Tìm Hiểu Tiểu Thuyết “Báu Vật Của đời” Của Mạc Ngôn | Nguvandhag
Có thể bạn quan tâm
NGUYỄN TRUNG NAM
LỚP ĐH6C2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐHSP NGỮ VĂN
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Phùng Hoài Ngọc
LONG XUYÊN, 05/2009
NGUYỄN TRUNG NAM
LỚP ĐH6C2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Tìm hiểu tiểu thuyết “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn
Giảng viên hướng dẫn:Ths. Phùng Hoài Ngọc
MỤC LỤC
ó
MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài ……………………………………………………………………………………….. 1.
- Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………………………………. 2.
- Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………………………………. 2
- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………………….. 3
- Đóng góp của đề tài…………………………………………………………………………………….. 3
- Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………………………………. 3
- Dàn ý của khoá luận…………………………………………………………………………………….. 4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
- Nhân vật trong tác phẩm văn học…………………………………………………………………….. 6
- Quan niệm nghệ thuật về con người – phạm trù trung tâm của
thi pháp học hiện đại……………………………………………………………………………………. 7
CHƯƠNG 2: VÀI NÉT VỀ TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC
VÀ NHÀ VĂN MẠC NGÔN
- Tiểu thuyết Trung Quốc……………………………………………………………………………….. 8
1.1. Tiểu thuyết Trung Quốc cổ điển……………………………………………………………. 8
1.2. Tiểu thuyết trung Quốc thời kì đổi mới…………………………………………………. 8
- 2. Nhà văn Mạc Ngôn ………………………………………………………………………………………. 12
CHƯƠNG 3: TÌM HIỂU TIỂU THUYẾT “BÁU VẬT CỦA ĐỜI”
CỦA NHÀ VĂN MẠC NGÔN
- Hình tượng người mẹ vĩ đại và đau thương …………………………………………………. 16
1.1. Đứa con dâu của xã hội phong kiến Trung Quốc……………………………… 16
1.2. Người mẹ Lỗ thị – thân phận đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương 18
- Hình tượng những cô gái biết ước mơ, khao khát sống và hành động…………….. 22
- Hình tượng đám con rể gia đình Thượng Quan – những quyền lực chi phối
vùng Cao Mật……………………………………………………………………………………………. 38
3.1. Kháng chiến chống Nhật, nội chiến và những lực lượng chính trị trong buổi bình minh thời đại……………………………………………………………………………………………………………. 38
3.1.1. Sa Nguyệt Lượng, từ du kích đến Hán gian………………………….. 40
3.1.2. Tư Mã Khố và Lỗ Lập Nhân, hai thế lực đại diện cho
cuộc nội chiến…………………………………………………………………… 41
3.2. Đất nước trong thời kì mới, những thế lực mới và sự thác loạn………… 51
- Một kết cấu độc đáo được xây dựng thông qua đôi mắt của Kim Đồng………… 53
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………………………….. 58
PHỤ LỤC 1………………………………………………………………………………………………………….. 59
PHỤ LỤC 2………………………………………………………………………………………………………….. 63
PHỤ LỤC 3………………………………………………………………………………………………………….. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………… 75
PHẦN MỞ ĐẦU
ó
- Lý do chọn đề tài
Nền văn học Trung Quốc đương đại có những thành tựu rực rỡ với sự xuất hiện của một loạt tác giả nổi tiếng: Giả Bình Ao, Vệ Tuệ, Mạc Ngôn, Tào Đình, Lưu Quốc Phương, Ngô Huyền,… Với nhận thức mới về thời đại, những tác giả Trung Quốc đương đại đã đưa hiện thực. Cuộc sống xã hội vào trong tác phẩm của mình một cách tự nhiên và chân thật, họ đã đưa văn học về đúng với chức năng cơ bản của nó, tức là phản ánh số phận con người. Tiểu thuyết “Báu vật của đời” của nhà văn Mạc Ngôn là một tác phẩm thể hiện rõ nét quan điểm sáng tác ấy.
“Báu vật của đời” đã khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua các thế hệ trong gia đình Thượng Quan. Gia đình Thượng Quan là một hình ảnh thu nhỏ của đất nước Trung Quốc qua các thời kì lịch sử. (Phạm Xuân Nguyên, tanvien.net)
Đọc “Báu vật của đời” chúng ta thấy được một xã hội trần trụi được Mạc Ngôn mô tả rất tỉ mỉ. Trong xã hội ấy, chiến tranh, tệ nạn xã hội mà điển hình là cái xấu cái ác luôn đè nặng lên mỗi con người.
Hiện thực trong “Báu vật của đời” khái quát rộng lớn nhưng cụ thể. Cái nhìn của tác giả dựa trên quan điển của nhân dân vì vậy những sự kiện lịch sử không hề có điểm gãy, đồng thời soi rọi vào tận cùng những góc khuất từ đó trả lại ý nghĩa thật sự cho lịch sử.
“Báu vật của đời” có một kết cấu chằng chịt, dày đặc các hình ảnh chi tiết nghệ thuật nhưng vẫn giữa được nét truyền thống qua hình thức biên niên sử; một hệ thống hình tượng nhân vật đa hình đa dạng, sâu sắc và mang nhiều ý nghĩa; phương thức “lạ” hóa độc đáo mới lạ; điểm nhìn trần thuật sáng tạo thể hiện sự quan sát tinh tường và khéo léo của nhà văn; cùng với một lối viết tỉnh táo lạ thường khi đứng trước các vấn đề lịch sử… Một phong cách độc đáo, sự tổng hòa của văn học phương Đông và phượng Tây, sự dung hòa giữa truyền thống và hiện đại… Đó là những gì chúng ta có thể cảm nhận được khi đọc “Báu vật của đời” của nhà văn Mạc Ngôn.
“Báu vật của đời” đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, từ nỗi xót xa này đến nỗi xót xa khác, từ thú vị này đến thú vị khác, từ thái cực tình cảm này đến thái cực tình cảm khác – đó là sức hút mà tiểu thuyết này tạo ra được đối với độc giả. Đó cũng là tài văn của nhà văn.
Từ những điều nêu trên, chúng tôi cảm nhận rằng “Tìm hiểu tiểu thuyết Báu vật của đờ” của Mạc Ngôn” là một vấn đề rất thú vị.
Chúng tôi muốn đi sâu khám phá để có những hiểu biết đúng đắn về một số giá trị độc đáo của tiểu thuyết “Báu vật của đời”. Hi vọng rằng đề tài này cũng sẽ giúp bạn đọc quan tâm tới tiểu thuyết đương đại Trung Quốc có thể tiếp cận tác phẩm một cách dễ dàng và trọn vẹn hơn.
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu tiểu thuyết Báu vật của đời của Mạc Ngôn”, chúng tôi hướng vào những mục tiêu sau:
– Nghiên cứu các hình tượng nhân vật từ đó làm sáng tỏ tư tưởng của nhà văn.
– Tìm hiểu một kết cấu độc đáo vừa hiện đại vừa truyền thống.
– Phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu văn học Trung Quốc, đặc biệt là văn học Trung Quốc đương đại trong nhà trường và công tác giảng dạy sau này.
- Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn là một bộ tiểu thuyết đương đại đang tạo được sức hút mạnh mẽ đối với độc giả và giới nghiên cứu bởi tính hiện thực và những nét nghệ thuật đặc sắc của nó. Nhưng vì là một tác phẩm đương đại nên số lượng những bài nghiên cứu về “Báu vật của đời” tương đối ít ỏi. Đồng thời những bài nghiên cứu ấy cũng chỉ tiếp cận sơ lược tác phẩm dưới góc độ xã hội hoặc xoay quanh các yếu tố lịch sử, chính trị… mà chưa có công trình nào chuyên đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật và tìm hiểu kết cấu trong “Báu vật của đời”.
3.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc, Nhật và Đức đã đứng dưới góc độ xã hội hoặc dựa trên các yếu tố chính trị, lịch sử… để đánh giá về nội dung và nghệ thuật của “Báu vật của đời”. Từ quan điểm xuất phát đó, họ chỉ ra những điểm tiến bộ và hạn chế của nhà văn. Có thể chia thành hai nhóm quan điểm như sau:
Thứ nhất, nhóm các nhà nghiên cứu Trung Quốc đứng trên phương diện chính trị đã lên tiếng bài trừ “Báu vật của đời” ngay khi tác phẩm này được xuất bản tại Trung Quốc (Tác gia xuất bản xã, 9/1995) với lí do tác phẩm đã vi phạm vào “vùng cấm” của văn học (Mạc Ngôn và những lời tự bạch, 2004). Thứ hai, nhóm các nhà văn nghiên cứu dưới góc độ xã hội để tìm ra những nét độc đáo trong “Báu vật của đời”. Trong các bài viết này, họ đã chỉ ra những sự sáng tạo trong việc tạo ra một thủ pháp “lạ hoá” độc đáo, sáng tạo những huyền thoại mới bên cạnh những huyền thoại cổ xưa (Trương Thành, Chu Ân, Ta-chi-gang). Có người lại tìm sự ảnh hưởng của văn học phương Tây và Mĩ Latin đối với Mạc Ngôn thông qua tiểu thuyết “Báu vật của đời” (Wolfgan Kunbim, GS. Các Hồng Binh, Ths. Tống Hồng Lĩnh).
Bản thân tác giả Mạc Ngôn cũng viết cuốn “Tự bạch” để giãi bày thêm về việc viết văn của mình.
3.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Nhà văn Mạc Ngôn được độc giả Việt Nambiết nhiều khi “Báu vật của đời” được dịch giả Trần Đình Hiến dịch và xuất bản tháng 2 năm 2001. Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng dựa trên nhiều góc độ để đưa ra những quan điểm, những nhận xét riêng của mình về tiểu thuyết “Báu vật của đời”. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê đào sâu vào thủ pháp lạ hoá của Mạc Ngôn bằng cái nhìn tổng quát toàn bộ những tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt (Tài “phù phép” của Mạc Ngôn, Báo Tiền Phong online). Trong bài “Sự sinh, sự chết, sự sống: Đọc “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn” đăng trên trang tanviet.net ngày 04/08/2005, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã tóm lược những điểm chính trong “Báu vật của đời” và đưa ra những nhận định về tác giả, tác phẩm. Có người lại dựa vào “Báu vật của đời” để tìm ra sự sáng tạo của Mạc Ngôn trong việc đưa hơi thở hiện đại vào đề tài lịch sử (Vương Trí Nhàn, Lê Huy Tiêu, Trần Trung Hỷ). Trong Tiểu luận “Một số vấn đề văn học Trung Quốc đương đại” (2007), PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp cũng đã điểm qua những nét đặc sắc của Mạc Ngôn thông qua những tác phẩm đã được dịch.
Trên đây là sơ lược một số công trình nghiên cứu về tiểu thuyết “Báu vật của đời” của các nhà nghiên cứu nước ngoài và ViệtNam. Chúng tôi chưa đọc thấy công trình nào đi sâu nghiên cứu phương diện hình tượng nhân vật và kết cấu của tiểu thuyết làm thấy được những giá trị đáng ghi nhận của các sáng tác cũng như những sáng tạo độc đáo của các nhà văn Mạc Ngôn.
Với tinh thần học tập không ngừng, chúng tôi sẽ kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu, những ý kiến bổ ích từ người đi trước để đi sâu tìm hiểu các hình tượng nhân vật và kết cấu của tiểu thuyết “Báu vật của đời” một cách cụ thể, có hệ thống.
- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là bộ tiểu thuyết “Báu vật của đời” của nhà văn Mạc Ngôn, trong đó đi sâu vào các hình tượng nhân vật nổi bật và kết cấu của tiểu thuyết.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu toàn bộ những đặc điểm của một tiểu thuyết. Cũng như chưa có điều kiện tìm hiểu nguyên tác do hạn chế về mặt ngôn ngữ. Đề tài của chúng tôi chủ yếu dựa trên bản dịch của dịch giả Trần Đình Hiến do Nhà xuất bản Văn nghệ Hà Nội ấn hành năm 2001 có độ dài 860 trang.
- Đóng góp của đề tài
Đến với đề tài này, chúng tôi muốn bước đầu nghiên cứu các hình tượng nhân vật và tìm hiểu nét đặc sắc của kết cấu, từ đó thấy được tài năng độc đáo của nhà văn Mạc Ngôn.
Nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho người đọc nói chung và người làm khóa luận nói riêng có được cái nhìn đúng đắn, sâu sắc và toàn diện hơn về nội dung tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn Mạc Ngôn.
Ở một phạm vi nhất định, đề tài hi vọng sẽ cung cấp một số tài liệu tham khảo cho những ai yêu thích tác phẩm này, phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu “Báu vật của đời” nói riêng, văn học Trung Quốc đương đại nói chung.
- Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp hệ thống
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã tuyển chọn các loại hình tượng nhân vật người trong tác phẩm và đồng thời tìm hiểu kết cấu cực hiện đại của “Báu vật của đời”. Do đó, để việc nghiên cứu được thuận lợi, chúng tôi đã chọn phương pháp hệ thống. Phương pháp này giúp chúng tôi hiểu bao quát tác phẩm để thấy được sự gắn kết của các hình tượng, đồng thời thấy được đặc điểm nổi bật và mối liên hệ của các nhân vật và kết cấu của tiểu thuyết.
6.2. Phương pháp liệt kê
Chúng tôi tiến hành liệt kê, ghi lại những dẫn chứng cần thiết trong các bản dịch và nhiều tài liệu khác có liên quan để dẫn chứng phù hợp với từng đề mục của khoá luận.
6.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Chúng tôi tiến hành phân tích các dẫn chứng nhằm làm nổi bật các luận điểm cần triển khai. Sau đó thâu tóm, khái quát chúng lại.
- Dàn ý của khóa luận
Tên khóa luận “Tìm hiểu tiểu thuyết “Báu vật của đời” của Mạc Ngôn”
PHẦN MỞ ĐẦU
- Lý do chọn đề tài
- Mục đích nghiên cứu
- Lịch sử vấn đề
- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đóng góp của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu
- Dàn ý của khóa luận
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận
- Nhân vật trong tác phẩm văn học
- Quan niệm nghệ thuật về con người – phạm trù trung tâm của thi pháp học hiện đại
Chương 2: Vài nét về tiểu thuyết Trung Quốc và nhà văn Mạc Ngôn
- Tiểu thuyết Trung Quốc
` 1.1. Tiểu thuyết Trung Quốc cổ điển
1.2. Tiểu thuyết Trung Quốc thời kì đổi mới
- Tác giả Mạc Ngôn
Chương 3: Tìm hiểu tiểu thuyết “Báu vật của đời” của
nhà văn Mạc Ngôn
- Hình tượng người mẹ vĩ đại và đau thương
1.1. Đứa con dâu của xã hội phong kiến Trung Quốc
1.2. Người mẹ Lỗ thị – thân phận đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương
- Hình tượng những cô gái biết mơ ước, khao khát sống và hành động
- Hình tượng đám con rể gia đình Thượng Quan – những quyền lực chi phối vùng Cao Mật
3.1. Kháng chiến chống Nhật, nội chiến và những lực lượng chính trị trong buổi bình minh thời đại
3.1.1. Sa Nguyệt Lượng, từ du kích đến Hán gian
3.1.2. Tư Mã Khố và Lỗ Lập Nhân, hai thế lực đại diện cho cuộc nội chiến
3.2. Đất nước trong thời đại mới, những thế lực mới và sự thác loạn
- Một kết cấu độc đáo được xây dựng thông qua đôi mắt của Kim Đồng
TỔNG KẾT
PHẦN NỘI DUNG
ó
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
“Nhân vật văn học” là một thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống với con người.
Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật… Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chủ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể.
Nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho phép nêu lên những hiện tượng văn học như : văn học về “con người thừa” (ở văn học Nga thế kỉ XIX), văn học về “thế hệ vứt đi”(ở Mĩ thế kỉ XX) …
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể rút ra một kết luận : nhân vật trong tác phẩm văn học chính là con người hoặc các loài cây, các sinh thể hoang đường, đồ vật nhưng mang những đặc điểm giống với con người. Nhân vật ấy là đứa con tinh thần của nhà văn, là máu thịt của nhà văn để thể hiện quan niệm thẩm mĩ và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về cuộc đời và con người. Các nhà lí luận cũng nhấn mạnh đến tính nghệ thuật, tính ước lệ của nhân vật văn học. Nhân vật văn học có thể không hoàn toàn giống như con người thật ngoài đời vì chúng có những đặc trưng nghệ thuật và được thể hiện trong tác phẩm bằng các phương tiện văn học thông qua quan niệm và biện pháp nghệ thuật của nhà văn, nhưng không vì thế mà chúng kém phần chân thật. Đã là tác phẩm văn học thì không thể thiếu nhân vật văn học.
Như vậy nhân vật văn học là hình thức cơ bản để qua đó nhà văn miêu tả đời sống một cách hình tượng. Bản chất của văn học là có quan hệ mật thiết với đời sống, nó chỉ tái hiện đời sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nhân vật văn học vì thế là đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất với con người có thật trong cuộc đời. Tác phẩm văn học nào cũng là một hệ thống chỉnh thể của những hệ thống nhỏ hơn. Các nhân vật trong các tác phẩm cũng thực sự tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, chúng liên quan với nhau, móc nối với nhau không chỉ bằng tiến trình các sự kiên miêu tả, mà suy cho cùng còn bằng logic của nội dung nghệ thuật của nhà văn.
Hệ thống nhân vật đem lại cho hệ thống nghệ thuật của tác phẩm một sự thống nhất, đồng thời quan hệ giữa các nhân vật trong mỗi hệ thống ít hay nhiều đều phản ánh mối quan hệ xã hội hiện thực của con người.
- 2. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI – PHẠM TRÙ TRUNG TÂM CỦA THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI
Con người trong tác phẩm văn học là con người được thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Một nhà văn không thể miêu tả hiện thực nếu không thông qua hình tượng nghệ thuật và không có quan niệm nghệ thuật của mình về con người. Theo GS. Trần Đình Sử trong giáo trình “Dẫn luận thi pháp học” (NXB Giáo dục 1998) thì “Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả con người trong nghệ thuật”. Quan niệm nghệ thuật là cách cắt nghĩa, lí giải về con người trên cơ sở hấp thu các yếu tố thế giới quan nhất định của thời đại, tạo ra một quan niệm của mình về thế giới và con người.
Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, miêu tả đồ vật, hoặc giản đơn là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người nếu như không hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Mặt thứ hai này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học.
Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó.
Quan niệm nghệ thuật về con người hướng cho người ta cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, là nguyên tắc cảm thấy, hiểu và miêu tả con người trong văn học và các nguyên tắc đó có cơ sở sâu xa trong thực tế lịch sử, nó là một sản phẩm của lịch sử và cũng đồng thời là sản phẩm của văn hóa, tư tưởng và quan niệm nghệ thuật về con người, cũng mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ sĩ, gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ.
Trong các thể loại văn học khác nhau, do chức năng và hệ thống phương tiện biểu hiện khác nhau, quan niệm nghệ thuật cũng có sự khác nhau.
Một nền nghệ thuật mới bao giờ cũng ra đời cùng với quan niệm về con người mới. Quan niệm con người tạo thành cơ sở, thành nhân tố vận động của nghệ thuật, thành bản chất nội tại của hình tượng nghệ thuật. Quả là sự vận động của thực tế làm nảy sinh những con người mới và miêu tả những con người ấy sẽ làm cho văn học đổi mới. Đổi mới cách giải thích và cảm nhận con người cũng làm cho văn học thay đổi căn bản. Trong lịch sử văn học, việc sử dụng lại các đề tài, cốt truyện, nhân vật truyền thống là rất phổ biến nhưng cách giải thích và cảm nhận của họ là mới, tạo thành tiếng nói nghệ thuật mới. Cũng vẫn là con người đã biết, nhưng hôm qua được nhìn ở một góc độ, hôm nay nhìn sang góc độ mới cũng tạo thành sáng tác văn học mới. (GS. Trần Đình Sử, 1998)
Quan niệm nghệ thuật về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn của văn học. Nghệ sĩ là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người, do đó càng khám phá nhiều quan niệm nghệ thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng thành tựu của họ.
Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng biểu hiện tập trung trước hết ở nhân vật, bởi nhân vật văn học là con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phương tiện văn học. Nhân vật biểu hiện cách hiểu của nhà văn về con người theo một quan điểm nhất định và các đặc điểm mà anh ta lựa chọn. Nhân vật văn học chính là mô hình về con người của tác giả. Muốn tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người phải xuất phát từ các biểu hiện của nhân vật, thông qua các yếu tố tạo nên nó.
Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người là cách cắt nghĩa, lí giải về con người trên cơ sở hấp thu các yếu tố thế giới nhất định của thời đại, tạo ra một quan niệm của nó về thế giới và con người.
CHƯƠNG 2
VÀI NÉT VỀ TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC
VÀ NHÀ VĂN MẠC NGÔN
- 1. TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC
1.1. TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC CỔ ĐIỂN
Mầm mống tiểu thuyết ở Trung Quốc xuất hiện rất sớm, vào đời Ngụy Tấn (thế kỉ thứ III – IV) dưới dạng “chí quái” – chuyện ghi chép lại những việc quái dị hoặc những việc thuộc sinh hoạt cá nhân của các danh sĩ, ở ngoài giới hạn kinh sử. Đến đời Đường, giai cấp phân hóa, đối lập sâu sắc, lại thêm thành thị phát triển, tạo cơ sở cho loại văn học ngoài kinh sử phát triển. Cũng như ở phương Tây, tiểu thuyết “truyền kì” đời Đường thể hiện những nhu cầu của đời sống cá nhân, phê phán các thói tục xấu xa hoặc sự bất bình đẳng xã hội, khẳng định các phẩm chất tính cách cá nhân cao đẹp. Tiểu thuyết “thoại bản” đời Tống (thế kỉ X – XIII) tiếp tục thể hiện vấn đề số phận và phẩm chất cá nhân trong đời sống.
Những truyện “giảng sử”, “giảng kinh” đời Tống, Nguyên – tức truyện kể từng đêm theo sự tích lịch sử hoặc kinh truyện – đến đời Minh được liên kết, xâu chuỗi thành các tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân. Nhu cầu khẳng định nhà Hán chính thống trong Tam quốc chí diễn nghĩa, đề cao lí tưởng “thay trời hành đạo”, diệt trừ yêu ma trong Thủy hử, Tây du kí làm cho các tiểu thuyết đậm chất sử thi anh hùng. Sang đời Thanh, xã hội trở nên thối nát, xuất hiện những tiểu thuyết xuất sắc kể về đời tư và đạo đức thế sự như Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, Chuyện làng Nho của Ngô Kính Tử.
Tiểu thuyết Minh – Thanh là thành tựu rực rỡ nhất của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, nó góp phần tạo một nền móng vững chắc về cả hình thức lẫn nghệ thuật cho lớp hậu bối sau này đạt được nhiều kết quả to lớn lớn góp phần vào kho văn học đồ sộ của Trung Quốc.
