳng xem, thiền lại chẳng học, cứu kính làm cái gì?

Ngài đáp: Thảy dạy y làm Phật tác Tổ.

Thị nói: Mạt vàng tuy quí, rơi vào con mắt thành bệnh, lại làm sao?

Ngài bảo: Sẽ bảo ông là kẻ thế tục.

oOo

Một hôm, Phổ Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Ngài dạy viện chủ mua một quan tài. Phổ Hóa về đến, Ngài bảo: Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi.

Phổ Hóa liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh đường chợ rao: Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang cửa Đông tịch.

Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa Nam mới tịch.

Như thế đến ba ngày, mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư, không ai theo xem, một mình Phổ Hóa tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi, mọi người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần rồi mất.

oOo

Ngài sắp tịch, ngồi yên bảo: Sau khi ta tịch, chẳng được để diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta.

Tam Thánh Huệ Nhiên thưa: Đâu dám diệt mất Chánh Pháp Nhãn Tạng của Hòa Thượng.

Ngài bảo: Về sau có người hỏi, ngươi đáp thế nào?

Tam Thánh liền hét!

Ngài bảo: Ai biết, Chánh Pháp Nhãn Tạng của ta đến bên con lừa mù diệt mất?

Ngài nói kệ truyền pháp:

Diên lưu bất chỉ vấn như hà Chân chiếu vô biên thuyết tợ tha Ly tướng ly danh như bất bẩm Xuy mao dụng liễu cấp tu ma.

Hán tự:

沿 流 不 止 問 如 何 真 照 無 邊 說 似 他 離 相 離 名 人 不 稟 吹 毛 用 了 急 須 磨

Dịch:

Theo dòng chẳng dứt hỏi thế nào Chân chiếu khôn ngằn nói giống ai. Lìa tướng lìa danh như chẳng nhận Gươm bén dùng rồi gấp phải mài.

Nói xong, Ngài ngồi an nhiên thị tịch, nhằm vào ngày mồng 10 tháng Giêng năm Đinh Hợi (867), niên hiệu Hàm Thông thứ tám triều Đường Ý Tông, thọ 81 tuổi. Vua ban thụy là Huệ Chiếu Thiền Sư, tháp hiệu Trừng Linh.

Những lời dạy của Ngái được đệ tử là Tam Thánh Huệ Nhiên gom chép lại thành cuốn “Trấn Châu Lâm Tế Huệ Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục” (Lâm Tế Ngữ Lục) lưu truyền mãi đến nay. Đệ tử nối pháp của Ngài là Thiền Sư Tồn Tương.

—— oOo ——

Chú thích:

(1) Ứng vào việc về sau Ngài đến Trấn Châu, Phổ Hóa đã có ở trước đó; Ngài khai đường giáo hóa, Phổ Hóa phụ giúp. Ngài trụ chưa bao lâu, Phổ Hóa toàn thân thoát hóa.

(2) Tân phụ là cô gái mới có chồng.

Fb-Button

Bài tương tự:

  1. Tiểu sử Tổ Minh Hải (Sơ Tổ Khai Phái Lâm Tế Chúc Thánh – Việt Nam)
  2. Tiểu sử Tổ Vô Ngôn Thông (Sơ Tổ Khai Phái Vô Ngôn Thông – Việt Nam)
  3. Tiểu sử Tổ Khương Tăng Hội (Sơ Tổ Thiền Tông Việt Nam)
  4. Tiểu sử Tổ Tuệ Tạng
  5. Tiểu sử Đại Sư Thái Hư

Từ khóa » Tổ Lâm Tế