1.2. TIỂU THUYẾT TRUNG QUỐC THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Theo sự thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính riêng năm 1978 đã xuất bản được hơn 55 bộ tiểu thuyết, năm 1979 tăng lên 61 bộ và năm 1980 tăng lên 90 bộ. Từ năm 1980 đến năm 1982 bình quân mỗi năm có hơn 200 bộ tiểu thuyết được xuất bản. Mười bảy năm trước “Cách mạng văn hóa” đỉnh cao của sáng tác tiểu thuyết là năm 1959, năm thứ 10 của Trung Hoa mới ra đời (1949) cũng chỉ có 32 bộ. Điều này chứng tỏ thể loại tiểu thuyết của thời kì mới gặt hái nhiều kết quả rực rỡ. Không chỉ trên số lượng mà chất lượng của tiểu thuyết trong thời kì này cũng được nâng lên chưa từng thấy. Chất lượng của tiểu thuyết trong thời kì mới được thể hiện ở hai bình diện nghệ thuật và tư tưởng.
– Mở rộng lĩnh vực đề tài:
Tiểu thuyết của “mười bảy năm” (mười bảy năm trước “Cách mạng văn hóa”) viết về lịch sử cách mạng, chủ yếu tập trung miêu tả phong trào cách mạng quần chúng trong cuộc đấu tranh chống Nhật, cuộc đấu tranh giải phóng và cuộc đấu tranh phản đế, phản phong của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tiểu thuyết của thời kì mới cũng đề cập đến đề tài này nhưng lại không hạn chế về thời gian. Dưới ngòi bút của nhà văn, phong trào cách mạng sau cách mang Tân Hợi (1911) đến khi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921) kéo dài thời kì đổi mới mở cửa đều được miêu tả chân thực, sống động và đầy kịch tính. Đó là sự phản kháng anh dũng và sự đàn áp tàn bạo, cuộc kình chống kịch liệt giữa các lực lượng chính phủ và các giai cấp; sự tranh giành quyền lực của chủ tể Trung Quốc; ghi chép lại những trang lịch sử cực kì quan trọng trong lịch sử phát triển của Trung Quốc; các tác phẩm dựa trên những bình diện khác nhau biểu hiện con đường trưởng thành của phần tử trí thức tiến bộ phản kháng lại sự gian ác, xấu xa để đi tìm chân lí và ánh sáng; lột tả một cách hình tượng vận mệnh bi thảm của người phụ nữ trong thời đại cũ và con đường sống mới của họ.
– Tăng cường tình cảm lịch sử và tình cảm thời đại:
Tiểu thuyết miêu tả lịch sử cách mạng trong “mười bảy năm” (mười bảy năm trước “Cách mạng văn hóa”) coi trọng ở việc theo đuổi tình tiết câu chuyện và sắc thái truyền kì, còn rất nhiều tiểu thuyết thời kì mới viết về lịch sử cách mạng thì coi trọng việc bộc lộ hoàn cảnh, phản ánh sự thay đổi, cuộc sống rộng lớn, đặc trưng bàn chất của thời đại và sự phát triển lịch sử. Thể hiện sự phát triển và bộ mặt thời đại của thời kì cách mạng dân chủ cũ Trung Quốc từ cách mạng Tân Hợi đến trước cuộc chiến tranh Bắc phạt, miêu tả sinh hoạt xã hội rộng lớn của thời đại đó: cuộc chiến tranh quân phiệt gay gắt; sự gian khổ của phần tử nhân sĩ trí thức; sự tha hóa của con người trong thời đại mới; những góc khuất của lịch sử cùng với sự chìm nổi của thân phận nhỏ bé.
– Sự xuất hiện tác phẩm văn học có tính “sử truyện” tương đối nhiều:
Tiểu thuyết có tính “sử truyện” là một thành tựu quan trọng của sáng tác tiểu thuyết thời cổ đại. Trong tiểu thuyết của thời kì “mười bảy năm”, loại tác phẩm này rất ít. Trong thời kì mới, sự “đứt đoạn” của “dòng chảy” này lại được tiếp tục và càng “chảy” mạnh hơn. Chỉ mấy năm ngắn ngủi, tác phẩm mang tính “sử truyện” xuất hiện không ít. Những tác phẩm này không những tái hiện lại bộ mặt tinh thần của một số nhân vật mà còn lưu lại rất nhiều sử liệu có liên quan đến những mặt chính trị, quân sự và văn hóa của thời đại đó.Sự đột phá của tiểu thuyết lịch sử đã dành được thu hoạch to lớn mà văn học thời kì mới đã đem đến cho độc giả.
Trong tiểu thuyết của thời kì “mười bảy năm” ngay cả thời “Ngũ tứ”, tiểu thuyết lịch sử của Trung Quốc là vùng trống vắng trong sáng tác văn học Trung Quốc. Nguyên nhân này chủ yếu là do sự can thiệp của tư trào “tả” làm cho đề tài lịch sử trở thành “vùng cấm” không có ai dám vi phạm. Trong văn học thời kì mới tình hình này có sự đổi khác. “Vùng cấm” được xóa bỏ, không còn ranh giới, không còn cấm kị, phân biệt. Tiểu thuyết lịch sử đã dám đột phá vào thể loại này, viết nên nhiều tác phẩm mang nhiều tính sử thi, “sử truyện” được độc giả đón nhận nồng nhiệt.
Tiểu thuyết mang tính sử truyện trong thời kì mới có mấy đặc điểm sau đây:
+ Phản ánh đời sống lịch sử rộng lớn mà sâu sắc.
Có thể nói, những tác phẩm này đã phản ánh lịch sử lâu dài cuộc sống xã hội phức tạp và phong phú của xã hội phong kiến Trung Quốc, đến cuộc cách mạng Tân Hợi và kéo dài đến cả những năm Trung Quốc bước vào cải cách mở cửa. Những tác phẩm này không những chú ý dùng hình tượng sáng tạo trên cơ sở sử liệu tương đối chính xác, phản ánh sự chân thật của phong trào lịch sử mà còn chú ý tái hiện bộ mặt chân thực của thời đại. Tất cả đều không hạn chế ở việc miêu tả sự nghiệp và tinh thần của nhân vật chính mà từ bối cảnh thời đại rộng lớn để miêu tả nhân vật, miêu tả thời đại.
+ Đa dạng hóa đề tài lịch sử.
Tiểu thuyết lịch sử của thời kì mới về phương diện đề tài có sự đột phá và mở rộng hơn trước rất nhiều.
Vấn đề mấu chốt của sáng tác tiểu thuyết là xử lí như thế nào về mối quan hệ giữa chân thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Vấn đề này, do quan niệm văn học của các tác giả không giống nhau nên trên biểu hiện nghệ thuật cũng khác nhau. Tuy vậy, đại thể có mấy con đường sau đây:
- Loại thứ nhất là : lấy tài liệu lịch sử làm căn cứ đối chiếu với tình tiết câu chuyện và tính cách của số nhân vật nào đó và nhất định phải hư cấu.
- Loại thứ hai: cũng là lấy tài liệu lịch sử làm căn cứ nhưng trên tình tiết câu chuyện có sự hư cấu.
- Loại thứ ba là: tôn trọng sự thực lịch sử, yếu tố hư cấu rất ít, đó tức là kiểu “bác khảo văn hiến, ngôn tất hữu cứ” (uyên bác ở việc tham khảo văn hiến, lời nói tất đều có căn cứ). Ở đây không có sự phân biệt phải trái, cao thấp. Bởi vì tiểu thuyết lịch sử không phải là sách sử đơn thuần mà là tác phẩm văn học lấy sử liệu làm căn cứ sáng tác.
Tiểu thuyết của thời kì mới còn xuất hiện tác phẩm phản ánh cuộc sống của nước Trung Hoa mới.
Các tác phẩm miêu tả “cuộc đại cách mạng văn hóa” là một lĩnh vực hoàn toàn mới, mở ra một đề tài của tiểu thuyết thời kì mới. Và không chỉ viết về “cách mạng văn hóa” mà đối với lịch sử cũng có sự tìm tòi, suy nghĩ làm cho độc giả tiếp nhận một cách tích cực. Những tác phẩm này có đề tài mới, chủ đề mới và quan trọng hơn là sự lí giải, nắm vững, đề xuất và biểu hiện của tác giả đối với cuộc sống cũng là mới. loại tác phẩm này mang đến dòng máu mới để mọi người đi vào thời kì mới.
Qua sự trình bày có thể rút ra những thành tích đáng chú ý của tiểu thuyết thời kì mới:
– Trước hết, nhiều tác phẩm đã duy trì, ủng hộ và phát huy một số truyền thống ưu tú của sáng tác tiểu thuyết truyền thống. Từ trong dòng chảy mạnh mẻ của đời sống, các tác giả đã chọn lựa chủ đề và đề tài có liên quan mật thiết đến vận mệnh của nhân dân và tình hình của đất nước. Về mặt nghệ thuật, nhiều tác giả đã thể hiện nhiều hình thức thể hiện mới, tỏ rõ phong cách, phong thái của người sáng tác văn học, làm cho mọi người phấn khởi sáng tạo ra cái mới, nhất là việc sáng tạo ra hình tượng nghệ thuật mới. Nhân vật anh hùng mới được xây dựng đep đẽ, sáng tạo và có sức thuyết phục cao.
Đề tài của tiểu thuyết thời kì mới tương đối rộng lớn, bao quát có tính khái quát cao. Trong thời kì mới, tầm nhìn của các nhà văn được mở rộng và được giải phóng. Họ một mặt vẫn không từ bỏ việc miêu tả cuộc đấu tranh của giai đoạn cách mạng, mặt khác họ đem tầm nhìn đó đặt vào đời sống với giá trị thẩm mĩ mới.
Tiểu thuyết của thời kì mới về mặt phương pháp nghệ thuật cũng dần dần có sự cách tân sáng tạo. Tiết tấu trần thuật, kể chuyện được tăng nhanh; phê phán, trần thuật cũng dần dần đa dạng hóa. Về mặt kết cấu, các nhà văn sử dụng phương pháp “từ đầu, nối đầu, nối tới”, đồng thời xuất hiện phương pháp kết cấu nhiều kiểu, nhiều dạng độc đáo. Về khắc họa tính cách nhân vật, các tác giả đã sử dụng đặc trưng tính cách từ hành động đặc trưng đơn nhất dần dần đi sâu vào miêu tả thế giới nhân vật làm cho thủ pháp miêu tả phong phú, mới mẻ, gây sự hấp dẫn cho người đọc. (PSG.TS Hồ Sĩ Hiệp, 2003)
- 2. NHÀ VĂN MẠC NGÔN
Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, người vùng Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông sinh ngày 17 tháng 02 năm 1955, xuất thân trong một gia đình nông dân. Do “Cách mạng Văn hóa”, ông phải nghỉ học khi đang học đở tiểu học và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn. Trong thời gian đó ông đã làm rất nhiều việc, từng làm công nhân hợp đồng ở nhà máy chế biến bông, có cuộc sống gần gũi với người nông dân.
Tháng 02 năm 1976, ông nhập ngũ, từng làm chiến sĩ , rồi tiểu đội trưởng, giáo viên, rồi sau đó chuyển sang làm sáng tác. Năm 1984, trúng tuyển vào khoa văn thuộc Học viện nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. năm 1988, ông lại trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác thuộc Học viện Văn học Lỗ Tấn, trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh, năm 1991 tốt nghiệp với học vị thạc sĩ. Hiện nay, ông là sáng tác viên bậc Một của Cục Chính trị – Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Từ năm 1980, Mạc Ngôn bắt tay vào sáng tác. Những tác phẩm nổi tiếng của ông có: Gia tộc Hồng Cao Lương, Báu vật của đời, Đàn hương hình, Tửu quốc, Sống đoạ thác đày,… Ngoài tiểu thuyết ra ông còn viết hai mươi bốn truyện vừa, trên sáu mươi truyện ngắn và nhiều vở kịch cho sân khấu. Nhà văn Mạc Ngôn từng được thế giới biết đến qua tác phẩm Cao lương đỏ. Bộ phim cùng tên do đạo diễn nổi tiếng Trương Nghệ Mưu chuyển thể từ tác phẩm này đã đoạt giải “Cành cọ vàng” tại Liên hoan phim Canne (Pháp) năm 1994. Mạc Ngôn đã đóng góp cho nền văn học Trung Quốc nhiều tác phẩm có giá trị và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Báu vật của đời, nguyên tác: Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀), là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn. Tác phẩm được xuất bản tháng 9 năm 1995 đã trở thành một hiện tượng, tác phẩm đã được trao giải cao nhất của Hội Nhà văn Trung Quốc về truyện trong năm đó.
Tiểu thuyết đã cung cấp cho bạn đọc một lượng thông tin lớn, khái quát cả giai đoạn lịch sử hiện đại của Trung Quốc thông qua câu chuyện về các số phận của mỗi thế hệ gia đình nhà Thượng Quan. Bối cảnh chính của câu truyện là vùng Cao Mật, Trung Quốc.
Có nhiều con đường để cảm thụ tác phẩm văn chương, vì vậy trước một “hiện tượng văn học” xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau cũng là điều bình thường làm phong phú thêm đời sống văn học. Báu vật của đời của Mạc Ngôn, một trong những tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc hiện đại.
Trong nền văn học đương đại Trung Quốc, Mạc Ngôn cùng với Vương Mông, Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Phùng Ký Tài, Lục Văn Phu, Trương Tử Long, Cao Hiểu Thanh, Hàn Thiếu Công… đã trở thành nhà văn có tên tuổi được bạn đọc trong và ngoài nước biết đến.
Đề tài truyện của ông rất rộng. Phản ánh sinh hoạt của quân đội thời hiện đại có Bãi cát đen, Đoạn Thủ,…; miêu tả phong tục tập quán nông thôn có Vết hõm trong dép cỏ, Âm nhạc dân gian…; “phản tư lịch sử”, suy ngẫm nhân sinh có Dòng sông khô cạn, Củ cà rốt trong suốt, Thu thủy, Làm đường…; phản ánh hiện thực nông thôn, miêu tả sự xung đột giữa ý thức cũ và mới trong công cuộc cải cách có Ánh chớp hình cầu, Bùng nổ, Cây đu chó trắng…; phản ánh cuộc kháng chiến chống quân xâm lược có Gia tộc Cao lương đỏ (gồm Cao Lương đỏ, Rượu Cao Lương, Nhà quàn Cao Lương, Cẩu đạo, Da chó), Báu vật của đời (Mông to vú nở), Đàn hương hình…
Nhiều người gọi những tác phẩm của Mạc Ngôn là tiểu thuyết “cảm giác mới”. Cảm giác mới bắt nguồn từ nhận thức luận của chủ nghĩa biểu hiện và phương pháp biểu hiện tư tưởng của chủ nghĩa đa đa. Tiểu thuyết cảm giác mới đối lập với tiểu thuyết hiện thực truyền thống, nó không đơn thuần miêu tả hiện thực bề ngoài, mà nhấn mạnh cảm thụ trực giác, đưa cảm giác chủ quan vào trong khách thể đặng sáng tạo ra một hiện thực mới mẻ. Tiểu thuyết của Mạc Ngôn chịu ảnh hưởng của trường phái cảm giác mới của chủ nghĩa hiện đại phương Tây và của Nhật Bản những năm 20 – 30. Mạc Ngôn cho rằng trạng thái sáng tác nhẹ nhàng thoải mái, tự do, muốn nói gì thì nói là trạng thái tốt nhất đối với nhà văn. Khi cánh cửa hồi ức được mở ra, ông thường dùng cảm tính để phê phán, bình phẩm cuộc sống chứ không dùng lí tính để phê phán, bình phẩm cuộc sống.
Tiểu thuyết của Mạc Ngôn không còn là cốt truyện hoàn chỉnh như tiểu thuyết truyền thống mà nó chỉ còn là “cái khung truyện” mà thôi. Nhưng trong cái khung truyện ấy chứa đầy cảm giác, đó là linh hồn của tiểu thuyết Mạc Ngôn. Ông có biệt tài nắm bắt cảm giác. Thế giới cảm giác trong tiểu thuyết Mạc Ngôn mang sắc thái chủ quan mãnh liệt. Đứng trước khách thể, ông “rót” ấn tượng chủ quan của mình vào để tạo ra hiện trạng khác lạ.
Dường như khi sáng tác, Mạc Ngôn huy động mọi tế bào của cơ thể để khám phá hiện thực. Dù là một làn gió nhẹ, một nhánh cỏ, một cây cao lương, một giọt nước trong… cũng được tác giả miêu tả có hồn mang đậm chất chủ thể hóa. Bằng bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp tượng trưng, biến hình, huyền ảo khoa trương… tác giả đã khiến cho một ánh mắt, một nụ cười, một tiếng thở dài, một cảm xúc nhỏ… cũng trở thành hình ảnh có hương có sắc có mùi có vị. Nhờ có cảm giác mới lạ, làm cho bộ mặt cuộc sống mà tác giả mô tả không còn như nguyên dạng nữa. Tác giả mượn nhân vật trong truyện Hồng hoàng nói lên ý đồ sáng tác của mình:
Sẽ có một ngày tôi soạn một vở kịch chân chính, trong đó mộng ảo và hiện thực, khoa học và đồng thoại, thượng đế và ma quỷ, ái tình và mãi dâm, cao quý và ti tiện, mĩ nữ và đại tiện, quá khứ và hiện tại, huân chương và bao cao su… đều đan xen với nhau, gắn chặt với nhau, cái nọ nối cái kia, tạo thành một thế giới hoàn chỉnh. (Mạc Ngôn và những lời tự bạch, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Văn Học, 2004)
Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn còn chịu ảnh hưởng của học thuyết phân tâm học của Freud (tên đầy đủ là Sigmund Schlomo Freud; (1856 – 1939) là một bác sĩ về thần kinh và tâm lý người Áo. Ông được công nhận là người đặt nền móng và phát triển lĩnh vực nghiên cứu về phân tâm học), đồng thời hấp thụ cả thuyết dân tộc học, nhân loại học của Frazer (1854-1941, người Anh). Mạc Ngôn từng nói ông dùng văn học để thể hiện sự tưởng tượng độc đáo. Tiểu thuyết của ông đậm đà màu sắc nguyên sơ, man dại. Những tác phẩm đầu tay như Dòng sông khô cạn, Thu thủy, Âm nhạc dân gian nói nhiều đến bản năng sinh tồn, thể nghiệm nhân sinh mô tả cảnh vật nông thôn cổ xưa qua lăng kính của tuổi thơ. (Lê Huy Tiêu, 2003)
Chủ đề trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn thường biểu hiện về những vấn đề sinh tồn của nhân loại: cái đói, cái rét, tính dục, thù oán, tôn giáo, cái sống cái chết, mê tín dị đoan, chiến tranh…
Trong một bài báo viết về ảnh hưởng của Marquez và Faulkner đối với mình, Mạc Ngôn viết: “Trong vũ trụ bao la, vị trí của con người là vô cùng bé nhỏ, Lịch sử quá khứ và thế giới hiện tại liên quan mật thiết với nhau, máu của lịch sử lại chảy trong mạch máu của người đương đại” (Mạc Ngôn và những tự bạch, Nguyễn Thị Thại dịch, NXB Văn Học, 2004). Dưới ngòi bút của Mạc Ngôn, vừa có sự vạch trần, phê phán thói dâm dục, quan liêu hách dịch của các ông “quan mới” ở nông thôn (Cây tỏi nổi giận), vừa có sự phẫn nộ căm ghét những thói ác của con người (Tội ác, Bỏ con thơ) và có cả hiện tượng sa đọa về luân lí đạo đức cùng sự xót thương sinh mệnh bấp bênh (Ánh chớp hình cầu, Bùng nổ). Mạc Ngôn vừa mô tả sự trỗi dậy của sinh mệnh trước mọi thế lực áp bức, đồng thời cũng chứng minh sự trỗi dậy phản kháng là tốn công vô ích, do đấy tiểu thuyết của ông mang màu sắc bi thương.
Nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Mạc Ngôn khá độc đáo. Tiểu thuyết truyền thống thường dùng ngôi thứ ba để thuật chuyện, còn ở tiểu thuyết Mạc Ngôn thường được kể theo ngôi thứ nhất “tôi”. “Tôi” có khi là người, có khi là đồ vật hoặc động vật; có cái “tôi” là hiện thực, có cái “tôi” là sự kết hợp giữa vật và người. Trong Cao lương đỏ, “tôi” kể về câu chuyện của “ông tôi” (Từ Chiếm Ngao), “bà tôi” (Phương Liên), “bố tôi” (Đậu Quan). Trong Báu vật của đời, – một truyện đề cao vai trò của nữ giới – nhân vật “tôi” (đứa con trai thứ chín của Thượng Quan Lỗ thị) cũng dùng con mắt tuổi thơ để nhìn nhận những chuyện của ông bà cha mẹ, anh chị của mình. Ở đây nhân vật “tôi” dường như chỉ là giả thuyết (tuy vẫn có tính cách) nên ta có cảm giác hư hư thực thực. Khi tả thực thì “tôi” là hiện hữu, khi truyền kì biến hình “tôi” là lãng mạn.
Người kể chuyện trong tiểu thuyết truyền thống là đứng ở góc nhìn biết tất cả, tầm nhìn không bị hạn chế, còn người kể chuyện theo ngôi thứ ba của Mạc Ngôn có tầm nhìn hạn chế, sự hiểu biết của người kể chuyện ít hơn của nhân vật. Người kể chuyện “bé” hơn nhân vật, không phải cái gì anh ta cũng biết. Nhờ có góc nhìn tự thuật đa dạng, luôn thay đổi đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật: tác giả cố ý bảo lưu một số bí mật, gợi lên trí tò mò của độc giả.
Do điểm nhìn tự thuật luôn biến hóa, nên kết cấu truyện của Mạc Ngôn cũng xuất hiện một hình thức tương xứng mới mẻ về không gian và thời gian. Dựa vào sự tưởng tượng như “quỉ nhập tràng”, “Con ma cắm móng tay vào vỏ cây hòe không rút ra được, gà gáy là biến thành xác chết” (“Báu vật của đời” – tr. 381) ranh giới thời gian và không gian, lịch sử và hiện tại, vật lí và tâm lí trở nên mơ hồ. Nghệ thuật xử lí không gian và thời gian trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn giống như trong phim của trường phái hiện đại chủ nghĩa, vừa tồn tại một kết cấu nội tại vừa có một kết cấu ngoại tại. Bản thân cốt truyện có thời gian tuyến tính, nhưng xuất phát từ điểm nhìn của “tôi”, “tôi” cắt cốt truyện ra thành nhiều đoạn, sau đó dùng kí ức ảo mộng của “tôi” để tái tạo nên một thế giới hoàn toàn mới. Tiểu thuyết của ông là một loại kết cấu phức hợp, tuần hoàn, phi tuyến tính, phi lôgic, rất “hỗn độn”, vô thủy vô chung.
Trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn thường xuất hiện ba thế hệ nhân vật: ông bà, bố mẹ, “tôi” và bạn bè cùng trang lứa với “tôi”. Dựa vào ba thế hệ đó, tác giả tạo ra một hệ thống ẩn dụ có ý nghĩa tượng trưng, một bức tranh nhân sinh biến ảo đa sắc màu. Đó là đặc điểm nổi bật trong việc sáng tạo nhân vật của ông. Nhân vật của ông có nhiều loại nhưng chủ yếu vẫn là ba thế hệ đó, và ba thế hệ này có khi là quan hệ huyết thống là người thân của “tôi”, nhưng cũng có khi chỉ là nhân vật tượng trưng ẩn dụ có một nhân cách độc lập có vốn sống văn hóa riêng có nội hàm sinh mệnh riêng. “tôi” (tức Kim Đồng – con thứ chín của Thượng Quan Lỗ thị) trong Báu vật của đời là đứa con hoang, chú được mẹ quá nuông chiều, trở nên yếu hèn mắc bệnh “say mê” bầu vú. Đó là sự thoái hóa của nhân sinh.
Do kí ức về tuổi thơ ở nông thôn quá sâu đậm nên mặc dù sau này lớn lên, Mạc Ngôn từ giã làng quê đi làm thợ, đi lính, nhưng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của ông vẫn đượm mùi dân dã. Ngôn ngữ tự thuật của ông là thiên biến vạn hóa, chen nhiều ca dao thành ngữ, có hơi hướng cổ thi, danh ngôn biền ngẫu, có nhiều câu hay lời đẹp, có thanh có tục.
CHƯƠNG 3
TÌM HIỂU TIỂU THUYẾT “BÁU VẬT CỦA ĐỜI” CỦA
NHÀ VĂN MẠC NGÔN
- 1. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI MẸ VĨ ĐẠI VÀ ĐAU THƯƠNG
1.1. ĐỨA CON DÂU CỦA XÃ HỘI PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
Nói đến đất nước Trung Quốc là nói đến một lịch sử phát triển lâu dài với nhiều công trình kiến trúc vĩ đại, nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều phát minh sáng chế và cả những phong tục tập quán lạc hậu trong thời phong kiến. Mà nạn nhân trực tiếp của những phong tục lạc hậu ấy chủ yếu là những người phụ nữ. Những người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc luôn bị khinh khi, coi rẻ. Họ là nạn nhân của rất nhiều quan niệm hà khắc của một xã hội trọng nam khinh nữ, những người phụ nữ trong cái xã hội ấy bị coi như những công cụ sản xuất không hơn không kém. Trong xã hội ấy, phẩm giá của người phụ nữ cũng chỉ là thứ vô giá trị. Nhưng cho dù có bị khinh khi đến đâu chăng nữa, cho dù có bị chà đạp như thế nào đi nữa thì những người phụ nữ ấy vẫn tin tưởng vào tương lai, vẫn cố gắng hòan thành thiên chức thiêng liêng của mình bằng một tấm lòng chân thành thiết tha.
Lỗ Toàn Nhi, cô gái ở vùng quê Cao Mật, xinh đẹp, dịu dàng và tràn đầy sức sống. Cuộc đời của Toàn Nhi gắn liền với những đau thương, những thăng trầm, cũng như những biến cố của lịch sử ở vùng Cao Mật – Đại La. Đó cũng là lịch sử phát triển của cả đất nước Trung Quốc rộng lớn. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời, cô bé Toàn Nhi đã phải nếm trải sự tàn khốc của chiến tranh. Cả gia đình cô đều bị quân Đức tàn sát cùng với bốn trăm chín mươi hai người khác. Đó là một ngày mùa thu năm Quang Tự thứ 26 tức năm 1900, khi quân Đức ồ ạt tấn công vào thôn Sa Oa, quê của Toàn Nhi, và chúng giết người một cách điên dại, lúc đó cô bé Toàn Nhi vừa tròn sáu tháng tuổi. Là người duy nhất sống sót trong đợt tàn sát ấy, bắt đầu một quãng đời đầy gian truân sau này của Lỗ Toàn Nhi.
Lên năm tuổi, Lỗ Toàn Nhi phải bó chân, một phong tục tàn khốc đã gây ra cho những người phụ nữ Trung Quốc những thương tích tật nguyền suốt đời, họ chịu nhiều đau đớn với chỉ một lý do phụ nữ không bó chân sẽ thành chân bàn cuốc, không ai thèm lấy! (Tr. 763). Với lý do như vật, biết bao bậc bề trên ở Trung Quốc đã ép con ép cháu phải chịu những nỗi đau đớn về thể xác cũng như những dày vò về tinh thần trong tục bó chân.
Với sự miêu tả chân xác, Mạc Ngôn đã giúp cho người đọc thấu hiểu được nỗi đau khôn cùng của những người phụ nữ trong cái tập tục bó chân tàn khốc ấy:
Bà dùng nẹp tre cố định chân mẹ lại, khiến mẹ gào lên như lợn bị chọc tiết, phải kẹp chặt vì tạo hình cho bàn chân nhỏ là rất quan trọng. Sau đó quấn thật chặt hết lớp này đến lớp khác những đoạn vải đã tẩm nước muối phơi khô, rồi lấy dùi gỗ vỗ một lượt. Mẹ kể rằng, buốt đến tận óc… (Tr. 764)
Mãi đến năm mười sáu tuổi, Toàn Nhi mới được giải thoát khỏi tục bó chân. Năm mười bảy tuổi thì được gả vào nhà Thượng Quan. Lúc bước vào nhà Thượng Quan, cuộc đời của cô gái Lỗ Toàn Nhi càng đau khổ, tủi nhục hơn. Là vợ của Thượng Quan Thọ Hỷ, là con dâu trong gia đình khá giả nhưng thực chất, Toàn Nhi chẳng khác gì một kẻ tôi tớ. Lấy một người chồng bất tài, vũ phu lại bất lực, không có khả năng truyền giống, nên mọi sự hành hạ, mọi sự oán trách từ niềm khao khát có cháu nối dõi tông đường đều bị đổ dồn lên người Toàn Nhi. Cô phải thường xuyên chịu những cơn mắng nhiếc cay nghiệt: “Chỉ biết ăn mà không biết đẻ, nuôi cái đồ vô tích sự ấy làm gì!” (Tr. 773) và những trận đòn roi không thương tiếc từ mẹ chồng: “Nhà Thượng Quan tiền oan nghiệp chướng làm sao cưới phải quả mít đực, tuyệt tự đến nơi rồi” (Tr. 747)
Trước nỗi khát khao có cháu của mẹ chồng cũng như những thành kiến của xã hội, Lỗ Toàn Nhi phải mang thân mình đi “xin giống” của những người đàn ông xa lạ. Cuối cùng Toàn Nhi đã sinh cho gia đình Thượng Quan một đàn con chín đứa gồm tám gái một trai, trong đó Lai Đệ và Chiêu Đệ là giống của ông chú dượng Vu Bàn Vả; Lãnh Đệ là con của anh chàng bán vịt dạo; Tưởng Đệ là con của một thầy lang bán rong; Phán Đệ là của lão Béo bán thịt chó ở thôn Sa Tử; Niệm Đệ là giống của Hoà thượng Trí Thông ở chùa Thiên Tề; Cầu Đệ là kết quả của lần Lỗ Toàn Nhi bị bốn tên lính thất trận cưỡng hiếp ở bờ bắc sông Thuồng Luồng; sau cùng là cặp song sinh Kim Đồng, Ngọc Nữ của mục sư Malôa. Nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi không phải là cái chết của cha mẹ, không phải là sự hành hạ thân xác của tục bó chân, cũng không phải do sự vũ phu của người chồng mà đó chính là tập tục nghiệt ngã buộc phải có con trai. Đây chính là điều đã buộc Lỗ Toàn Nhi phải ngủ với những người đàn ông không mong muốn, phải đem tiết hạnh, đem tấm thân của mình đánh đổi lấy sự bình yên trong cuộc sống. Lỗ thị, trước hết là thân phận của người phụ nữ Trung Quốc bị khinh khi, coi rẻ phẩm chất giá trị trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Việc ăn nằm, sinh nở của Lỗ thị trước hết là sự thách thức với xã hội, là tiếng cười ngạo nghễ, chống lại những tập tục phi nghĩa lí của xã hội.
Sinh được đứa con gái đầu lòng, cứ tưởng rằng sẽ được như lời của mẹ chồng khấn vái: Tạ ơn trời đất, cuối cùng thì nẻ đít ra rồi! Xin Bồ Tát phù hộ sang năm cho gia đình con xin đứa con trai!. Dù phải đi “xin giống” của sáu người đàn ông, nhưng rồi bảy đứa con ra đời đều là bảy cô con gái cả. Bảy đứa con toàn gái làm cho cuộc sống của Lỗ thị trong gia đình chồng càng thêm khốn khổ: “Từ khi sinh đứa con gái thứ tư, bầu trời nhà Thượng Quan lúc nào cũng mây đen vần vũ, mặt bà nội như lưỡi hái vừa lấy ra khỏi nước tôi, sẵn sàng đâm chém ai đó bất cứ lúc nào” (Tr. 790)
Bị đối xử thua một con vật, vừa mới sinh con xong, Toàn Nhi phải phơi mình giữa cái nắng trưa để lật rơm trong khi “bụng vẫn đau quặn, dạ con vừa trút được gánh nặng co bóp dữ dội, mồ hôi lạnh chảy cùng mình, từng dòng âm ấm từ cửa mình chảy ra ướt đẫm hai đùi” (Tr. 792); phải sinh con trên một cái giường đầy đất đá đã nhão ra vì máu, “vượt cạn” trong sự lo lắng, sợ hãi, bẩn thỉu và cô đơn trong khi cả nhà đang lo lắng, nâng niu một con lừa cũng đang đau đẻ.
Người phụ nữ ấy nhận ra một chân lí nghiệt ngã: “Là đàn bà, không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không được, sinh con toàn con gái cũng không được. Muốn có địa vị trong gia đình, dứt khoát phải sinh con trai” (Tr. 783). Cái xã hội mà tính mạng con người bị khinh khi vì không có con trai “không có con trai thì suốt đời cô chỉ là nô lệ; đẻ con trai, cô lập tức thành chủ nhà”. Chính cái xã hội đó đã làm thay đổi con người của Lỗ Toàn Nhi, từ một cô gái hiền lành chịu đựng đến nhẫn nhục cô đã trở nên liều lĩnh, mang trong lòng sự thù hận, căm ghét xã hội cùng những tập tục phi lí và căm thù nhà Thượng Quan vô nhân đạo. Lỗ Toàn Nhi từ đó luôn nuôi ý định trả thù và xem việc ăn nằm với những người đàn ông khác là cách trả thù tốt nhất: “Toàn Nhi này có đẻ thêm một ngàn đứa nữa, cũng không phải là giống nhà Thượng Quan” (Tr. 785)
Với giọng gào thét hả hê, nhưng cũng đầy chua chát nghẹn ngào, xót xa cho thân phận của mình: Các người nghe thấy rồi chứ! Các người cứ cười đi! Chú ơi, đời là thế, cháu muốn làm chính chuyên liệt nữ thì bị đánh, bị mắng, bị trả về nhà mẹ đẻ; cháu đi xin trộm giống của người khác thì lại trở thành chính nhân quân tử! Chú ơi, con thuyền của cháu sớm muộn cũng chìm, không chìm ở rãnh nước nhà chú Kèo thì cũng chìm trong rãnh nước nhà chú Cột, chú ơi! (Tr.793), Toàn Nhi đồng thời cũng vạch trần những nghịch lí bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc phải gánh chịu. Tuy nhiên, bên trong người phụ nữ ấy, luôn có một sức sống mãnh liệt, không chỉ ở khả năng thiên phú mà còn là có một niềm tin vào tương lai, là khát khao được sống, khát khao tìm được tình yêu, hạnh phúc gia đình đích thực:
Đứng trước dòng nước trong xanh, mẹ nảy ra ý định nhảy xuống sông tự vẫn. Nhưng khi vén áo chuẩn bị nhảy, mẹ bỗng trông thấy bầu trời xanh biếc của vùng đông bắc Cao Mật in bóng dưới lòng sông. Mấy cụm mây trắng như bông bay ngang trời, những con chim sơn ca cất tiếng hót véo von dưới cụm mây trắng. Những con cá nhỏ, trong suốt bơi trong bóng mây in dưới lòng sông. Hình như chẳng có chuyện gì xảy ra, trời vẫn trong xanh, mây vẫn nhởn nhơ, lười nhác và trắng muốt như thế. Chim chóc không vì có diều hâu mà ngừng ca hát, con cá nhỏ không vì có chim bói cá mà ngừng bơi lội. Mẹ cảm thấy một làn gió tươi mát xua tan mọi uất ức trong lòng. (Tr. 802)
Mang trong mình niềm tin vào cuộc sống, đi tìm sự công bằng cho thân phận người phụ nữ, mặc dù in dấu trên hình hài và trong tận sâu tâm hồn nhiều vết thương do xã hội gây ra, nên không đơn thuần chỉ là nạn nhân của xã hội phong kiến Trung Quốc mà Lỗ thị còn chính là nhân chứng tố cáo sự cay nghiệt của xã hội ấy. Và cũng là người đưa nhát búa đầu tiên đập vào nền móng vốn khập khiễng của những tập tục lạc hậu, là sự chống đối phản kháng lại chế độ xã hội phong kiến hà khắc. Từ khi sinh ra đã được tạo hóa giao phó thiên chức thiêng liêng – làm mẹ, suốt đời bám víu vào thiên chức ấy, sức mạnh cuộc sống của bà là từ sự bảo bọc những đứa con mà ra. Với khả năng thiên phú ấy, dù cho có bị chà đạp bị tiêu diệt đến đâu thì nó vẫn trường tồn bằng một sức mạnh kì diệu, một niềm tin tuyệt đối, vì bà biết rằng nếu đánh mất thiên chức làm mẹ thì cũng là đánh mất luôn cả sự sống. Lỗ thị là một bà mẹ vĩ đại.
1.2. NGƯỜI MẸ LỖ THỊ – THÂN PHẬN ĐẤT NƯỚC TRUNG HOA VĨ ĐẠI VÀ ĐAU THƯƠNG
Với thiên chức làm mẹ, Lỗ thị đảm đương nhiệm vụ đó với tất cả tình thương yêu và sự hi sinh cao cả nhất. Dù đã phải đi “xin giống dạo” của nhiều người đàn ông xa lạ vì xuất phát từ mục đích duy nhất là có con trai để thỏa nỗi khát khao hằn học của mẹ chồng, nhưng hơn thế nữa là thoát khỏi sự dày vò của những quan niệm cổ hủ khắc nghiệt. Tuy nhiên kết quả của hành động ấy là bảy cô con gái, điều đó làm cho cuộc sống của Lỗ thị trong gia đình chồng càng thêm khốn đốn, nhưng không vì thế mà bà căm ghét, ghẻ lạnh những đứa con của mình mà ngược lại bà luôn dành trọn vẹn tình thương cho chúng:
Niệm Đệ vừa lọt lòng oe oe khóc, mẹ chồng thấy vẫn là con gái, liền chẳng nói chẳng rằng túm lấy hai chân định đem dìm chết trong chum nước. Mẹ nhào xuống đất ôm chặt hai chân mẹ chồng, van xin: – Mẹ ơi mẹ, xin mẹ mở lượng từ bi, thương con hầu hạ mẹ nửa năm nay mà tha cho cháu bé! (Tr. 801)
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, bà cũng sẵn sàng dang tay che chở, bảo bọc cho đàn con. Nói cách khác, những đứa con thân yêu của bà chính là chỗ dựa duy nhất để bà tiếp tục sống. Đối với bà chúng như những thiên thần ngây thơ, trong sáng; vừa như những sinh linh nhỏ bé dễ tổn thương nhất: “Xúm xít quanh mẹ là ba sinh vật bé bỏng, đó là Lai Đệ, Chiêu Đệ và Lãnh Đệ của mẹ” (Tr. 798).
Khi cả nhà chồng bị bọn Nhật tàn sát, cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi bước sang một trang mới, kết thúc kiếp làm dâu đau khổ chuyển sang vai trò làm chủ gia đình, làm mẹ, làm bà. Lỗ thị gánh trên vai trách nhiệm là người chủ là trụ cột của gia đình, từ khi chứng kiến cái chết của người tình, mục sư Malôa, và bị bọn “đội hỏa mai lừa đen” hãm hiếp thì tình yêu và cuộc sống của bà đều hướng đến và dâng trọn cho những đứa con thân yêu của mình.
Mạc Ngôn đã dựng nên hình ảnh người mẹ Trung Quốc vĩ đại suốt cuộc đời hi sinh cho con cháu. Lỗ thị là hình ảnh của những bà mẹ Trung Quốc tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống và sự hi sinh, sự yêu thương vô hạn với thế hệ tương lai của gia đình, của đất nước. Người mẹ ấy luôn dang rộng đôi tay che chở cho đàn con trước nanh vuốt của kẻ thù. Giặc ngoại xâm, các thế lực chính trị thay nhau đến rồi đi, bao biến thiên, bao bi kịch xảy ra với vùng đất Cao Mật, với gia đình Thượng Quan, nhưng rồi người mẹ Lỗ thị với sức mạnh kiên cường, tình yêu bao la và niềm tin mạnh mẽ cùng đàn con đã bươn chải vượt qua tất cả.
Mỗi người con của Lỗ thị đều lớn lên trong vòng tay yêu thương của bà, họ được người mẹ vĩ đại ấy sinh ra và nuôi lớn đúng vào lúc đất nước Trung Quốc có nhiều biến động. Mỗi đứa con lớn lên, mỗi người họ đều chọn một con đường, một cách sống, và một cách chết trên cuộc đời đầy gian truân khổ ải. Họ thậm chí còn xung khắc, thù ghét nhau bởi sự đối lập trong chính kiến, lí tưởng, nhưng điểm tựa duy nhất, nguồn an ủi duy nhất của họ chính là người mẹ Lỗ thị. Đối với các con, bà sẵn sàng làm ngọn gió, chắp thêm sức mạnh cho các con vươn đôi cánh bay thật xa, thật lâu và khi những đôi cánh ấy mệt mỏi, thì bà mẹ Lỗ thị lại là nguồn an ủi, là chốn quay về bình yên và an toàn nhất.
Nỗi đau lớn nhất của bà là phải xa lìa con cái và không cho chúng được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Với tình yêu của một người mẹ, Lỗ thị luôn nỗ lực để sinh tồn, vì chỉ có sinh tồn mới có thể nuôi dưỡng chăm lo cho các con. Hai nạn đói kinh hoàng năm 1941 và 1960 đã tác động mạnh mẽ đến Lỗ thị và gia đình Thượng Quan. Năm 1941, để cứu lấy đàn con, Lỗ thị phải đứt ruột đưa đàn con đi “bán”, bán mà không cần tiền, chỉ cần xin đối xử tốt với cháu! Vì Lỗ thị biết rằng nếu chúng được nhận làm con của những gia đình giàu sang trong hoàn cảnh này, những đứa con của bà chắc chắn sẽ được sống sót. Cũng trong năm đó, Lỗ thị phải bàng hoàng, ray rứt mặt trắng nhợt, lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà khi nhận được tiền bán thân của đứa con gái thứ tư – Tưởng Đệ. Vì muốn chữa bệnh cho mẹ và cứu lấy chị em trong cơn đói, Tưởng Đệ đã bằng lòng bán thân vào nhà chứa với giá ba trăm đồng. Năm 1960, Lỗ thị đã biến bao tử của mình thành một chiếc túi chứa đậu. Bà trộm đậu trong hợp tác xã rồi nuốt vào, về đến nhà lại nôn ra, lấy đậu để nuôi con nuôi cháu: “lần đầu tiên muốn nôn thì phải lấy đũa ngoáy cổ họng, cảnh đó thì … bây giờ quen rồi, cúi xuống là nôn ra. Bụng mẹ bây giờ chẳng khác cái bao lương thực” (Tr. 584). Sức mạnh sinh tồn của Lỗ thị thật mãnh liệt, chính niềm tin vào tương lai và tình yêu thương vô bờ đối với đàn con là động lực nuôi dưỡng ý chí sinh tồn của người mẹ vĩ đại ấy.
Bao thế lực chính trị đến rồi lại đi, vinh quang rồi tàn lụi, đem đến cho vùng đất Cao Mật biết bao biến đổi, Lỗ thị và gia đình Thượng Quan cũng chịu ảnh hưởng của những lần thay ngôi đổi chúa ấy. Lỗ thị nhìn các thế lực chính trị không phải bằng đôi mắt của một đảng viên Cộng sản Đảng hay Quốc dân Đảng, bà nhìn hành động, nhìn cách cư xử, nhìn bộ mặt của các thế lực ấy bằng con mắt của một người lao động – người mẹ. Điểm nhìn đó không hề có một điểm gẫy, một góc khuất nào. Ở góc nhìn đó, bà nhìn thấy được những cái hay cái dở, những mặt tốt mặt xấu của các lực lượng nắm quyền. Nạn nhân trực tiếp của các thế lực ấy vẫn là người dân.
Hết quân Đức, quân Nhật, Quốc dân Đảng rồi đến Cộng sản Đảng, mỗi lần thay chủ đổi ngôi là mỗi lần nhân dân chứng kiến cảnh li loạn, cảnh chạy giặc, cảnh tang tóc … Lỗ thị đã bao lần phải mất con mất cháu trong những đợt biến loạn ấy, mà Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng, Chiêu Đệ rồi đến Câm anh, Câm em đều là nạn nhân. Các thế lực cầm quyền đem đến cho Lỗ thị biết bao tai họa, biết bao mất mát, biết bao khổ đau thế nhưng bà vẫn dang rộng đôi tay, mở rộng tấm lòng cưu mang che chở, nuôi dưỡng những đứa con rơi của chúng (ở đây nói đến con cái của các thế lực chính trị ấy khi thất thế đã bỏ lại cho bà ngoại Lỗ thị nuôi dưỡng). Ngoài việc nuôi dưỡng đàn con tám gái một trai của mình trưởng thành, trong suốt cuộc đời của mình, Lỗ thị còn cưu mang thêm tám đứa cháu gọi bà bằng ngoại. Tám đứa cháu mỗi đứa một hoàng cảnh, mỗi đứa một xuất thân. Có đứa cha mẹ là đảng viên Cộng sản Đảng (Lỗ Chiến Thắng, Câm anh, Câm em), có đứa là con của đảng viên Quốc dân Đảng (Tư Mã Lương, Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng), có đứa là con của Hán gian (Sa Tảo Hoa), có đứa chỉ là con của thường dân (Hàn Vẹt). Dù cha mẹ chúng là ai, thuộc đảng phái nào, tư tưởng chính trị ra sao thì Lỗ thị vẫn dành cho chúng tình thương yêu, tình người thân thiết nhất:
Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ… mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục bước, chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết, tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại… (Tr. 172)
Tám đứa cháu, tám sinh linh nhỏ bé trong tay bà đều được bà yêu thương, chăm sóc, bà không cần biết cha chúng là ai, là người của đảng phái nào, đối với bà chúng là những đứa cháu ngoại. Bà luôn đưa tay nâng đỡ chúng, che chở chúng trước mọi nguy hiểm dù việc làm ấy của bà có thể nguy hiểm đến tính mạng:
Mẹ ưỡn ngực, thét lên chói tai: – Thằng súc sinh giết tao trước đi! Mẹ xông tới mặt thằng câm cào vào mặt hắn. Mặt hắn xuất hiện bốn rãnh màu trắng, sau đó máu từ trong rãnh tứa ra… lát sau hắn “ầu ầu” lên mấy tiếng, đấm mẹ một quả, mẹ ngã bay về phía chúng tôi. Chúng tôi vừa khóc, vừa phủ phục trên mẹ. (Tr. 347).
Những sinh linh bé bỏng ấy được chăm sóc, nuôi dưỡng bằng bàn tay đầy yêu thương của bà ngoại Lỗ thị. Cuộc sống của chúng thật sự đã gắn chặt với bà, chúng là sức mạnh là động lực là lí do giúp bà luôn kiên cường chiến đấu cho mục tiêu sinh tồn. Vì vậy khi chúng mất đi, bà cũng đau đớn như mất đi “núm ruột” của chính mình:
Mẹ bốc một nắm đất nhét vào lỗ thủng, nhưng máu và ruột cứ đẩy đất ra ngoài, mẹ bóc nắm nữa rồi nắm nữa nhét vào mà vẫn không bịt được, ruột thằng Câm em đùn ra đầy nửa sọt… mẹ buông xuôi hai tay đờ đẫn nhìn đống ruột rồi đột nhiên mẹ nôn ra mật xanh mật vàng, sau đó mẹ òa khóc nức nở. (Tr. 389).
Trái tim dào dạt tình yêu của Lỗ thị luôn rộng mở đón đàn cháu nhỏ. Thiên chức làm mẹ được vận dụng một cách triệt để chỉ vì một mục đích duy nhất: nuôi sống đàn con. Vòng tay bà luôn ôm ấp chở che cho mọi đứa con không phân biệt quan điểm chính trị, bảo bọc uốn nắn cho những đứa cháu – những tương lai được sống. Tất cả họ đều được bà mẹ Lỗ thị sinh ra và nuôi dưỡng đúng vào lúc đất nước Trung Quốc cũng đang trong cơn đau đẻ – một con đường, một xã hội phù hợp.
Dù những đứa con có xung khắc, có thù ghét nhau vì quan điểm chính trị thì Lỗ thị vẫn là điểm tựa vững vàng, là điểm kết nối duy nhất của họ. Đất nước cũng vật vã thăng trầm như đời mẹ. Đó không còn là thân phận của người phụ nữ nữa. Đó là thân phận của đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương. Đau thương và vĩ đại như cơn lốc tràn qua lục địa Trung Hoa mênh mông, xoáy quật thân phận người phụ nữ như Lỗ thị đến chết vẫn chưa yên.
Người ta nói sữa là sức sống là máu của người phụ nữ. Do vậy suốt đời, Lỗ thị đem nguồn sống quí giá ấy nuôi dưỡng một hoài bão mang tên Kim Đồng. Đặt trọn niềm hi vọng vào đứa con trai duy nhất trong chuỗi sinh nở dằn dặt của mình, Lỗ thị đã cho Kim Đồng tất cả nguồn sống của mình thông qua nguồn sữa. Nguồn sữa ấy chỉ dành riêng cho Kim Đồng, ngay cả chị em song sinh của Kim Đồng là Ngọc Nữ cũng không được nếm qua dù chỉ một lần. Ở đây ta lờ mờ thấy được di căn của căn bệnh chế độ phong kiến – sự trọng nam khinh nữ trong con người Lỗ thị. Đây là hạn chế của Lỗ thị và những người phụ nữ khác trên lục địa Trung Quốc trong buổi giao thời: “Phong kiến – Dân chủ – Cộng sản” . Bà cũng từng ép Lai Đệ bỏ Sa Nguyệt Lượng lấy Tôn Bất Ngôn làm cho Lai Đệ phải bỏ nhà theo người yêu, và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến kết thúc bi kịch của Lai Đệ; Lỗ thị từng cấm đoán Lãnh Đệ quan hệ với Hàn Chim khiến Lãnh Đệ trở nên điên dại… chính hạn chế này đã khiến Lỗ thị có một số hành động sai về lí nêu trên nhưng nếu xét về tình (tình yêu của một người mẹ đối với con) thì ta có thể hoàn toàn cảm thông được.
Lỗ thị là một nhân vật rất hiện thực và cũng rất tượng trưng. Sự biến chuyển vận động của cuộc đời Lỗ thị với đầy gian truân, vật vã thăng trầm nhưng vô cùng vĩ đại cũng là hình ảnh đất nước Trung Hoa trên bước đường phát triển. Điều ám ảnh tác giả và độc giả đó là hình ảnh người mẹ với lòng khoan dung vô bờ bến chạy dọc suốt chiều dài tác phẩm. Một phụ nữ tượng trưng cho một đất nước ở khả năng thiên phú mà cho dù có bị chà đạp, tiêu diệt đến đâu thì vẫn trường tồn, bởi vì khả năng đó cũng chính là sự sống và nó nhân danh sự sống.
- 2. HÌNH TƯỢNG NHỮNG CÔ GÁI BIẾT ƯỚC MƠ, KHAO KHÁT SỐNG VÀ HÀNH ĐỘNG
Lỗ Toàn Nhi – bà mẹ vĩ đại, thân phận của đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương, mang trên mình thiên chức làm mẹ thiêng liêng và khát vọng sinh tồn mạnh mẽ. Bà là cầu nối, là điểm tựa cho những người con bước vào đời. Những cô con gái nhà Thượng Quan được người mẹ Lỗ thị sinh ra trong lúc đất nước Trung Quốc cũng đang trong cơn “đau đẻ”. Đàn con của Lỗ thị có đủ mọi thành phần của xã hội – đó là một xã hội Trung Quốc thu nhỏ. Mỗi đứa con chọn cho mình một con đường, một cách sống và một cách chết riêng trong hành trình cuộc sống. Họ thậm chí còn đối đầu nhau, thù ghét nhau do sự lựa chọn chính kiến, lí tưởng khác nhau.
Các cô gái nhà Thượng Quan chính là các luồng tư tưởng, các cách sống cách nghĩ của người dân Trung Quốc trong lịch sử phát triển của đất nước Đông Á này. Đó là sự vận động, sự biến đổi của bộ mặt xã hội Trung Quốc trong lịch sử phát triển được Mạc Ngôn khắc họa một cách tài tình, chân thật và sống động. Qua số phận của những cô gái nhà Thượng Quan, ta phần nào thấy được những biến động trong xã hội Trung Quốc to lớn đến mức nào; đồng thời cũng thấy được những chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng của người dân Trung Quốc. Biết bao sự kiện, biết bao biến động xảy đến với vùng Cao Mật và gia đình Thượng Quan, tất cả những biến chuyển ấy làm cho sự nhập cuộc, dấn thân của con cháu nhà Thượng Quan thêm sống động và chân thật. Chín chị em nhà Thượng Quan với những thăng trầm, những nỗi trần ai cùng cực, mỗi người cũng đã là một thiên tiểu thuyết.
Chín chị em nhà Thượng Quan gồm tám gái một trai, là kết quả của những lần mang nặng đẻ đau của Lỗ thị. Trong đó, Kim Đồng, đứa con trai duy nhất của Lỗ thị, chính là niềm hi vọng, sự kì vọng của Lỗ thị về tương lai của gia đình Thượng Quan. Nhưng đứa con trai duy nhất trong chuỗi sinh nở dằng dặc một đời của người mẹ Lỗ thị ấy lại suốt đời bám vào vú mẹ. Trong khi các cô gái nhà Thượng Quan – những cô gái sống trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ – lại xông xáo, quyết liệt dấn thân vào đời, ước mơ, tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc.
Người đầu tiên đi vào cuộc dấn thân vĩ đại ấy chính là chị cả Lai Đệ. Lai Đệ là con của Lỗ thị và ông chú dượng Vu Bàn Vả. Từ nhỏ, Lai đệ đã phải chịu sự hành hạ của bà nội vì chị là con gái. Chứng kiến sự bất công và sự khổ nhục của mẹ trong gia đình, chị hết mực thương yêu mẹ, thay mẹ chăm sóc đàn em nhỏ, chịu trăm nghìn khổ cực… hoàn cảnh sống ấy đã rèn luyện cho chị một cá tính mạnh mẽ, kiên cường, sự căm thù những tập tục lạc hậu và ước mơ một cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Cuộc đời của Lai Đệ cũng thăng trầm như số phận của gia đình Thượng Quan. Năm mười tám tuổi, cô cãi lời mẹ, bỏ nhà trốn theo Sa Nguyệt Lượng:
Thượng Quan Lai Đệ mười tám tuổi, mặc chiếc áo lông tử điêu, cổ quàng khăn lông chồn, đã bỏ đi cùng với Đội trưởng Sa Nguyệt Lượng từ đêm. Tám mươi tám con thỏ là sính lễ nộp cho mẹ, và cũng là cách ra oai của Sa Nguyệt Lượng đối với mẹ (Tr. 119).
Đó là hành động phản kháng chống lại sự ép duyên của mẹ, hiểu rộng ra đó là sự vùng dậy của những người phụ nữ Trung Hoa chống lại những tập tục lạc hậu trong xã hội.
Làm vợ của kẻ bị xem là Hán gian – Sa Nguyệt Lượng, rồi quan hệ với Tư Mã Khố, sau đó phải lấy Tôn Bất Ngôn để trả nợ cho gia đình, rồi ngoại tình với Hàn Chim. Cuộc đời của Lai Đệ cũng thật là li kì và đầy nước mắt.
Cuộc đời Lai Đệ phảng phất hình ảnh của người mẹ vị đại Lỗ thị, đầy vất vả và nhiều bi thương cùng với tấm lòng hi sinh cho gia đình và con cái. Tấm lòng ấy được thể hiện qua các hành động cụ thể cao cả và cảm động.
Một thân một mình xông vào trận địa của Lỗ Lập Nhân cứu đứa con nhỏ: “Chị Cả nói: – Mẹ ơi, con về lần này là để cứu cháu… để cho bọn thằng Lỗ mừng hụt! Mẹ ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được báo đáp sau này” (Tr. 205). Chị từng lấy thân mình bảo vệ cho hai cháu Tư Mã Hoàng và Tư Mã Phượng ngay trước đầu súng của bọn Tôn Bất Ngôn:
Một phụ nữ… vừa chạy vừa gào thét như con gà mái chạy đến bảo vệ cho đàn con… Chị chạy thẳng đến ven đầm, đứng chặn trước mặt hai đứa trẻ: – Bắn tôi đi, giết tôi đi! – Chị gào thét điên cuồng… – Tôi chính là mẹ của chúng (Tr. 394)
Người con gái ấy có lúc lại phải điên dại trong nỗi đau thương mất chồng: “Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng” (Tr. 221, 222)
Ngay từ nhỏ, cô gái Lai Đệ đã tỏ ra gan dạ, kiên cường, là chỗ dựa cho mẹ, cho cả đàn em nhỏ:
Cô trông thấy con ngựa nhỏ bị tan xác… Cô chợt hiểu ra. Nhìn cái cẳng ngựa, cô nhìn thấy chết chóc. Một nỗi sợ ập đến, cô bủn rủn chân tay, răng va vào nhau lập cập. cô vụt dậy, lôi các em vào bụi. (Tr. 46, 47).
Trên đường chạy loạn mùa đông năm 1947, Lai Đệ là trụ cột của cả gia đình Thượng Quan mẹ góa con côi. Lúc thì là “con lừa” thồ hàng qua những đoạn đường gồ ghề khó nhọc:
Chị Lai Đệ lúc tỉnh lúc lú thì đi trước xe, vai khoác dây, lưng gập lại, cổ vươn ra như kiếp trâu kéo, chiếc xe rít kin kít chói tai… Khi tiếng vào vùng trũng và ẩm ướt, bánh xe chuyển động khó khăn, chị Cả phía trước, sợi dây kéo hằn sâu vào thịt… Tiếng thở của chị khiến người ta hát hoản. (Tr. 353, 354).
Lúc lại là một “chiến sĩ” kiên cường bảo vệ gia đình trước mọi nguy hiểm từ bên ngoài:
Chị Lai Đệ giằng lấy khẩu súng trong tay mẹ, giật cơ bẩm, cái vỏ đạn văng ra, đẩy cơ bẩm, một viên đạn lên nòng, bẻ gập quy lát xuống, chĩa súng phía trên đầu người đàn ông nổ một phát. Viên đạn cùng với tia lửa vút lên trời…Mẹ nhìn chị Lai Đệ bằng ánh mắt cảm kích rồi nhích vào phía trong, nhường vị trí canh gác cho chị. (Tr. 373)
Mọi lúc mọi nơi, Lai Đệ luôn là một chỗ dựa vững chắc, đáng tin cậy, là một phụ nữ cúng rắn, mạnh mẽ chị luôn luôn nỗ lực, kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách và không khuất phục trước mọi bất công phi lí. Song song với tính cách cương nghị cứng cỏi ấy là một tâm hồn lãng mạn, một trái tim rộn ràng, thổn thức nhưng cũng quyết liệt trong tình yêu cùng với sự khát khao hạnh phúc đích thực Nhưng chị Cả thì rất kiên quyết nói: – Mẹ cho con được làm theo ý mình. Con cũng muốn cho gia đình mình được tốt đẹp (Tr. 113).
Hành động dấn thân vào cuộc đời để đi tìm hạnh phúc thật sự, đi theo tiếng gọi con tim của Lai Đệ cũng là hình ảnh của những cô gái Trung Quốc trong buổi đầu giải phóng và đổi mới tư tưởng. Trong những ngày đầu của sự tự do ấy, những cô gái Trung Quốc giàu tình cảm với sự khát khao yêu và được yêu cũng gặp nhiều bỡ ngỡ khó khăn. Lần mò trong bóng tối ngột ngạc trong chế độ phong kiến bấy lâu, nay bất chợt đứng giữa ánh sáng tự do của chế độ dân chủ, những cô gái như choáng ngộp nhưng cũng vô cùng sung sướng. Họ hân hoan, mở rộng trái tim đón nhận những ngọt ngào của ngọn gió mới, dang đôi cánh bay lượn trên bầu trời rộng với những ước mơ, những hoài bão về một cuộc sống mới. Tuy nhiên bầu trời mới không rộng, không cao và không rực rỡ ánh sáng như họ nghĩ, những cánh chim ấy cảm thấy hụt hẫng khi nhận ra rằng thứ “tự do” ấy chỉ là một chiếc lồng lớn hơn mang tên “dân chủ tư sản” (sau cách mạng Tân Hợi). Họ cảm thấy chán nản, mệt mỏi, cô đơn và cuối cùng là sự chấp nhận một bến đỗ không như mơ ước. Đây là một sự kết thúc cho cuộc hành trình tìm kiếm nhưng đồng thời cũng là sự khởi đầu cho chuỗi ngày bất hạnh phía trước. Chính sự không trọn vẹn ấy giải thích cho việc tại sao các cô gái lại luôn khát khao vươn tới hạnh phúc và không nguôi kiếm tìm một tình yêu đúng nghĩa.
Ở Lai Đệ, sau khi mất đi người chồng Sa Nguyệt Lượng mà cô hằng yêu quí, cô trở nên điên dại, nửa tỉnh nửa mê, cô tự nhốt mình trong những kỉ niệm với người chồng quá cố. Mãi đến khi Tư Mã Khố đến giải thoát cho cô bằng một cuộc giao hoan giữa một đêm đầy sao:
Tư Mã Khố nói, chị chẳng cuồng lên rồi đó sao? Có tôi đây… Lai Đệ gào lên như điên như cuồng,… chết khát thôi, chết thèm thôi… Tư Mã Khố nói: – Chị ơi, chị khát thì tôi thừa nước, chị là sóng thì tôi là thuyền, chị khô hạn thì tôi là mưa, tôi là cứu tinh của chị đây! Hai người cuộn lấy nhau. (Tr. 284)
“Cơn khô hạn” chưa dứt hẳn thì “người cứu tinh” – Tư Mã Khố đã chết. Lai Đệ lại rơi vào trạng thái điên dại. Chứng kiến những sự mất mát của gia đình, bị số phận bông đùa trêu chọc nhưng trong chị luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Phải hi sinh giải thắt nút oan nghiệt giữa gia đình Thượng Quan và Tôn Bất Ngôn, Lai Đệ gạt nước mắt chấp nhận lấy Tôn Bất Ngôn – một tên câm hung tợn đi qua chiến tranh, trông hắn như một con quái vật:
Hai cánh tay dài quá khổ, bàn tay đeo găng trắng bằng vải bông lồng vào hai chiếc ghế nhỏ. Một đệm da gắn dưới đít, như là một bộ phận của mông. Hai ống quần rộng thùng thình buột lại với nhau trước bụng. Hình như hai chân hắn cụt đến bẹn. (Tr. 492, 493)
Tôn Bất Ngôn hành hạ Lai Đệ về thân xác lẫn tinh thần. Hắn ngấu nghiến thân thể chị như để trả thù cho lần thất hôn mười sáu năm về trước.
Sống trong cuộc sống đầy dày vò nhưng Lai Đệ vẫn không ngừng vươn lên, không ngừng tin tưởng, không ngừng ước ao và tìm kiếm tình yêu của mình. Trong chính trong lúc vật vả ấy, Lai Đệ đã tìm được tình yêu của mình. Khi người đàn ông gương mặt đầy sẹo, hai vành tai quăn queo như nấm mộc nhĩ bước vào nhà Thượng Quan với những lời lắp bắm Lãnh … Đệ …Tôi là chồng … là Hàn … Chim (Tr. 310) và khi Con chim nhỏ xù lông cổ, cất tiếng hót réo rắt gọi bạn tình, tiếng hót đằm thắm đến nỗi làm rung lên sợi dây tình cảm của những người phụ nữ.(Tr. 531) thì cũng là lúc bắt đầu cuộc tình kì lạ giữa chị Cả và Hàn Chim.
Cuộc tình “kì lạ” ấy đến như một tất yếu, cái hay ở đây là Mạc Ngôn đã kịp “chộp” lấy những chuyển biến mạnh mẻ bên trong của Lai Đệ, tác giả đã cho chúng ta thấy được sự khát khao tình yêu chân thành của Lai Đệ lớn và mạnh như thế nào. Ở đây, lí trí không còn tác dụng nữa, chỉ còn lại những tình cảm, những cảm xúc, những khát khao, những nỗi uẩn khúc và tiếng nói của con tim:
Chị cảm thấy hình như con chim muốn chuyển cho chị một thông điệp thần bí, một sự lôi cuốn vừa hứng khởi lại vừa dáng sợ. Hàn Chim gật đầu với chị rồi đi vào trong phòng, con chim bay theo anh… Chị Lai Đệ ngẩn người, chạy vào phòng Hàn Chim, vừa chạy vừa khóc không một chút xấu hổ. (Tr. 531, 532).
Không ngẫu nhiên mà tác giả gọi đây là một cuộc tình “kì lạ”, đó không chỉ đơn giản là một cuộc tình với những thoả mãn về thể xác, đó còn là sự mở đường cho một con “người” về lại với xã hội con người – Hàn Chim; đó còn là sự giải thoát cho một trái tim yêu tha thiết và sự trả thù của cô với Thằng Câm – chồng cô:
Hàn Chim khiến chị hoàn toàn thỏa mãn… sự ngốn ngấu trong ăn vụng trái cấm của Hàn Chim khiến chị thỏa mãn về dục vọng, đồng thời là sự trả thù Thằng Câm. (Tr. 534)
Mạc Ngôn đã đưa nhân vật vào tận cùng của sự chán chường, đau khổ và lại khéo léo tạo ra những tình huống giải quyết để nhân vật bộc được bộc lộ mình một cách toàn diện nhất. Cái khéo của Mạc Ngôn đó chính là sự thể hiện tình huống một cách tất yếu, tự nhiên và đa chiều.
Cái tất yếu, tự nhiên thì như đã nói ở trên, đó là sự giải thoát mãnh liệt của những nỗi uẩn khúc và sự khát khao được sống, được yêu, được hạnh phúc của Lai Đệ. Còn cái đa chiều? Đó chính là cái hay, cái độc đáo của tình huống. Hàn Chim là người xóa tan những nỗi uẩn khúc, là người xoa dịu “cơn khát” của Lai Đệ, sự xuất hiện của Hàn Chim trong cuộc đời của Lai Đệ đã chấm dứt cuộc sống nửa tỉnh nửa mê và thoả mãn khát khao yêu thương của Chị Cả nhà Thượng Quan. Nhưng đồng thời, nó lại mở ra một nút thắt mới, đó chính là sự bất chính trong tình yêu (một tình yêu vụng trộm, một mối tình loạn luân), sự xuống cấp trong tình cảm gia đình và nó tạo nên những mâu thuẫn mới, những bi kịch mới trong cuộc đời Lai Đệ: “Cuộc tình kỳ lạ giữa chị Cả và Hàn Chim như hoa cây thuốc phiện, rực rỡ và cuồng nhiệt nhưng độc” (Tr. 531). Chính ngày bắt đầu cuộc tình kỳ lạ ấy cũng là ngày ba con người – Lai Đệ, Hàn Chim, Tôn Bất Ngôn tự hủy hoại mình.
Khi Tôn Bất Ngôn phát hiện vợ mình ngoại tình: “Trong con kinh hoàng, Lai Đệ vớ lấy chiếc ghế… Chị nện lên đầu hắn.” (Tr. 538).
Hành động bức bối, bồng bột ấy của Lai Đệ như là một sự tự giải thoát mình khỏi những kìm nén, chịu đựng trong con người chị. Hành động ấy đồng thời kết thúc luôn mạng sống của chị (bị xử bắn), Hàn Chim (tự vẫn) và của đặc đẳng công thần Chí nguyện quân vừa câm vừa què vừa tàn bạo – Tôn Bất Ngôn:
Sau khi Lai Đệ bị hành quyết không lâu, gia đình Thượng Quan lại nhận được thông báo về Hàn Chim: Trên đường đi phát vãng, anh nhảy tàu, bị bánh xe nghiến thành hai đoạn.
Cái chết của Lai Đệ khép lại cuộc đời nhiều bi kịch, thăng trầm của chị. Nó kết thúc những ngang trái mà Lai Đệ phải gánh trải trong cuộc đời. Đó là hệ quả của mối tình “đẹp” mà “độc” như hoa thuốc phiện rực rỡ. Độc giả có thể chửi rủa, chê ghét Lai Đệ trong tình yêu “kì lạ” này, nhưng Mạc Ngôn đã kịp níu kéo cảm xúc của người đọc lại, giúp ta trấn tĩnh nhìn ra được nguồn cơn của mọi chuyện, những hành động của cô, những chuyện tình của cô, những ngang trái của cô đều là do xã hội gây ra. Một xã hội đầy những lọc lừa, dối trá. Một xã hội chuyển giao với nhiều góc khuất và bất cập. Một xã hội còn mang trong mình những tàn dư của phong kiến … tất cả đã in hằn lên tấm thân của chị Cả nhà Thượng Quan khiến cho chị sống nữa cuộc đời trong những cơn điên dại và một nữa còn lại là những chuỗi ngày vật vã đi tìm hạnh phúc trong tình yêu. Lúc đó ta chỉ thấy thương, thấy yêu Lai Đệ mà thôi. Thương một cô gái suốt đời sống trong trái ngang, đau khổ, yêu một tâm hồn luôn khát khao tình yêu chân chính và một trái tim sống nhiệt tình, sống hết mình trong tình yêu.
Lai Đệ là người tiên phong, mở toang cánh cửa bước vào cuộc đời của những cô gái nhà Thượng Quan. Đó cũng chính là hình ảnh của những người Trung Quốc trong buổi đầu của cuộc chuyển giao tư tưởng. Những con người bị chính ước mơ của họ và cuộc đời đầy gian truân đưa đẩy và bi kịch của sự bế tắt. Tuy nhiên dù có bị cuộc đời xô đẩy thế nào họ vẫn kiên cường bám trụ, kiên cường với niềm tin mạnh mẽ.
Tiếp bước chị Cả Lai Đệ, con gái thứ hai nhà Thượng Quan, Thượng Quan Chiêu Đệ cũng bước vào đời theo tiếng gọi của tình yêu:
Mẹ cũng nhận ra nỗi lòng của Chiêu Đệ, dự cảm sẽ tái diễn chuyện như Lai Đệ. Mẹ lo lắng nhìn rất lâu vào ánh mắt háo hức đáng ngại trong con mắt đen láy cùng với cặp môi đỏ mọng như thèm khát của chị. Đâu phải là một cô gái mới mười bảy tuổi? Rõ ràng là một con bò cái tơ đang động đực. (Tr. 138, 139).
Giống như chị Cả của mình, chị Hai Chiêu Đệ cũng đến với tình yêu một cách mãnh liệt và chân thành: “Chị Hai, chị Ba và chị Tư đều rất ngưỡng mộ Tư Mã Khố. Do chị Cả đã nêu gương, trong đầu chị Hai một ý nghĩ thoáng qua: Lấy Tư Mã Khố! Hình như có tiếng ai đó cảnh cáo chị: Tư Mã Khố đã có ba vợ!… Vậy thì chị làm vợ thứ tư!” (Tr. 127).
Những cô gái nhà Thượng Quan, khi yêu họ yêu bằng trọn con tim. Trong tình yêu, trái tim luôn có lí lẽ riêng của nó, và trái tim Chiêu Đệ cũng vậy, khi đã gặp được người làm chủ nó thì nó ngân lên những xúc động dạt dào và có những lí lẽ riêng của mình: “Con biết mẹ định nói anh ta đã có ba vợ. Con sẽ làm vợ thư tư. Con biết mẹ định nói anh ta nhiều tuổi hơn mẹ. Con với anh ta không cùng họ, càng không phải đồng tông, chẳng phải cái gì hết!” (Tr. 139). Và với những lí lẽ ấy, Lỗ thị chỉ còn biết tự nhủ: “Mẹ không còn sức để ngăn chặn vì mẹ biết rằng bọn con gái nhà Thượng Quan một khi đã có cảm tình với người đàn ông nào thì dù có tám ngựa cũng không kéo lại” (Tr. 531). Chàng trai lọt vào mắt xanh chị Hai nhà Thượng Quan đó chính là cậu hai của Phúc Sinh Đường – Tư Mã Khố. Tình yêu Chiêu Đệ dành cho Tư Mã Khố là thứ tình yêu “vĩnh kết đồng tâm” chứ không phải là thứ tình yêu của một cô bé mười bảy tuổi. Điều đó được thể hiện qua tấm lòng sắt son của cô trong những ngày cùng Tư Mã Khố lên voi xuống chó, và đỉnh điểm là cái chết của cô trong bom đạn của bọn Lỗ Lập Nhân: “Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra” (Tr. 307).
Tuy số lượng trang viết tác giả dành cho Chiêu Đệ là khá ít so với Lai Đệ, nhưng không phải vì thế mà hình ảnh của chị bị mờ nhạt. Chị là hình ảnh bổ sung cho những cô gái Trung Quốc luôn dạt dào yêu thương và mạnh mẽ trong tình yêu. Dám sống, dám yêu và dám hi sinh cho tình yêu mình – đó là phẩm chất của những cô gái Trung Quốc trong thời kì mới:
Mẹ ơi, con sống là người của người ta, chết là ma của người ta. Mẹ cứu thằng nhỏ này, suốt đời con không quên ơn đức của mẹ! Chị Hai vùng dậy bò ra ngoài. Mẹ níu chị lại. – Mẹ ơi chân anh ấy máu cứ chảy hoài. Con không đến thì anh ấy sẽ chết. Anh ấy mà chết thì con sống còn ý nghĩa gì? Mẹ, mẹ cho con đi! (Tr. 149)
Chiêu Đệ là vợ của Tư Mã Khố, là vợ của người có quyền lực cao nhất ở vùng Cao Mật nhưng Chiêu Đệ vẫn bình dị, vẫn gần gũi với gia đình và với mọi người. Là một thành viên của Quốc dân đảng nhưng gia đình Tư Mã mà đặc biệt là Chiêu Đệ lại được lòng người dân bằng cách hành xửa của mình:
Người của chi đội Tư Mã không tiếc đạn bắn như vải trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bộc phá thì chắc chắn không sót một móng, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật dọa dẫm, không bắn chết ai. (Tr.238).
Qua Lai Đệ và Chiêu Đệ ta có thể thấy được phần nào cách nghĩ, cách làm và cách yêu của những cô con gái nhà Thượng Quan mà nói rộng ra là những cô gái của đất nước Trung Quốc.
Trong buổi đầu tự do, những cô gái Trung Quốc – những cánh chim nhỏ bé đang bươn chải giữa một bầu trời tưởng chừng khoáng đãng nên càng bay càng mỏi. Có cánh chim thì lấy được thăng bằng đáp xuống mặt đất như Chiêu Đệ, nhưng cũng có cánh chim thì sợ hãi lạc xuống một vùng đất cằn cỗi hoang vu như chị Ba Lãnh Đệ.
Chị Ba Lãnh Đệ yêu tha thiết Hàn Chim, nguyện cùng Hàn Chim răng long đầu bạc, tình yêu đẹp ấy đang được hai người chung tay vun đắp thì bỗng nhiên tai họa giáng xuống. Hàn Chim cùng nhiều thanh niên Trung Quốc bị bắt sang Nhật làm nô lệ. Đôi uyên ương vì thế bị chia lìa mãi mãi – điều đó làm Lãnh Đệ lo buồn và sợ hãi đến nỗi điên dại.
Cả ba chị em Chiêu Đệ, Lai Đệ, Lãnh Đệ đều là những người gặp ngang trái trong tình yêu, đều có chung một kết cục bi kịch. Tuy nhiên, khi dõi theo số phận của những cô gái nhà Thượng Quan, độc giả chưa bao giờ cảm thấy nhàm chán; ở mỗi con người ấy, mỗi cuộc tình, Mạc Ngôn đều có những cách thể hiện cùng với những chất liệu riêng biệt. Nếu ở Lai Đệ tình yêu được tả cận cảnh, chân thật và đa chiều, đó là một cô gái luôn sống hết mình trên hành trình đi tìm tình yêu thì Chiêu Đệ là những “đoạn phim” được chắp nối tạo nên một chuyện tình mãnh liệt, chung thủy và sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tình yêu đó. Còn ở Lãnh Đệ, tình yêu của cô lại được xây dựng bằng những chi tiết kì ảo có tính huyền thoại – huyền thoại về nàng Tiên Chim.
Cái kì ảo đã xuất hiện rất lâu trong lịch sử văn học nhân loại, nó có cơ sở từ những tiền đề tâm lí, xã hội nhất định. Trước thế giới tự nhiên và trong xã hội còn tồn tại những điều bất khả giải, ngay cả trong con người hiện đại vẫn luôn tồn tại những ẩn uất chìm sâu trong vô thức. Bởi vậy, chỉ có cái kì ảo mới có thể làm cho trí tưởng tượng của thế giới tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn được thăng hoa. Hiệu quả gián cách nghệ thuật mà cái kì ảo mang lại chính là ở cách miêu tả sự vật quen thuộc thành xa lạ, kì quái, gây nên sự hiếu kì cho độc giả bởi cái “lạ”. Trong “Báu vật của đời” Mạc Ngôn đã tạo ra một thế giới thực và hư lẫn lộn gắn với linh hồn, những huyển thoại nhập hồn, sự phân tách linh hồn, những đóa hoa đẹp đẽ có mùi máu, những phong tục lễ hội lạ lùng li kì… Tất cả tạo nên nét thu hút mạnh mẽ. Motif “hồn lìa xác”, huyền thoại nhập hồn … vốn rất quen thuộc trong “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh. Thế nhưng đến Mạc Ngôn thì tinh thần của nó lại hướng về xã hội hiện đại với sự áp chế của một hệ thống chính trị như cỗ máy xay thịt người.
Cái kì ảo còn lạ hoá người đọc bằng cách xây dựng những huyền thoại về nhân vật, những hình tượng nghệ thuật gián tiếp có tầm khái quát lớn vừa lung linh đa nghĩa. Nó là những hình ảnh tượng trưng với qui mô lớn hơn, cả bề rộng lẫn chiều sâu. Nếu như trong “Trăm năm cô đơn” G.G. Marquez đã tạo nên những nhân vật “siêu mẫu” – tức là những con người phhi thường, dị thường và quái dị như huyền thoại về Rêbêca ăn đất, Rêmêđíôt với luồng khí độc có hiệu quả trong việc làm chết những kẻ đam mê mà không biết chứng tỏ tình yêu của mình thì trong “Báu vật của đời” có huyền thoại về Lãnh Đệ hoá thân thành Tiên Chim. Gần với motif “biến dạng” từ người thành bọ hung trong tác phẩm “Hoá thân” của nhà văn Frankz Kafka, nhưng Tiên Chim trong “Báu vật của đời” lại được mọi người chào đón, kính trọng vì cô xuất hiện là để giở phép thần thông trừng phạt bọn lưu manh và giúp nhân dân chữa bệnh với những toa thuốc toàn là thức ăn chim…
Nhân vật của Mạc Ngôn có xu hướng trở thành những siêu mẫu. Sáng tạo ra những huyền thoại mới bên những huyền thoại cổ xưa là cách lạ hoá kì tài của Mạc Ngôn. Những ước mơ, ẩn uất chở bằng những huyền thoại đem một tiếng nói mới mẻ cho hiện thực. Cái kì ảo đã làm cho mỗi lời kể, lời tả được thăng hoa, thể hiện một quan niệm nghệ thuật về thế giới đa chiều. Và nàng Tiên Chim trong Báu vật của đời là sự bế tắt trong tình yêu, là những ẩn uất về sự khát khao được yêu, được đến cùng nhau, hoà quyện vào nhau. Đó là sự khát khao gần gũi, khát khao tự do thật sự. Niềm khát khao ấy được thể hiện mạnh mẽ qua cuộc giao hoang giữa Tiên Chim Lãnh Đệ và Tôn Bất Ngôn:
Tôn câm từ dưới hầm củ cải chui lên… thằng câm đã cưỡng dâm chị ba Lãnh Đệ …Nước mắt mẹ rơi trên mình chị, trên những vết răng ở vú, nhưng chị lại nở một nụ cười mê hồn, ánh mắt rạng rỡ đầy quyến rũ. (Tr. 200, 201)
Như mãnh đất hạn gặp cơn mưa rào, cuộc cưỡng dâm ấy như đã giải toả sự ham muốn bị kiềm nén đến phát điên rồ của Lãnh Đệ, đồng thời cũng khơi gợi trong người con gái ấy những ham muốn vượt bậc:
Đây là giờ phút đẹp đẽ nhất trong cuộc đời Tiên Chim… Chị vừa múa vừa tiến lại gần thằng câm rồi đột nhiên dừng lại nghiêng đầu ngắm khuôn mặt hắn…. Cuối cùng, chị công khai nắm lấy bộ sậu giữa hai chân… cặp môi mọng đầy vẻ ham muốn, phản ánh một dục vọng lành mạnh, tự nhiên. (Tr. 201, 202)
Tuy nhiên, dường như cuộc sống không thoả mãn được những mong muốn, những khao khát của Tiên Chim Lãnh Đệ. Cô sống vẫy vùng trong sự khao khát ham muốn và tình yêu không trọn vẹn.
Hành động chị giương đôi cánh, miệng kêu như chim, chạy theo sườn dốc rồi lao xuống là hành động giải thoát cho một trái tim yêu không trọn. Đó là trang cuối khép lại cuốn sách về huyền thoại Tiên Chim Lãnh Đệ. Đồng thời đó cũng là một kết thúc đầy bi kịch của những người Trung Quốc không thể hòa hợp trước những biến thiên dữ dội của thời cuộc. Và khi tình yêu không thể là điểm tựa cho những sinh linh lạc lõng ấy thì cái kết cục bế tắc ấy là tất yếu.
Chính nhờ thủ pháp lạ hóa mà Mạc Ngôn đã tạo ra được sự hu hút và sự mới mẽ, đồng thời cũng đã giúp ông xây dựng được những mối tình lãng mạn có, éo le có, bi thương có và cũng không kém phần li kì.
Chi Năm Phán Đệ cũng yêu, chị cũng yêu bằng một tình yêu mãnh liệt, cũng khao khát về một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Kết duyên cùng Lỗ Lập Nhân, một Đảng viên Cộng sản đảng. Nhưng cặp vợ chồng Đảng viên này lại mang trong mình những tư tưởng ích kỉ, hẹp hòi và lạc hậu. Cả cuộc đời của Phán Đệ là một cuộc chạy đua theo danh vọng, tuy có những lúc Phán Đệ cũng hết sức bênh vực gia đình, cô từng nỗi giận tung ngay quả lựu đạn vào Tôn Bất Ngôn, kẻ làm nhục em mình: “Chị Năm nghe tin chạy về, trố mắt nhìn chị Ba. Chị chẳng nói chẳng rằn chạy ra sân, móc quả lựu đạn ở thắc lưng, giật nụ xòe ném vào chái đông. Quả lựu đạn bị thói, không nổ” (Tr. 201) nhưng xét kỉ sự việc thì hành động ấy cũng chỉ xuất phát từ sự tức giận do uy quyền và danh tự của cá nhân co bị xúc phạm. Đối với cô, danh vọng là tất cả. Trên bước đường tìm kiếm vinh quan và danh vọng của mình, Phán Đệ đã bán rẻ tất cả những giá trị thiêng liêng của một gia đình
Qua cái nhìn của Kim Đồng, chị Năm Phán Đệ hiện ra một cách đầy đặn nhất:
Chị Phán Đệ ướt lướt thướt, bộ quần áo mỏng dính chặt trên người, cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Mái tóc chị bóc hơi ngùn ngụt, tỏa mùi men rượu. Núm vú đỏ hồng phập phòng sau lần áo lót. Tôi rất muốn xong tới ngoạm vào bầu vú chị, vướt ve bầu vú chị, nhưng không dám. Chị Phán Đệ tính nết dữ dằn, hơi tí là bạc tay, chị không hiền như chị Cả. (Tr. 241)
Trong con mắt của nữ Đảng viên Cộng sản đảng ấy, người dân và gia đình chỉ là nơi cho cô thể hiện huy quyền của người lãnh đạo ngay cả trong lúc thất thế: Chị Phán Đệ giương to mắt nhìn mẹ nói: – Mẹ, đều là con gái của mẹ, mẹ nuôi hộ các chị ấy thì cũng phải nuôi hộ con! (Tr. 241)
Trên miệng của Phán Đệ luôn dương dương tự đắc với những lí lẽ chính trị sáo rỗng và sặc mùi cánh tả cực đoan:
Chính trị là thống soái, là linh hồn, chính trị là mạng sống của tất cả mọi việc. Khoa học tách khỏi chính trị thì không còn là khoa học, trong từ điển của giai cấp vô sản, không có kho học siêu giai cấp. Giai cấp vô sản có khoa học của giai cấp vô sản, giai cấp tư sản có khoa học của giai cấp tư sản!… (Tr. 544).
Và khi cần, người Đảng viên ấy sẵn sàng vứt bỏ gia đình, gốc gát để bảo toàn lợi ích của mình. Giai đình đối với cô trong những phút giây ấy chỉ như là những chướng ngại trên con đường tiến thân của cô:
Mã Thụy Liên tóc ngắn rẽ ngôi lệch, không ra nam cũng chẳng ra nữ, dựng lên như bờm ngựa… Đồ khốn! Kim Đồng rủa thầm, tưởng ai, tế ra là chị Phán Đệ. Vì nhà Thượng Quan chúng tôi tiếng xấu đồn xa, nên chị ta thay tên đổi họ. (Tr. 542)
Phán Đệ là hình ảnh của những người làm cách mạng nhưng xa rời quần chúng, chỉ khư khư với những triết lí chính trị rỗng tếch. Hình ảnh Phán Đệ là hình ảnh những người cực tả, làm chính trị một cách mù quáng, rập khuôn. Là hình ảnh của những người tranh giành quyền lực trong buổi đầu của cách mạng. Sự xa rời với quần chúng nhân dân là căn bệnh của cách mạng Trung Quốc trong những ngày đầu còn non trẻ.
Trong lịch sử của văn học Trung Quốc, người đầu tiên phát hiện và cảnh báo cho người Cộng sản về căn bệnh này đó chính là Lỗ Tấn. Trong “Thuốc”, Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh ấy nguy hiểm như thế nào với cái chết của Hạ Du và ra sức đi tìm một phương thuốc chữa trị. Đến Mạc Ngôn, nhà văn đã góp thêm phần mình chỉ ra sự nguy hiểm của căn bệnh ấy trong thời đại mới. Trong “Báu vật của đời”, những người làm cách mạng như Phán Đệ, như Lỗ Lập Nhân lại tự biến mình thành nạn nhân của căn bệnh ấy:
Chị Phán Đệ nói: – Con đã nói rồi, mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây, phải xem lại mình đã chứ!
Mẹ nói: – Tôi xem rồi, tôi đã thấy tất cả! …
Chị Phán Đệ nói: – Chúng con đã lấy được thiên hạ rồi! (Tr. 306)
Và dưới con mắt của Kim Đồng “ngang ngược là người nhà nước. Anh cho rằng đây là hiện tượng rất bình thường, không phách lối thì làm sao gọi là người nhà nước” (Tr. 608). Đối với Kim Đồng cách mạng là một điều sợ hãi:
Viên tiểu đầu mục Hồng vệ binh này tên là Quách Bình Ân… Trong cách mạng văn hóa, anh ta đá dập thận thầy giáo Chu Văn. Anh ta hò hét một hồi rồi khoác loa lên vai đi tới trước mặt bà Lỗ, phóng chân đá một phát vào đầu gối bà,quát: – Quì xuống! Bà Lỗ rên lên đau đớn rồi khuỵu xuống. Hắn lại xách tai bà lên, quát: – Đứng lên!… Hàng loạt động tác của hắn là nhằm giải thích khẩu hiệu “Đánh kẻ thù giai cấp ngã lăn ra đất, đạp thêm một đạp”, rất thịnh hành lúc bấy giờ. (Tr. 596,597)
Khi một xã hội chất chứa những sự sai lệch về nhận thức, có cả sự tranh giành về quyền lợi thì dường như mỗi thành viên trong xã hội ấy đều tự tạo cho mình một bức tường phòng thủ, bảo vệ mình trước những chuyển biến của xã hội phức tạp. Tất cả họ đều biến trái tim của mình thành những viên sỏi vô hồn:
Nói rồi anh ta ôm mũ nhảy xuống đầm.
Mọi người kêu cứu nhưng không ai chịu cởi quần áo. Gió lạnh thấu xương, giọt nước vừa rơi xuống đã thành băng, tuy nước trong đầm ấm thật đấy, nhưng xuống thì dễ, lên thì khó. Phòng Thạch Tiên quẫy đạp dưới nước, còn quần chúng trên bờ thì chép miệng than thở bọn kẻ cắp đúng là cao thủ. (Tr. 596, 597)
Trong vòng xoáy đen ngòm ấy, gia đình Thượng Quan còn có một thành viên bị cuốn vào, đó là chị Sáu Niệm Đệ. Niệm Đệ tính tình nóng nảy, độc đoán, là người duy nhất trong gia đình ghét bỏ Kim Đồng:
Nhưng chị đã là một cô gái bước vào thời kì sung mãn, tóc đen nháy, mông vổng lên như buộc khóm hồng mao vào đốt xương cùng. (Tr. 260)
Niệm Đệ cũng có nét gì đó giống chị Phán Đệ, cô săn tìm hạnh phúc bằng mọi giá “Chị Sáu lấy Bácbit, mẹ không tán thành. Chị Sáu nói: – Mẹ, mẹ đánh chết bà nội, con giữ bí mật cho mẹ chuyện ấy đấy nhé! Mẹ lập tức nhũn như con chi chi, không nói gì nữa” (Tr. 267). Và cái chết đầy huyền bí của chị trong hang sâu cùng người phụ nữ lạ mặt là một kết thúc buồn nhưng tất yếu cho một con người ích kỉ, đầy dục vọng xấu xa:
Bácbíp bị thương đang ẩn trong hang.
Vợ chồng vừa gặp nhau vừa ngạc nhiên vừa mừng, nhưng sau đó kết cục không đẹp chút nào. Đúng lúc vợ chồng Báctip đang ôm nhau, người đàn bà phía sau cho nổ liền ba quả lựu đạn, cả ba đều chết. (Tr. 825)
Trở lại với Phán Đệ, người đàn bà của danh vọng.
Trên con đường danh vọng ấy, chị Năm Phán Đệ đã có được những quyền lực mong muốn. Tuy nhiên, những quyền lực mà Phán Đệ có được đã được chị đánh đổi bằng biết bao tội lỗi, có cả máu, cả những cái chết đau lòng của những người thân, những đứa trẻ vô tội dưới chính bàn tay của Phán Đệ. Từ bỏ gia đình, từ bỏ nguồn gốc, chỉ vì danh vọng chị còn từ bỏ luôn cả nhân cách của một con người:
– Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái của Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!… Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu, viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi. (Tr. 346, 351)
Đó có thể là những sai lầm được chúng ta gọi là những hạn chế của lịch sử, những sự thật khó chấp nhận khi những người thân lại giết nhau một cách thản nhiên, công khai và tàn nhẫn như vậy. Phải chăng đó là những hành động xuất phát từ lòng ghen tị mà muốn thể hiện sức mạnh của quyền lực:
Thoạt nhìn, chúng ta bắn hai đứa trẻ, kì thực không phải là hai đứa trẻ, mà là chế độ lạc hậu cũ kĩ, chúng ta bắn là bắn cái chế độ đó, bắn cái dấu hiệu đó! Các ông các bà ơi! Hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có con đường thứ ba. (Tr. 348).
Đó là lời lẽ, là tuyên ngôn của một giai đoạn lịch sử đau lòng, sự sai lầm ấy phải trả giá bằng nước mắt, bằng máu và bằng niềm tin của nhân dân. Và Phán Đệ là hình ảnh tiêu biểu cho sự sai lầm ấy, để đến cuối cùng phải chết trong sự cô đơn lặng lẽ: “Kim Đồng bước tới chỗ đặt thi thể Phán Đệ cúi xuống lật tờ che mặt. Mắt Phán Đệ lòi ra ngoài, lưỡi thè ra quá nửa” (Tr. 589) và thái độ ghẻ lạnh của người thân: “Mẹ bảo: – Nó không phải là con gái tôi!” (Tr. 589)… Tất cả nhưng điều đó là cái giá phải trả của những tư tưởng sai lệch. Khi còn sống, chị xem gia đình là chướng ngại trên con đường danh vọng, nhưng đến phút cuối cùng của cuộc đời, gia đình lại là chốn bình yên quay về nhưng đã muộn màng:
Phán Đệ viết: Tôi là Thượng Quan Phán Đệ, không phải Mã Thụy Liên. Tôi tham gia cách mạng hai mươi năm, không ngờ kết cục lại đến nông nổi này. Tôi tha thiết đề nghị quần chúng cách mạng đưa xác tôi về trấn Đại La, giao cho mẹ tôi là Thượng Quan Lỗ thị. (Tr. 589)
Nhìn lại những hành động sai trái do Phán Đệ gây ra và cuối cùng là cái chết bi thảm của cô gái đầy tham vọng ấy, đầu tiên người đọc có cảm giác hả hê. Nhưng nếu xét kĩ thì Phán Đệ cũng thật đáng thương, chị chẳng qua cũng chỉ là một nạn nhân trong buổi bình minh thời đại, giữa lúc tranh tối tranh sáng, thị phi bất phân ấy, biết bao người đã sa lầy, đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình. Họ là vết đen của thời đại, chúng ta có thể lên án và phê phán họ nhưng chúng ta cũng không thể lãng quên họ, vì họ cũng là một phần của lịch sử. Nhiều người đã phủ nhận sự tồn tại của họ, nhưng trong “Báu vật của đời”, Mạc Ngôn bằng ngòi bút của mình đã tái tạo và trả lại vị trí lịch sử cho họ, ông đã soi rọi vào những góc khuất ẩn sâu của lịch sử mà vì một lí do nào đó đã bị con người vô tình hay cố ý lãng quên.
Bức thư của Phán Đệ là lời hối hận muộn màng của một đứa con lầm lỗi, một con người sa ngã. Cái chết của Phán Đệ là hệ quả của những sai lầm trong cuộc sống, đó là sự sụp đổ của một hệ thống chính trị sáo rỗng, rập khuôn, và đồng thời cũng là dấu hiệu của những đổi mới trong tương lai.
Phán Đệ và Niệm Đệ có lẽ là hai thành viên cá biệt nhất trong gia đình Thượng Quan mang tư tưởng ích kỉ, hám danh. Đó là mảng tối trong gia đình Thượng Quan. Ở phần còn lại của gia đình này là những con người luôn khát khao yêu thương, ánh sáng của tình yêu vẫn rạng ngời trong những trái tim nhân hậu. Có thể dể dàng nhận ra sự hi sinh và trái tim cao cả trong mảng sáng của gia đình Thượng Quan, một trong những trái tim nhân hậu ấy là Thượng Quan Tưởng Đệ.
Gia đình Thượng Quan trải qua biết bao thăng trầm khổ ải, gặp vô số những tai ương, những nỗi đau nghiệt ngã. Nạn đói năm một chín bốn mốt không chỉ cướp đi những người láng giềng thân thiết của gia đình Thượng Quan, mà nó còn cướp đi nhiều thứ khác, những thứ còn quan trọng hơn mạng sống – đó là nhân cách của con người. Nhiều người đã bán vợ đợ con chỉ để có cái ăn, họ tranh giành như những con vật chỉ để có được những cành rau dại… tuy nhiên, ngay trong lúc ấy, gia đình Thượng Quan lại được sưởi ấm bằng sự hi sinh xuất phát từ trái tim tràn đầy yêu thương của Tưởng Đệ. Để cứu gia đình đang đùm đề bảy sinh mạng và để có tiền chữa bệnh cho mẹ, chị Tư Tưởng Đệ đã bán mình vào nhà thổ:
Mẹ ngạc nhiên, hỏi: – Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?…
…Chị Tư nói: – Mẹ, con đã bán mình rồi …
… Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà. (Tr. 183)
Nếu so về số trang viết thì Tưởng Đệ không được Mạc Ngôn dành cho nhiều. Tuy nhiên với sự xuất hiện ít ỏi như thế, Mạc Ngôn cũng đã xây dựng nên hình ảnh một Thượng Quan Tưởng Đệ – con người cao cả, giàu đức hi sinh cũng là một cuộc đời bi thương cho đến phút cuối.
Sự trở về của Tưởng Đệ sau nhiều năm lưu lạc khiến lí lịch nhà Thượng Quan vốn phức tạp nay càng phức tạp hơn:“Trên cổng nhà cậu, Hồng vệ binh treo một lô biển: “Nhà Hán gian”, “Sào huyệt của bọn Hoàn hương đoàn”, “Nhà thổ”…” (Tr. 588). Nhưng đối với những người nhà Thượng Quan thì đó là cuộc trở về của một người anh hùng. Kim Đồng là một trong những nguyên nhân chủ yếu để Tưởng Đệ quyết định bán thân:
Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy… Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết. – Kim Đồng ơi, Kim Đồng – Chị nói – Em lớn mau lên, lớn nhanh lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!… Chị bưng miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không thấy nữa. (Tr. 184).
Nên khi Tưởng Đệ trở về, Kim Đồng là người đau xót nhiều nhất và anh luôn ra sức bảo vệ chị:
Chị Tư có một tiểu sử cay đắng, đầy nước mắt, chúng tôi không có quyền hỏi. Chúng tôi thận trọng bảo vệ vết thương hễ chạm là ứa máu của chị. Nhưng người ngoài thì không nghĩ vậy… Vợ ông Trần Thọt là Trương Quốc Hoa cười hí hí bảo tôi:
– Ông anh, việc gì ông anh khổ sở thế! Việc gì phải đào hang chuột để lấy lương thực? Chỉ cần bán một thứ trong số châu báu chị Tư đem về đã đủ mua một chuyến tầu bột mì ngoại.
Tôi trừng mắt nhìn người đàn bà tai tiếng vì thông dâm với bố chồng, nói:
– Chị nói thối như cứt ấy! (Tr. 836)
Giống như Kim Đồng đã nói Chị Tư có một tiểu sử cay đắng, đầy nước mắt, suốt những năm lưu lạc ấy, chị đã nếm trải biết bao cay đắng tủi nhục chỉ vì muốn giúp gia đình có một cuộc sống khấm khá hơn:
Chị thò tay vào cái hộp đàn đã bị ông cán bộ công xã chọc thủng một lỗ to tướng, nói tất cả để ở trong này. Mẹ xem, viên ngọc to này là viên dạ minh châu… Đây là viên ngọc mắt mèo… Đây là chiếc xuyến vàng… Chị kể ra từng chiếc mà này chỉ còn trong kí ức, điểm từng chiếc, bảo: mẹ lấy cả đi… Mẹ ơi, lúc sa vào nhà chứa con đã thề rằng, đã bán mình thì một lần cũng là bán, vạn lần cũng là bán, chỉ cần các chị em con được sung sướng, thì tấm thân này có sá gì!… chiếc dây chuyền này là của Kim Đồng, đeo nó vào sống lâu trăm tuổi… Chúng là mồ hôi nước mắt của con!… Mẹ cất kỉ cả chưa? (Tr. 587, 588).
Câu chuyện mang đầy vị mặn của nước mắt và có vị tanh tao của máu, đúng như Tưởng Đệ nói, tất cả là mồ hôi nước mắt của chị. Chị Tư Tưởng Đệ là hình ảnh của những con người cùng khổ, nhân hậu nhưng bị guồng quay của xã hội đẩy ra bên lề cuộc đời. Cái nghề mà chị Tư đã làm “ngày nào cũng là cô dâu, đêm nào cũng động phòng hoa chúc” là sự sỉ nhục cho xã hội, nhưng họ quên mất rằng chính xã hội này đã sản sinh ra cái nghề ấy. Khi phán xét một ai đó, trước tiên chúng ta hãy nhìn lại chính mình, phải chăng đó là điều tác giả muốn nhắn nhủ với người đọc.
Với tấm lòng hiếu thảo, Thượng Quan Tưởng Đệ đã bán mình vào chốn nhơ nhuốc, nói một cách khác chị đã đặt mình tách biệt khỏi cộng đồng, không được cộng đồng thừa nhận. Và khi con người lạc lõng ấy tìm cách quay về, thì lại chính cái xã hội ấy chối bỏ, xua đuổi một cách tàn nhẫn. Không những thế, những người sắm vai là thành viên trong xã hội còn thi nhau ra sức giẫm đạp, khoét sâu thêm vết thương lòng của người con gái đáng thương ấy chỉ để chứng minh rằng mình là bậc cách mạng kì cựu, lập trường vững vàng: “Sau ba ngày triển lãm nhiệt tình với báu vật giảm đi, hận thù giai cấp vẫn không thấy nâng cao rõ rệt, các cán bộ công xã liền nảy ra một ý, bắt chị Tư đến triển lãm làm hiện vật sống, bắt chị tự tố cáo chị” (Tr. 837). Và cuộc triển lãm ấy đã lột trần bộ mặt tàn nhẫn của kẻ không có tình người đội lốt cách mạng:
Dân Cao Mật phát điên lên, người ta chen chúc nhau, ngắm chị như ngắm một động vật quí hiếm… trên thực tế, sự xuất hiện của chị Tư, khiến cuộc triển lãm giáo dục giai cấp ở Cao Mật hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Đàn ông đến xem con điếm. Đám phụ nữ cũng đến xem con điếm. (Tr. 840).
Như đã nói, Tưởng Đệ là đại diện của tầng lớp bị biệt lập với xã hội văn minh, là nạn nhân trực tiếp từ sự vận động chuyển đổi của xã hội. Người ta nhắc đến họ như một điều dơ bẩn, một sự sỉ nhục của xã hội, nhưng hơn ai hết những con người như Tưởng Đệ lại chính là những nhân chứng lịch sử hùng hồn cho một giai đoạn đầy sai lầm:
Các cán bộ gầm lên:- Khai ra, không được giấu giếm!
Chị nói:- Làm điếm là bán trôn nuôi miệng, kiếm được đồng tiền đâu có dễ, mụ chủ cưỡng ép, lưu manh làm nhục, chút tài sản này đẫm máu cả đấy!…
Chị nói:- Các người cướp của mồ hôi của tôi mà vẫn chưa thôi, còn bắt tôi ra hạ nhục?!…
Chị Tư cười nhạt: – Các ông đấu tranh với tôi là giả vờ đấu tranh, thực ra là muốn ngắm tôi… Chị vừa nói vừa cởi khuy áo nách, phanh vạt, trút bỏ chiếc áo dài xuống, chị hiện ra trần truồng.
Chị gào to: – Xem đi! Mở mắt ra mà xem! Dựa vào cái gì để bóc lột hả? Dựa vào cái này, cái này?… Công việc này nhàn nhã đấy, mưa không đến mặt, nắng không tới đầu, ngọt bùi cay đắng, ngày nào cũng là cô dâu, đêm nào cũng động phòng hoa chúc! Các người có vợ có con gái hãy cho họ làm nghề này… Đột nhiên ông ta hộc lên … nắm đấm thép nện liên tiếp vào đầu vào mặt chị Tư những cú trời giáng. Chị Tư ngã sóng soài, quằn quại vì đau đớn, mũi và các kẽ răng rỉ máu. (Tr. 841, 842).
Sự phản kháng của Tưởng Đệ như một hồi chuông gióng lên để cảnh tỉnh mọi người: Hãy có những cách hành xử tốt hơn với đồng loại, hãy làm trỗi dậy tình người để hồi sinh những trái tim đã hoá đá; hãy dang rộng đôi tay nhân từ và độ lượng đối với những con người lầm đường lạc lối nhưng khao khát quay về:
Hôm ấy, lương tâm trỗi dậy trong những người phụ nữ vùng Cao Mật… Họ ùa tới, đứng vòng trong vòng ngoài, mặc quần áo cho chị Tư… chị như một liệt sĩ đã anh dũng hy sinh.
Từ hôm đó, chị Tư trở nên nổi tiếng. Chích máu cho những tâm hồn ngu muội cố chấp, dùng phương thuốc dĩ độc trị độc, rõ ràng là biến thối nát thành diệu kỳ, biến bị động thành chủ động. (Tr. 842, 843).
Đó là điều tốt đẹp và đầy ý nghĩa mà Tưởng Đệ đã làm cho xã hội, chị như ngọn gió thổi bùng lên ngọn lửa của tình yêu thương và lòng nhân ái cho những tâm hồn ngu muội cố chấp. Và cái giá để đổi lấy sự thức tỉnh ấy chính là sinh mạng của chị: “Chỉ tiếc là chị Tư sẽ không bao giờ tỉnh táo trở lại, chị bị chấn thương sọ não vì những quả đấm thép của bí thư Hồ”. (Tr. 843).
Cái chết đau lòng của Tưởng Đệ một lần nữa cảnh báo lương tâm con người, mối quan hệ giữa người và người cần phải thay đổi, phải quan tâm đến nhau bằng trái tim cảm thông chia sẻ và bằng tâm hồn tràn ngập yêu thương, như vậy mới xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI.
Nếu như Tưởng Đệ phải bán thân vì cứu gia đình thì Thượng Quan Ngọc Nữ vì muốn gỡ bớt một phần gánh nặng cho gia đình chị đã tự dìm mình xuống dòng sông Thuồng Luồng lạnh ngắt.
Là chị em song sinh với Kim Đồng, ngay từ khi mới lọt lòng, Ngọc Nữ đã mù cả hai mắt, cuộc đời của Ngọc Nữ là sự hi sinh lặng lẽ trong bóng tối: “Khi Ngọc Nữ đã ngoài hai mươi tuổi, tính nết vẫn như một thiếu nữ nhút nhát, luôn co lại như con nhộng trong kén, chỉ sợ làm phiền người khác” (Tr. 584). Ngọc Nữ là một cô gái đẹp cả người lẫn nết, chị như là cây cỏ dại đẹp nhất vùng Cao Mật, không ai đẹp bằng chị: “Mái tóc bạch kim của chị óng như tơ dù có những con chấy kí sinh ở đó, mắt chị trong như pha lê mặc dù chị bị mù. Đôi môi chị đỏ mọng như mào gà trống. Đôi vú chị như cặp vó trắng của con ngựa hồng” (Tr. 809). Chị Tám sống lặng lẽ như một người thừa trong gia đình Thượng Quan. Là người sống gần gũi nhất với mẹ, dường như chị chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mẹ, đó là sự cao thượng và đức hi sinh. Ngay đến lúc từ giã cõi đời chị vẫn lo lắng, hi sinh những gì tốt đẹp nhất cho gia đình Thượng Quan: “Chị sợ trầm mình trong chum nước thì phiền hà cho mẹ. Chị sợ chết tại nhà thì hủy hoại thanh danh nhà Thượng Quan. Do vậy chị ra sông tự tận” (Tr. 809).
Ngọc Nữ là hình ảnh của những người vẫn mang trong mình sự lương thiện giữa một xã hội đầy ghen ghét, sự bon chen và tàn bạo. Trong giai đoạn xã hội đầy biến động này họ như những cánh chim đơn độc, quơ quào trong sự tối tăm mù loà của thời đại. Và trước sự cùng quẫn ấy, con đường giải thoát duy nhất là cái chết lặng lẽ, cô đơn:
Chị là khối tuyết trên đỉnh núi ở châu Nam cực, không hề vẩn bụi. Trong ngọc trắng ngà, hoa nhường nguyệt thẹn, một cái đẹp đích thực. Rồi, miệng vẫn hát, chị lần từng bước ra giữa sông… Chị vẫn tiếp tục tiến lên rồi đột nhiên biến mất (Tr. 817).
Cả đời chị Tám gắn liền với sự thầm lặng và hi sinh. Lời than van của bà mẹ Lỗ thị chính là sự bao quát đầy đủ nhất cuộc đời của chị: “Con nhỏ thấu hiểu mọi nhẽ, nó không muốn là gánh nặng cho mình nên mới tìm đến cái chết! Con ơi, cả đời con chưa bao giờ được hưởng phúc, dù chỉ bằng hạt vừng!…” (Tr. 817, 818)
Thành viên cuối cùng trong gia đình Thượng Quan cũng là người ít gần gũi với gia đình nhất đó là Thượng Quan Cầu Đệ. Để cứu Cầu Đệ thoát khỏi nạn đói năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt, Lỗ thị đã mang chị đem cho một gia đình giàu có, cũng kể từ đó chị và gia đình hoàn toàn mất liên lạc. Mãi đến năm một nghìn chín trăm sáu mươi chị mới vô tình gặp lại Kim Đồng ở nông trường Thuồng Luồng:
Trên đường trở về trại gà, Kiều Kì Sa bỗng hỏi tôi – Cậu tên là gì? Tôi đáp: – Thượng Quan Kim Đồng! Chị hỏi tên tôi làm gì? Kiều Kì Sa nói: – Thuận miệng hỏi thế thôi, lúc lao động cũng có lúc gọi nhau. Cậu có mấy chị gái? – Tám, không phải, bảy chị tất cả. (Tr. 552).
Qua cuộc gặp gỡ ấy, cuộc đời của Kiều Kì Sa cũng tức là Thượng Quan Cầu Đệ được tiết lộ:
Dưới ánh sao mờ tối, Kiều Kỳ Sa và Hoắc Lệ Na đi tới trước mặt Kim Đồng:
– Tôi muốn dùng phương pháp gián tiếp để giới thiệu với cậu hoàn cảnh của tôi, Kiều Kỳ Sa nói.
Sau đó, chị nói với Hoắc Lệ Na mấy phút bằng tiếng Ngạ Với một thái độ dửng dưng Hoắc Lệ Na dịch lại lời của Kiều Kỳ Sa:
– Khi lên bốn tuổi, tôi bị đem bán cho một phụ nữ người Nga. Không ai biết vì sao người phụ nữ Nga này lại mua một đứa bé Trung Quốc làm con nuôi.
Kiều Kỳ Sa lại nói một tràng tiếng Nga, Hoắc Lệ Na tiếp tục dịch:
– Về sau, người phụ nữ Nga chết vì rượu, tôi lang thang ngoài phố, được một ông trưởng ga đem về nuôi. Gia đình này tốt lắm, coi tôi như con đẻ, cho tôi đi học!
Kiều Kỳ Sa nói tiếp, Hoắc Lệ Na lại dịch:
– Sau ngày giải phóng, tôi học ở Học viện y khoa. Trong phong trào “trăm nhà đua tiếng” tôi có nói, người nghèo cũng có những kẻ là ác ôn, người giàu cũng có những bậc thánh, và thế là tôi trở thành “phái hữu”. Tôi phải là chị Bảy của cậu mới đúng! (Tr. 566).
Một cuộc trò chuyện kì lạ kể về thân thế của người con gái trẻ đẹp nhất nông trường. Tốt nghiệp đại học Y, Kiều Kì Sa là đại diện của lớp trí thức trẻ lúc bấy giờ, họ bị kìm hãm cả về tư tưởng, lẫn chính trị… bị qui là phái hữu khi có những tư tưởng tiến bộ, bị chính những người đứng cùng trận tuyến xa lánh, dè chừng. Nhưng với sức trẻ và vốn tri thức của mình, những người như chị vẫn không ngừng đấu tranh để bảo vệ khoa học và lí tưởng:
Mã Thụy Liên chỉ vào con trâu nói: – Anh bơm tinh dịch ngựa cho con trâu này!
…Cô nhân viên phụ trách tinh dịch cừu có cặp lông mày cánh cung, mắt đen láy, dứt khoát không chấp hành lệnh của Mã Thụy Liên. Cô quẳng ống thụ tinh xuống khay tráng men, tháo găng tay, bỏ khẩu trang, để lộ môi trên đầy lông tơ, mũi thẳng và chiếc cằm đường nét thanh tú
– Đúng là một trò đùa! – cô phát âm tiếng phổ thông rất chuẩn, giọng thánh thót như chim… Chính trị có thể đảo lộn trắng đen, sớm Tần tối Sở, nhưng khoa học thì không thể như vậy!… – Nếu như khoa học của giai cấp vô sản chờ đợi một loại giống mới qua việc bắt cừu giao phối với thỏ, thì khoa học của giai cấp vô sản chỉ là một bãi cứt chó?
– Không, không, tôi không thể làm trái với kiến thức cơ bản? (Tr. 543, 544)
Những con người trẻ trung đầy nhiệt huyết ấy sinh ra trong một thời đại không thuộc về họ. Giữa một xã hội đang vươn mình chuyển đổi, con người dường như chỉ tin vào những điều hữu hình, thực tế; riêng còn những điều chung chung vô hình như khoa học (không dựa trên thực nghiệm) thì hầu như không có chỗ đứng. Đó là một giai đoạn sai lầm đem lại những hậu quả nặng nề cho đất nước Trung Quốc. Đã có biết bao nhà khoa học, biết bao trí thức mang tư tưởng tiến bộ chỉ vì đã mạnh dạn nêu lên những chính kiến của mình mà đã bị cô lập, trù dập, u uất đến chết – đây chính là hậu quả nặng nề của cuộc “Đại cách mạng văn hóa”. Đó là thời kì của quan liêu, cửa quyền, tham nhũng triền miên… kinh tế suy đồi, xã hội điêu tàn, chính trị khủng hoản, văn nghệ khô cứng:
Hôm phân công, Chủ nhiệm Văn phòng nông trường bộ hỏi tôi:
– Biết làm nghề gì?
…tôi trả lời: – Tôi giỏi tiếng Nga.
– Tiếng Nga – Chủ nhiệm Văn phòng cười nhạt, nhếch mép khoe chiếc răng thép, mỉa mai: – Này chú, ở chỗ chúng ta, sinh viên học ở Liên Xô về đều đi gánh phân, tiếng Nga của cậu có giỏi hơn họ không?… – Tôi hỏi, cậu ở nhà làm gì? Việc nào cậu làm giỏi hơn cả?
– Tôi biết chăn dê.
Ông ta nói: – Đúng, vậy đó là sở trường? Tiếng Nga ư, tiếng Pháp ư, tiếng Anh tiếng Nhật tiếng Ý ư, vô dụng tuốt. (Tr. 541)
Tầng lớp trí thức nhận thấy được sự thất bại, duy ý chí của những phương thức hoạt động hiện hành, vì nó trái với những qui luật phát triển xã hội, từ đó dẫn đến sự dối trá. Các văn nghệ sĩ rất nhạy cảm, nhận thấy sai lầm trong đường lối phát triển xã hội, nhưng khi phát ngôn liền bị khủng bố và cho là phái hữu. Gây nên sự chia rẽ dân tộc, đất nước khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt. Đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, mất ý chí sinh tồn, khi đứng trước khó khăn người ta trở nên hèn nhát đến thảm hại:
Đêm xuống, mọi người ngồi co cụm trên đê, run bần bật… Nửa đêm thì trời tạnh mưa, dàn hợp xuống của ếch nhái nổi lên đinh tai nhức óc. Trên trời lác đác mấy ngôi sao nhấp nháy như sắp tắt. Khoảng giữa các đợt ếch kêu, nghe rõ tiếng gió thổi qua những ngọn cây ló lên mặt nước. Một người lao đầu xướng dòng sông y hệt một con cá quẫy… (Tr. 566)
Và trong hoàn cảnh ấy, con người trở nên chai sạn vô tri, vô cảm đến đáng sợ “…Không ai kêu cứu cũng không ai quan tâm đến người kia. Lát sau, lại một người nữa trẫm mình. Lần này thì phản ứng của mọi người càng lạnh nhạt.” (Tr. 566)
Một khi cuộc sống trở nên cơ cực, cùng quẫn thì những giá trị chân chính của con người cũng bị lãng quên, thay vài đó là sự đấu tranh, xâu xé lẫn nhau một cách điên cuồng để được sống, được ăn, được tồn tại:
…Mặt Rỗ đã bắt những người kéo cối đeo rọ vào miệng. Rọ đan bằng nhành liễu, hình dáng như chiếc bánh màn thầu, chụp kín cả mũi lẫn miệng, bốn sợi dây buộc ra sau ót. Khi đeo rọ, Mặt Rỗ đích thân đeo cho từng người. Hắn phát minh ra loại nút đặc biệt, người khác không thắt và cũng không cởi được Sau khi đeo rọ, muốn ăn vụng lương thực là điều không dễ dàng chút nào. (Tr. 814)
Và trong cơn đói khát ấy, cô nữ hoa khôi nông trường đầy ngang bướng Kiều Kì Sa cũng phải đánh đổi danh dự để bảo tồn tính mạng:
Cậu cố rướn mắt lên và nhìn thấy cấp dưỡng Trương Rỗ tay cầm đoạn dây thép trên đầu có cắm một chiếc bánh màn thầu trắng bóc… Cuối cùng, Trương Rỗ ném cải bánh xuống đất Kiều Kỳ Sa nhào tới chụp lấy, khi hai tay chị cầm bánh nhét vào miệng, chưa kịp đứng thẳng lên, Trương Rỗ vòng ra phía sau tốc váy chị lên… có lẽ niềm vui được miếng ăn mạnh hơn nỗi đau của cưỡng hiếp nên chị hối hả ăn cho bằng hết… (Tr. 572, 573).
Để đến cuối cùng được chết trong sự no nê nhưng đau xót đến tội nghiệp: Giống như Hoắc Lệ Na ăn nhiều nấm độc bị chết, Kiều Kỳ Sa cũng chết vì ăn nhiều bánh đậu. Kim Đồng trông thấy thi thể Kiều Kỳ Sa bụng trương phềnh như cái chĩnh. (Tr. 575).
Cái chết của Thượng Quan Cầu Đệ đã khép lại những đoạn đời trong cuốn tiểu thuyết viết về gia đình Thượng Quan. Mỗi cô gái trên đường đời đều có những lí tưởng, những ước mơ và những cách sống khác nhau. Có người suốt đời đi tìm tình yêu và hạnh phúc chân chính; có người chạy trốn hồi ức bằng những cơn điên dại; có người quay cuồng trong vòng xoáy của danh vọng và quyền lực; có người luôn nhận đau khổ về mình để dành những gì tốt nhất cho người thân… tất cả họ đã tạo ra một xã hội Trung Quốc thu nhỏ với đầy đủ những màu sắc và cung bậc cảm xúc.
Nhìn vào những cô gái ấy ta thấy được những chuyển biến sâu sắc trong cuộc “chuyển dạ” vĩ đại của đất nước Trung Hoa, nhìn vào đó ta cũng thấy được những góc khuất của lịch sử bị chính những người trong cuộc cố tình quên lãng. Mỗi đứa con gái nhà Thượng Quan đều chọn cho mình một con đường, một cách sống và một cách chết khác nhau, chính họ đã góp phần tạo nên lịch sử phát triển của gia đình, của vùng đất Cao Mật hay nói rộng ra đó là lịch sử phát triển của cả đất nước Trung Hoa.
Với bút pháp điêu luyện, những hình ảnh dạt dào cảm xúc, và phép “lạ hóa” độc đáo lôi cuốn, Mạc Ngôn đã nhẹ nhàng đưa người đọc dõi theo từng bước đường phát triển của đất nước Trung Quốc đầy vinh quang và cũng đầy đau thương mất mát. Đồng thời vực dậy những tàn tích, đưa ánh sáng vào soi rọi những góc khuất của lịch sử, và đánh giá một cách đúng đắn, trả lại đúng vị trí lịch sử cho những con người vốn góp phần làm nên lịch sử ấy. Mạc Ngôn sử dụng yếu tố kì quái một cách chừng mực và thực tế. Ông tránh sự lập dị trong cách hành văn và những thể thức phô diễn quá đáng. Văn ông chính xác, cụ thể, miêu tả những sự kiện quái dị như thể những sự kiện bình thường xảy ra hằng ngày. Qua ngòi bút của ông, lịch sử phát triển của Trung Quốc được gói gọn một cách bất ngờ nhưng đầy đảu và trọn vẹn đến từng chi tiết. Với hình ảnh của tám người con gái nhà Thượng Quan, tác giả đã vẽ nên bức tranh đầy màu sắc với những gam màu sáng tối đan xen của một Trung Quốc trên con đường phát triển vươn đến sự hoàn thiện.
- 3. HÌNH TƯỢNG ĐÁM CON RỂ GIA ĐÌNH THƯỢNG QUAN – NHỮNG QUYỀN LỰC CHI PHỐI VÙNG CAO MẬT
3.1. KHÁNG CHIẾN CHỐNG NHẬT, NỘI CHIẾN VÀ NHỮNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ TRONG BUỔI ĐẦU BÌNH MINH THỜI ĐẠI
Lịch sử vùng Cao Mật trong vòng chín mươi lăm năm đã được Mạc Ngôn khắc hoạ một cách khách quan qua hình ảnh của những cô con gái nhà Thượng Quan, với những mãng màu sắc phong phú và những cung bậc cảm xúc đa dạng, bức tranh xã hội Trung Quốc thu nhỏ thật sự sống động, như bức tranh ấy sẽ không đầy đủ nếu thiếu đi những tác nhân gây ra những biến động làm thay đổi tiến trình phát triển của lịch sử – đó là những giai cấp thống trị nắm giữ quyền lực chi phối mọi mặc ở Cao Mật.
Quê hương Cao Mật xinh đẹp với con sông Thuồng Luồng xanh trong, dãy núi Trâu Nằm xanh biết màu cỏ non, những ruộng cao lương xanh non mượt mà và chuyển màu đỏ rực khi vào mùa hoà cùng với màu đỏ của bầu trời lúc hoàng hôn và cả màu đỏ của máu, của chiến tranh, của những cuộc biến loạn.
Đã có biết bao thế lực đến rồi đi, vinh quang rồi tàn lụi trên vùng đất Cao Mật, và chính họ cũng gây ra những biến chuyển to lớn trên vùng đất này. Hết Đức, Nhật, rồi Quốc dân đảng rồi Cộng sản đảng… tất cả đã làm lên “cuốn phim” lịch sử sinh động về vùng đất Cao Mật.
Những thế lực trên vùng đất này hoàn toàn khác nhau về ý thức chính trị, nhưng họ đều có một mối tương đồng đó là mối quan hệ với gia đình Thượng Quan:
Thời Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lượng đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mĩ chiếm Trung Quốc, gia đình cô còn có chàng rể Tây… (Tr. 343)
Lực lượng chính trị đầu tiên đặt chân lên vùng đất này đó là quân Đức. Sự xuất hiện của chúng gắn liền với chết chóc và sợ hãi:
Một tốp lính Đức đội mũ chóp bằng, người cao, hai chân dài và mãnh từ phía cầu treo chạy tới, dẫn đầu là một người Trung Quốc đuôi sam quấn quanh cổ, tay cầm khẩu súng lục.
… Sau đó dân Sa Oa bị giết chết tổng cộng là bốm trăm chín mươi bốn người… Trên đường, mọi người chạy nháo nhác. (Tr 757, 758).
Chính trong cuộc thảm sát này, Lỗ Toàn Nhi – người mẹ vĩ đại, điểm nối của mọi hệ thức tư tưởng ở vùng Cao Mật đã trở thành trẻ mồ côi:
Ngũ Quậy nhảy vọt ra, người chưa tới nhưng mũi giáo nhọn hoát đã đâm ngập bụng tên lính… Hai tay tê dại, ông buông ngọn giáo, khó nhọc quay người lại thì hai tên lính Đức đã chĩa súng vào ngực ông… Ông gục xuống! Bọn Đức vừa bắn vừa xông vào trong nhà, nhìn thấy người đàn bà trắng trẻo đã treo cổ tự vẫn dưới xà nhà… (Tr. 762)
Đất nước Trung Quốc rộng lớn luôn là mục tiêu của bọn xâm lược. Trong thế chiến thứ Hai cũng vậy, nhân dân Trung Quốc đã phải gánh chịu tan tác, sự nghiệt ngã, đau khổ của chiến tranh. Phát xít Nhật là thủ phạm gây ra những nỗi đau thương đó: “Người con trai phủ phục dưới đất, cổ vươn dài, dòng máu rỉ ra chảy ngoằn ngoèo trên mặt đất, cái đầu ngay ngắn trên cổ giữ nguyên vẻ kinh hoàng trên nét mặt” (Tr. 63). Đối với chúng, cướp phá và giết chóc dường như là công việc thường ngày phải làm:
Tên lính Nhật quay ngựa lại, nhằm người thanh niên cao lớn vừa chống đại đao nhổm dậy xông tới. Người thanh niên lộ vẻ kinh hoàng, giơ đao lên chống đỡ một cách yếu ớt… Tên lính Nhật cúi xuống bổ một nhác, đầu anh ta bị chém làm hai mảnh. Óc vọt ra bắn cả lên quần tên Nhật. Chỉ trong chớp mắt, mấy chục người chạy thoát từ trên đê xuống đã yên nghỉ vĩnh viễn. Bọn lính Nhật cho ngựa giẫm nát thân thể họ. (Tr. 52, 53).
Trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược như vậy, lòng yêu nước trong mỗi người dân Cao Mật lại trỗi lên mạnh mẽ và quyết liệt. Có thể kể ra những người đã ra sức bảo vệ quê hương Cao Mật: đó là đội trưởng đội Hoả-mai-Lừa-đen Sa Nguyệt Lượng; cậu hai nhà Phúc Sinh Đường Tư Mã Khố; con lớn của nhà họ Tôn – Tôn Bất Ngôn; chỉ huy đội bọc phá Lỗ Đoàn Toạ sau đổi thành Lỗ Lập Nhân… tất cả họ đều mang trong mình sự căm thù giặc và sự quyết tâm chiến đấu chống bọn xâm lược, ngoài ra những con người này đều có một mối quan hệ thú vị đặc biệt – họ đều là con rể của gia đình Thượng Quan. Những con người ấy cũng đều xuất phát từ một điểm tựa, đó là lòng yêu nước. Tuy nhiên trên con đường ấy, mỗi người lại có những cách đi riêng, có người thành công cũng có người thất bại, có người mạnh mẽ tiến lên theo lí tưởng nhưng cũng có người vấp ngả chùn bước… và thật sự cũng không quá khi nói rằng, những thế lực chính trị ấy đã viết nên lịch sử phát triển vùng Cao Mật mở rộng ra là cả đất nước Trung Quốc rộng lớn.
3.1.1. SA NGUYỆT LƯỢNG, TỪ DU KÍCH ĐẾN HÁN GIAN
Sa Nguyệt Lượng là một thanh niên hăng hái và nhiệt thành trong việc đánh Nhật cứu nước: “lúc này, đội quân dùng toàn súng bắn chim mới thành lập do Sa Nguyệt Lượng chỉ huy đang men theo con đường mà chúng tôi đã đi hôm chôn cất người chết để về thôn” (Tr. 85) Sa Nguyệt Lượng đã thể hiện điều đó một cách mạnh mẽ bằng sự dũng cảm trên chiến trường: “Quân đội Thiên Hoàng cái cứt! Giặc thì có! Giặc Nhật! Sa Nguyệt Lượng giận dữ quát tháo, vừa chửi vừa dậm chân bành bạch, tỏ ý căm thù bọn lính Nhật. Anh ta nói với chị tôi: – Em gái ơi, mối thù của em cũng là mối thù của anh, phải trả mối thù này!” (Tr. 99). Với sự hăng hái ấy, Sa Nguyệt Lượng đã trở thành một nỗi khiếp sợ thật sự đối với quân Nhật. Tuy nhiên, chính sự dũng cảm và mạnh mẽ ấy đã khiến Sa Nguyệt Lượng trở thành đối tượng cho sự ghen ghét, đố kị của những người cùng chung lí tưởng và điều đó đã đẩy Sa Nguyệt Lượng ra khỏi trận tuyến của những người yêu nước, biến anh thành một tên Hán gian khét tiếng: “Con rể bác bây giờ là Tư lệnh cảnh vệ thành phố Bột Hải, hơn ba trăm người dưới quyền, có cả một chiếc xe jeep Mĩ” (Tr. 191). Từ một người trở thành một tên Hán gian bị mọi người nguyền rủa, Sa Nguyệt Lượng mang trong mình sự căm thù chế độ sâu sắc. Từ căm giận dẫn đến tội ác, Sa Nguyệt Lượng biến thành đối tượng cần phải tiêu diệt của những thế lực đối lập, và họ đã dùng những thủ đoạn dơ bẩn nhất để làm được điều đó:
Sa Nguyệt Lượng xé vụn bức thư, gầm lên: – Lỗ đại bác, Tưởng bốn mắt, đừng tưởng bở!
Sứ giả của đại đội bộc phá từ tốn nói: – Thưa ông Tư lệnh, thiên kim tiểu thư của ông chúng tôi rất mến!
– Giam giữ con tin, vậy bản lĩnh ở đâu? – Sa Nguyệt Lượng nói: Bảo Lỗ – Tưởng có giỏi thì đem quân đến đánh Bột Hải!
– Sứ giả nói: – Ông Tư lệnh không nên quên quá khứ vẻ vang của mình.
Sa Nguyệt Lượng nói: – Ta đây thích đánh Nhật thì đánh, thích hàng Nhật thì hàng, thằng nào dám làm gì ta, còn lảm nhảm thì chớ trách. (Tr. 191)
Xét về mặt chính trị, việc ra sức tiêu diệt một kẻ gian ác là một việc đúng đắn, tuy nhiên trong trường hợp của Sa Nguyệt Lượng thì việc đó có một chút gì đó vô nhân đạo.
Trở lại với Sa Nguyệt Lượng, khi đứng trước sự lựa chọn, một bên là tính mạng của đứa con gái bé bỏng phải xa cha mẹ từ lúc lọt lòng và một bên là cơ hội mở rộng quyền lực, bành trướng thế lực thì Sa Nguyệt Lượng đã chọn ngay tình phụ tử. Xông vào hang ổ kẻ thù, bất chấp cả sự nguy hiểm đến tính mạng, điều đó cũng không có ý nghĩa gì khi trái tim người cha đã lên tiếng:
– Một binh sĩ thở hồng hộc chạy vào, báo cáo:
– Báo cáo đại đội trưởng, báo cáo chính ủy, đại đội nhân mã của Sa Nguyệt Lượng đã vào trấn Sa Lĩnh!
Đại đội trưởng Lỗ nói: – Mọi người không được rối lên. Các trung đội trưởng chú ý, hành động theo kế hoạch đã bàn, gài tất cả số mìn hiện có…
– Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! – Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp – Tiếc mấy chục con ngựa quá! (Tr 209)
Hành động cứu con của Sa Nguyệt Lượng đã làm cho quyền lực của anh sụp đổ hoàn toàn và cuối cùng dẫn đến cái chết lặng lẽ trong nhà giam: “Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi, anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt” (Tr. 221). Sự biến chất và cái chết của Sa Nguyệt Lượng là hệ quả của những cuộc tranh giành quyền lực ở vùng Cao Mật.
3.1.2. TƯ MÃ KHỐ VÀ LỖ LẬP NHÂN, HAI THẾ LỰC ĐẠI DIỆN CHO CUỘC NỘI CHIẾN
Dưới sự đoàn kết của các nước đồng minh, năm 1945 phe phát xít đã bị thất bại hoàn toàn. Ở Trung Quốc, sự hợp tác giữa Quốc dân đảng và Cộng sản đảng đã tạo ra một lực lượng mạnh mẽ, góp phần đánh bật phát xít Nhật, đất nước được độc lập tự do:
Chị Năm đứng ngoài cổng lớn, gào lên: – Bọn Nhật đầu hàng rồi!
Đại đội bộc phá nhảy múa trên đường phố, nhiều người nước mắt ràn rụa. Người ta cố ý hích vào nhau, đấm vào vai nhau. Có người trèo lên tháp chuông chênh vênh, kéo chuông ầm ĩ. (Tr. 229).
Cứ tưởng rằng đất nước được trọn niềm vui với sự chung tay xây dựng của hai thế lực, nhưng một nước vốn không thể có hai vua, lại một lần nữa những cuộc xung đột để tranh giành quyền lực lại diễn ra trên mảnh đất này. Hai cái tên chủ yếu cho cuộc xung đột này là Tư Mã Khố của Quốc dân đảng và Lỗ Lập Nhân của Cộng sản đảng.
Tư Mã Khố là cậu hai nhà Phúc Sinh Đường của giồng họ Tư Mã – một gia đình giàu có bậc nhất ở Cao Mật. Từ khi còn rất trẻ, Tư Mã Khố đã là một người ngong nghênh bất trị:
Thầy giáo Tần, từng dạy ở trường tư thục, vừa vuốt râu vừa nói:
– Tư lệnh Tư Mã từ nhỏ đã khác người, khi là học sinh của tôi, tôi đã biết ông ấy sẽ làm nên chuyện! – Các vị không thể tưởng tượng ông ấy khác người như thế nào đâu?… ông ấy sửa lại lời thánh hiền… Ông ấy sửa là: Nhân chi sơ, nói lăng nhăng, chó không dạy, mèo không học, tẩu thuốc nồi chảo xào trứng gà, thầy giáo xực, học trò ngó…Ha ha ha… (Tr. 256).
Nhưng bên trong con người tính tình ngang bướng ấy lại là một lòng yêu nước mạnh mẽ. Từ lúc dùng rượu đốt cầu bắt ngang sông Thuồng Luồng ngang bước quân Nhật vào làng:
Tư Mã Khố vội xuống xe, ném bó đuốc vào đống củi đã tẩm đẫm rượu, ngọn lửa xanh bùng lên và lan ra rất nhanh… Cây cầu cháy đùng đùng, toàn lửa xanh, cao nhất là ngọn lửa ở giữa, không có khói. Mặt sông cũng biến thành màu xanh. Luồng hơi nóng bỏng ập tới nghẹt thở, mũi khô rát, ào ào như gió (Tr. 47),
Rồi phá đường ray tiêu diệt tàu chở vũ khí của Nhật:
Chuyến tầu trước lúc trời sáng sắp đến rồi.
Dưới chân cầu đã có hàng chục thanh sắt nằm ngổn ngang, tia lửa tràng xanh vẫn đang hoạt động phía trên.
Chiếc cầu chỉ trong một giây rụng xuống cùng với tà vẹt, đường ray, đá dăm, bê tông và cái đầu tầu. Đầu tầu dập vào mố cầu, mố cầu đổ theo, sau đó mới nghe một tiếng ầm dinh tai nhúc óc… Rồi tiếp đó là mấy chục toa chở đầy hàng tông vào nhau, toa rơi xuống sông, toa đổ kềnh bên đường ray, tiếng ầm ầm không dứt bắt đầu từ toa chở thuốc nổ rồi lan sang các toa chở đạn được. (Tr. 135)
Những hành động ấy thể hiện hùng hồn tinh thần yêu nước của anh.
Lỗ Lập Nhân tên thật là Lỗ Đoàn Toạ sau đổi thành Tưởng Lập Nhân, ông là chính uỷ của Đại đội bộc phá thuộc Cộng sản đảng. Tuy là Đảng viên nhưng Lỗ Lập Nhân lại là một con người thủ đoạn, gian ngoa và tham quyền hám lợi. Để đạt được mục đích, Lỗ Lập Nhân không từ một thủ đoạn nào:
– Bà Lượng, chúng tôi đối xử với vợ chồng bà có thể nói là chí nhân chí nghĩa! Không theo chúng tôi cũng chẳng ép, nhưng không nên đầu hàng bọn Nhật! – Đại đội trưởng Lỗ nói.
Chị cả nói: – Tôi chỉ biết đòi lại con gái tôi. Các ông có giỏi thì chơi nhau bằng gươm bằng súng. Đem trẻ con ra làm những trò mèo không phải là bậc trượng phu! (Tr. 208).
Là hình ảnh đại diện cho hai thế lực chính trị lớn mạnh nhất lúc bấy giời – Tư Mã Khố và Lỗ Lập Nhân đã được Mạc Ngôn miêu tả một cách sống động, chân thật và đầy đặn. Cái nhìn của Mạc Ngôn qua hai nhân vật này không xuất phát từ yếu tố chính trị, nó xuất phát từ nhân cách, từ những hoạt động của một người lãnh đạo. Qua đó giúp chúng ta có cái nhìn công bằng hơn đối với lịch sử.
Điều đầu tiên cần phải nói về sự tranh giành quyền lực của hai lực lượng này là một nỗi ô nhục trong lịch sử phát triển của Trung Quốc. Người Trung Quốc sát hại người Trung Quốc chỉ vì tham vọng quyền lực. Cuộc xung đột để giành quyền lãnh đạo ấy đã gây nên bao tai họa khủng khiếp cho người dân:
Những tia lửa màu vàng đan lên trời, súng nổ đồng loạt ào ào như gió. Hai chiếc máy bay hốt hoảng bay vọt lên, tiếng rú điên dại. Một chiếc bỗng chựng lại không ngóc lên được nữa, bụng phụt ra làng khói đen, réo lên ùng ục, chao đảo, xoáy theo hình trôn óc rồi cắm đầu xuống cánh đồng hoang, cái đầu máy bay cày tung đất như lưỡi cày, đôi cánh nảy bần bật rồi từ bụng phụt ra một quả cầu lửa cùng với tiếng nổ rung chuyển cả mặt đất. Chiếc máy bay còn lại lượn vòng trên cao khóc ông ổng rồi bay đi.
Lúc này tôi mới trông thấy một nửa đầu thằng Câm anh không còn nữa. Một lỗ thủng bằng nắm tay trên bụng thằng Câm em. Chúng chưa chết, giương mắt trắng dã nhìn tôi. Mẹ bốc một nắm đất nhét vào lỗ thủng, nhưng máu và ruột cứ đẩy đất ra ngoài, mẹ bốc nắm đất nữa rồi nắm nữa nhét vào mà vẫn không bịt được, ruột thằng Câm em đùn ra đầy nửa sọt… Các chiến binh trên Bãi Cát Dài từng đàn từng lũ lăn xuống quần nhau với đám binh sĩ đội mũ sắt, tiếng thét, tiếng gào, chân đá, tay đấm, xiết cổ, bóp dái, cào xé nhau, vật tay nhau, móc mắt nhau. Lưỡi lê trắng đâm vào, lưỡi lê đỏ rút ra, kiểu gì cũng chơi!… (Tr. 389, 391, 392).
Đó là một phần tất yếu của chiến tranh. Chiến tranh luôn gắn liền với chết chóc, đau khổ, sợ hãi và những điều dối trá.
Trở lại với Tư Mã Khố, người đại diện cho Quốc dân đảng, người gắn liền với những huyền thoại của vùng Cao Mật. Gia nhập vào Quốc dân đảng sau khi bị quân Nhật truy sát và thảm sát toàn gia vì “tội” chống quân Nhật:
Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng Phúc Sinh Đường. Chiếc giá gỗ dựng bằng năm cây sam to và thẳng đuột, trong giống một cây đu. Những cái đầu xâu bằng dây thép, treo dưới cây gỗ bắc ngang (Tr.150).
Tư Mã Khố nhanh chóng xây dựng lực lượng và góp công không nhỏ vào việc đánh bại quân phát xít Nhật:
Đại đội biệt động của Tư Mã Khố có ba trung đội trực thuộc. Trung đội một là trung đội kỵ mã, có sáu mươi tư con ngựa lai giữa giống ngựa I-Li với ngựa Mông Cổ, các chiến sĩ nhất loạt trang bị súng trường Mĩ, loại súng nhỏ nhắn bắn liên thanh. Trung đội hai là trung đội xe đạp, có sáu mươi tư chiếc xe đạp nhãn hiệu lạc đà, trang bị loại súng tiểu liên Đức bắn hai mươi phát, có kính ngắm. Trung đội ba là trung đội la, có sáu mươi tư con la khoẻ mạnh, chạy nhanh như gió. Ngoài ra, còn có một tiểu đội đặc biệt gồm mười ba con lạc đà, chuyện việc sửa chữa, thồ dụng cụ và linh kiện sửa chữa xe đạp, súng ống và chuyên chở đạn dược (Tr. 231).
Sau khi đánh đuổi quân Nhật, Tư Mã Khố trở về quê cũ – Cao Mật – đòi lại quyền lãnh đạo: Lúc này, mặt trời đã mỏi mệt đi ngủ, mặt trăng toả ánh sáng trong suốt, đẹp như người quả phụ thiếu máu. Lỗ Lập Nhân định dìu chị Năm đi về. Chính khi đó, chồng chị Hai là Tư Mã Khố dẫn đại đội biệt động của anh ta tiến vào thôn (Tr. 231)
Ở đây chúng ta không bàn đến việc Tư Mã Khố (Quốc dân đảng) cướp lại Cao Mật từ Lỗ Lập Nhân (Cộng sản đảng) là đúng hay sai, chúng ta chỉ chú ý đến cách anh ta chiếm lại và những hành xử của anh ta đối với những người được xem là bại tướng:
Họ xả súng ngay trước mặt những người chạy trốn, đất bụi mù mịt, mọi người hốt hoảng chạy trở lại đường phố. Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan, binh lính đại đội bọc phá bị dồn tới trước cổng nhà Phúc Sinh Đường…
…Tôi mục kích cảnh tượng các binh sĩ của Lỗ Lập Nhân tranh nhau bơi qua sông Thuồng Luồng dưới ánh trăng lạnh lẽo, phì phà phì phò, hết bò lại lăn, nhốn nháo nhộn nhạo, mặt sông sùi bọt. Người của Chi đội Tư Mã không tiếc đạn, bắn như vãi trấu xuống lòng sông, khiến mặt sông như một cái chảo đang sôi. Nếu họ định tiêu diệt đại đội bọc phán thì chắc chắn không sót một móng, nhưng họ chỉ thi hành chiến thuật doạ dẫm, không bắn chết ai (Tr. 233, 236, 237, 238).
Hành động của Tư Mã Khố đáng được xem trọng, vì vậy việc chi đội Tư Mã luôn được lòng người dân Cao Mật cũng là một điều dể hiểu: “Nói gì thì nói, Tư Mã Khố là con người còn biết lẻ phải, nếu không có ông ta thì già đã bị thằng súc sinh Sư tử chôn sống rồ”i (Tr. 465).
Nói về Cộng sản đảng, họ đưa một lực lượng chính qui về bảo vệ và phát triển sản xuất ở Cao Mật. Những đổi mới mà họ mang đến cho vùng đất này là không thể phủ nhận:
… Trên tường treo bảng đen, trên bảng viết chữ trắng. Cô Đường gõ thước lên bảng cồm cộp, chống… Nhật… chống… Nhật. Các bà phụ nữ vừa cho con bú vừa khâu đế giày hoặc bện thừng. Chống Nhật… chống Nhật
Cô Đường nói Hội Phụ nữ cứu quốc là nhà của phụ nữ chúng ta, giải trừ những nỗi bất bình cho chúng ta!… Chúng ta đã tự lực cánh sinh, phấn đấu gian khổ để cải thiện cuộc sống, nhất là cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta không mê tín kiểu phong kiến… (Tr. 192, 193, 194).
Tuy nhiên, những việc làm ấy vẫn chưa đủ để bồi đắp những điều xấu xa đã được che giấu và những nỗi thống khổ của người dân do lực lượng này mang đến:
Mã Đồng vừa kêu gào vừa đi ra khỏi thôn. Một tiếng nổ rất đanh, rồi tất cả yên lặng. Chú lính kèn đẹp như tiên đồng từ đó mất tăm. Mẹ nuôi nhiều như thế mà vẫn không thoát chết. Tội của chú là lấy trộm đạn đem bán.
… Sau đó, một ông già râu bạc cưỡi lừa đi đến. Đó là ông nội của Mã Đồng, đỗ cử nhân đời Thanh, trình độ văn hóa rất cao.
…Ông già nhổ bãi nước bọt đầy máu vào mặt Lỗ, nói:- Mèo ăn vụng miếng mỡ thì giết, hổ bắt cả con lợn thì thả chống Nhật mà rượu thịt chảy như suối!
… Sự kiện Mã Đồng như một trận động đất, làm lưng lay nền móng của đại đội bộc phá. Cái cảm giác giả tạo về hạnh phúc bị tiêu tan… Tiểu đội trưởng Vương nói công khai: – Mã Đồng chẳng qua chỉ là vật hi sinh!… Theo tôi, nó chết là vì hai trâu húc nhau dập đầu con muỗi. (Tr. 196, 197)
Những việc làm của Lỗ Lập Nhân luôn ẩn chứa sự giả dối, gắn liền với thủ đoạn và sự chết chóc. Những người mang danh Cộng sản đảng này đã lấy trẻ con làm con tin uy hiếp buộc người cha Sa Nguyệt Lượng đầu hàng; họ đã lợi dụng chiến tranh để hút máu nhân dân: “Chúng mày là lũ giòi bọ, hút máu vùng Cao Mật, bây giờ là lúc phải cuốn xéo! Chuồn về cái hang thỏ của chúng mày, trả lại nhà cho ông” (Tr. 236), và những hành động của họ luôn tạo ra những sự bất bình trong quần chúng, bởi chúng được xuất phát từ những mưu toan và sự độc đoán.
Cái tài của tác giản chính là cái nhìn nghệ thuật lịch sử tỉnh táo và sắc sảo. Ông không nương nhẹ, không xuê xoa quá khứ. Văn của ông liền mạch, cho người đọc thấy được cuộc đời vốn dĩ phải thế. Đặc biệt là tính liên tục của lịch sử.
Trong lần thứ hai quay lại Cao Mật của Lỗ Lập Nhân, người đọc có thể hiểu rõ vì sao Cộng sản đảng không được lòng người dân Cao Mật và sự khách quan, tài tình của Mạc Ngôn trước vấn đề của lịch sử:
Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lại mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to:
– Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!
Binh mã của trung đoàn 17 chạy tới, vừa chạy vừa lên cò súng bắn vung vãi. Các binh sĩ của Chi đội Tư Mã chạy tán loạn, những viên đạn vô tình đuổi theo họ.
Một người lính của trung đoàn 17 quì bắn dưới gốc cây bạch dương, tay giương súng, mắt nhằm bắn, cứ mỗi lần cây súng nẩy lên là một binh sĩ của Chi đội Tư Mã ngã xuống. Súng nổ đoàng đoàng, những vỏ đạn nóng bỏng rơi xuống nước bốc khói. Người lính lại nhằm một người thân hình cao lớn, đen nhẻm. Người đó đã chạy được mấy trăm thước. Anh ta nhảy trên ruộng đậu như con chuột túi. Đến chỗ ruộng dâu tiếp giáp với ruộng cao lương, người lính già từ tốn lẩy cò, một tiếng đoàng, người đang chạy cắm đầu xuống đất. Người lính già kéo cơ bẩm, một vỏ đạn văng ra (Tr. 288, 289, 290, 303, 304).
Rõ ràng, ở hai thời điểm quân của Tư Mã Khố và của Lỗ Lập Nhân đã có hai cách hành xử hoàn toàn trái ngược. Ở đây, tác giả đã có thể đưa vào bức tranh hiện thực hai màu tương phản theo chủ quan, nhưng Mạc Ngôn đã vững tay để chỉ có một màu phủ lên cuộc đời của mẹ con Lỗ thị cũng như người dân Cao Mật, như khách quan nó phải thế. Đó là sự tỉnh táo, sự trung thực với lịch sử.
Điểm mốc dẫn đến mâu thuẫn giữa Tư Mã Khố và Lỗ Lập Nhân được đẩy lên cao trào đó là hành động xử tử hai đứa trẻ thơ dại nhà Tư Mã trong cuộc cải cách ruộng đất. Cũng trong cuộc cải cách này, ở vùng quê Cao Mật đã diễn ra những chuyện dở khóc dở cười dưới bàn tay “đạo diễn” Lỗ Lập Nhân. Đây là quang cảnh của buổi đại hội:
Trương Đức Thành đi đến trước mặt thầy giáo Tần, nói:
– Thầy Nhị, ông cũng coi là có học, cái hồi tôi học ông, đã có lần tôi ngủ gật, đúng không? Ông đã dùng thước kẻ đánh dập bàn tay tôi, còn đặt biệt hiệu cho tôi.
… Chỉ một câu ấy của ông mà suốt đời tôi mang cái tên Thằng Gật… Vì gánh trên lưng cái biệt hiệu ấy mà đến nay ba mươi tám tuổi tôi vẫn chưa vợ! …
Thằng Gật nói:- Tần Nhị, ông còn nhớ khi Tư Mã Khố học ông, hắn bắt cóc bỏ vào lọ của ông, đặt vè chửi ông rồi trèo lên dầm nhà mà đọc, ông có đánh hắn roi nào không? Có chửi hắn câu nào không có đặt biệt hiệu cho hắn không?
– Hay lắm! – Phán Đệ phấn khởi nói – Trương Đức Thành đã tố ra một vấn đề sâu sắc. Vì sao Tần Nhị không phạt Tư Mã Khố? Vì Tư Mã Khố nhiều tiền! Tiền của gia đình Tư Mã Khố do đâu mà có? Hắn không trồng mạch nhưng ăn bánh mì, không nuôi tằm nhưng mặc đồ tơ lụa, không nấu rượu nhưng ngày nào cũng say, thưa bà con, chính là mồ hôi xương máu của chúng ta đã nuôi sống bọn địa chủ.
Lỗ Lập Nhân lôi ra một mảnh giấy, đọc:
– Xét phú nông Triệu Giáp, sống bằng bóc lột… Tôi thay mặt Chính phủ nhân dân huyện Cạo Mật tuyên bố tử hình Triệu Giáp, lập tức thi hành!
Hai đội viên tránh sang hai bên, Thằng Câm nhằm gáy Triệu Giáp nổ một phát súng. Nhanh như chớp, Triệu Giáp lộn đầu xuống đầm.
Những người quỳ trên bục dập đầu lạy như tế sao, sợ vãi cứt đái ra quần. (Tr. 334, 335, 336, 337, 339)
Một buổi xử kiện lạ thường, thị phi bất phân, trắng đen lẫn lộn. Những chuyện đã xảy ra để lại cho mọi người sự sợ hãi, kinh hoàng và cả sự căm phẩn. Nhưng mọi chuyện chưa dừng ở đó, điều tồi tệ hơn còn ở phía trước. Lỗ Lập Nhân vì muốn bảo vệ quyền lực của mình đã đang tâm xử bắn hai đứa cháu thơ dại một cách không thương tiếc. Nếu so sánh hắn với Sa Nguyệt Lượng khi đứng trước tình huống tương tự cách đó ít lâu thì quả thật người Đảng viên này còn thua cả một tên Hán gian:
– …Tôi tuyên bố, tử hình con trai Tư Mã Khố là Tư Mã Lương, lập tức thi hành; tử hình hai con gái Tư Mã Khố là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, lập tức chấp hành!
…Lỗ Lập Nhân dừng lại, giọng thê thảm:- …Các ông các bà ơi, hãy vùng lên, không cách mạng thì là phản cách mạng, không có còn đường thứ ba!
… Kết quả cuối cùng là Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng mỗi đứa bị một phát đạn vào đầu viên đạn từ trán chui ra gáy, lỗ đạn không sai nhau mảy may, mọi người ngạc nhiên thán phục mãi. (Tr. 346, 348, 351).
Hành động vô nhân tính đó đã đẩy Lỗ Lập Nhân, cũng là Cộng sản đảng ra xa khỏi quần chúng, nó bọc lộ sự sai lầm và tàn khốc của cuộc cải cách đồng thời cũng cho thấy một sự sáo rỗng trong việc thực thi đường lối chính trị ở Trung Quốc trong giai đoạn ấy.
Như đã nói ở chương trước, Mạc Ngôn nhìn lịch sử không phải bằng con mắt của một nhà nghiên cứu lịch sử, cũng không phải bằng con mắt của một nhà chính trị, ông nhìn lịch sử bằng cặp mắt của một nhà văn, của một người nằm trong dòng chảy của lịch sử. Với góc nhìn đó, ông có thể trông thấy những góc khuất của lịch sử, và điều quan trọng là Mạc Ngôn đã dùng ánh sáng của văn chương soi rõ từng góc khuất một, trả lại ý nghĩa thật sự cho từng sự kiện của lịch sử.
Lịch sử là một chuỗi dài những sự kiện có liên hệ chặt chẽ với nhau, sự kiện trước là nguyên nhân của sự kiện sau, chúng được diễn ra tuần tự tạo nên tiến trình lịch sử của một dân tộc, của nhân loại. Trong “Báu vật của đời”, Mạc Ngôn cũng trình bày lịch sử phát triển của Cao Mật một cách tự nhiên. Chính những sai lầm trong cuộc cách mạng ruộng đất cùng với hành động thảm sát những phú nông, tiểu tư sản của Cộng sản đảng đã dẫn đến cuộc nội chiến sau đó ít lâu:
Bị giáng chúc làm phó huyện trưởng, Lỗ Lập Nhân đứng trên bệ tế ở đầu nấm mộ của vị cử nhân Đan Đình đời Tiền Thanh, gân cổ ra mà gào bài phát biểu có tính động viên cho cuộc rút lui. Chủ đề diễn thuyết của anh ta là: Mùa đông năm nay đã bắt đầu, vùng Cao Mật trở thành chiến trường, không sơ tán đi nơi khác thì cầm chắc cái chết? (Tr. 351).
Và cuộc nội chiến đó đã gây ra những mất, những nỗi đau khôn xiết cho con người và đất đai Cao Mật:
Trời mờ sáng. Tiếng khóc vang lên trong các bụi cây. Mọi người dùng tiếng khóc để biểu thị sự xót thương đối với người chết…
… Trong thung lũng, một con báo gấm đang ngậm một cái xác trẻ con, đầu nặng đít nhẹ nên con báo ngất ngưỡng nhảy trên những tảng đá, nó nhảy liên tiếp cho khỏi ngã xuống nước. Người phụ nữ tóc xõa vừa gào khóc vừa đuổi theo con báo… Mọi người rơi vào cảnh khó khăn, cử động là ngã, không cử động thì chết cóng. Không ai muốn chết, vậy là cái ngã đã làm mất mục tiêu của cuộc rút chạy… (Tr. 369).
Chính những sai lầm đó đã dẫn đến cuộc trả thù đẫm máu của Hoà Hương Đoàn đối với những người Cộng sản:
Nó nói: – Không thù oán gì, bố tôi với nó không thù không oán, bố tôi với bố nó còn là anh em kết nghĩa. Vậy mà nó vẫn treo cổ bố tôi lên cành cây, tiêu tiền âm phủ.
Sư tử hỏi: – Tiến Tài, mi có nói gì không?
Tiến Tài nói: – Sư tử, tao không xin xỏ mày, tao đã giết bố mày. Tao không giết thì người khác cũng giết!
Sư tử nói: – Bố tao ăn nhịn để dành được ít tiền buôn tôm cá cũng như bố mày, dành dụm tậu được mấy mẫu ruộng. Bố mày không gặp may, bị kẻ cắp lấy sạch, không còn đồng nào. Tao hỏi mày, vậy bố tao có tội gì?
Tiến Tài nói: – Tậu ruộng, tậu ruộng là có tội.
Sư tử nói: – Mày nói thực lòng tao xem nào, ai không muốn có ruộng?
…Mẹ Tiến Tài quì sụp xuống lạy Sư tử. Sư tử giằng lấy chiếc xẻng trong tay tên đào huyệt, và chỉ một nhát, hất bà già xuống hố… Mẹ Tiến Tài ngồi thụp xuống nên bị lấp rất nhanh. Bà hổn hển chửi: – Cộng sản ơi là cộng sản, mẹ con tôi là chết trong tay các ông!… (Tr. 461, 462)
Cuộc trả thù tàn bạo ấy diễn ra trong vòng mười bảy ngày và đã cướp đi một nghìn ba trăm tám mươi tám mạng người. Nó là vết thương tinh thần khó phai trong kí ức nhiều thế hệ. Đó là kết quả của sự tranh giành quyền lực bất chấp cả lẽ phải, bất chấp mọi thủ đoạn.
Nói riêng về Tư Mã Khố – một con người gắn liền với những huyền thoại, là một đứa con của vùng Cao Mật. Khi là một người lính, Tư Mã Khố chiến đấu ngoan cường cho lí tưởng của mình. Đối với anh đất Cao Mật là nhà:
Tư Mã Khố cười ngặt nghẽo, thiếu nước ngã lăn xuống đất. Ha ha ha… Hắn vỗ vỗ đám lông trên bướu lạc đà, nói với đám lính và dân phố đứng trước và sau hắn: – Các người có nghe hắn phun cứt, phun đái những gì chưa? Đồ giòi bọ! Căn cứ địa nào? Thăm ai? Thằng lạc đà nội địa kia, đây là nhà của ông, đây là đất thấm máu ông! Đường phố này đã thấm máu của mẹ ông khi đẻ ông. (Tr. 236)
Và dân Cao Mật là anh em họ hàng:
Chi đội Tư Mã nổ một loạt súng, các binh sĩ trung đoàn 17 đổ như ngã rạ, nhưng lập tức những người phía sau dồn lên lấp chỗ trống. Lập tức mấy chục quả lựu đạn ném tới, đất trời như vỡ tung. Tư Mã Khố kêu to: – Đầu hàng thôi, anh em! Đừng làm hại đến dân!… (Tr. 288).
Khi là người giữ quyền lực cao nhất ở Cao Mật, hai vợ chồng Tư Mã Khố và Chiêu Đệ luôn sống chan hoà và gần gũi với nhân dân. Có thể bản tính của Tư Mã Khố là ngông nghênh, bất trị, nhưng trong việc lãnh đạo anh là một người chủ tướng đáng kính, đáng tin cậy, đáng để trung thành. Cái mà Tư Mã Khố mang đến vùng đất Cao Mật này là những điều tiến bộ và sự thanh trừng những kẻ gian tham. Hình ảnh Tư Mã Khố đọng lại trong lòng người dân Cao Mật là một con người với sự chân thành đáng quí:
Tư Mã Khố có vẻ xót xa những vẫn mỉm cười, kéo bàn tay của Phượng Tiên đặt vào ngực mình nơi có trái tim đang đập, nói: – Chính là cái này, sự chân thành của tôi… dù chia bao nhiêu phần thì mỗi phần đều chân thành. (Tr. 474).
Khi là một người cha, người chồng, Tư Mã Khố lại là một người giàu tình cảm, là trụ cột vững chắc của gia đình:
Lúc này, Tư Mã Khố bế xác chị Chiêu Đệ, cười như điên loạn, từ trong nhà xay đi ra. Anh ta quì trước mặt mẹ, hai tay nâng cái xác của chị Hai đã cạn máu…
… Anh ta móc khẩu súng mạ bạc ra, lên cò, quay lại nhìn mẹ nói: – Thưa nhạc mẫu, tôi đã trả thù hộ bà! – Rồi đưa súng lên thái dương.
Tư Mã Lương gào to: – Bố ơi!
Tư Mã Khố ngoảnh nhìn con trai một thoáng, tay cầm súng từ từ buông xuôi. Anh ta mỉm cười tự giễu mình, quăng khẩu súng cho Lỗ Lập Nhân, nói: – Cầm lấy! (Tr. 307, 308).
Khi chỉ còn đối diện với mình, anh ta trở nên lãng mạn và đầy nghĩa khí:
Thôi Phượng Tiên nói: – Mẹ vợ anh, chị vợ em vợ anh, con trai anh, em trai của vợ anh, rồi hai đứa con gái của chị Cả và dì Năm, rồi anh trai anh, đều bị bắt giam trong nhà anh, ngày nào cũng treo lên xà nhà, đánh bằng roi, bằng gậy… Thảm lắm! Chỉ e chẳng được mấy bữa họ chết hết.
Bàn tay Tư Mã Khố hoá đá trên ngực Phượng Tiên.
Sáng sớm hôm sau, Tư Mã Khố để lại súng ống đạn dược trong hầm mộ. Anh men theo bờ đầm, hái một bó hoa dại cả trắng lẫn đỏ đưa lên mũi ngửi một cách thèm khát. Cặp mắt đen như mờ đi vì sung sướng, ánh mắt dịu dàng như ánh ngọc… Thôn trấn đã ở trước mặt, khói bếp lan toả, hơi người nồng đậm. Anh ngắt một bông cúc vàng đưa lên mũi ngửi, gạt bỏ những tạp niệm riêng tư, chấn những ý đồ ngang trái, nhằm hướng cổng xép phía nam nhà mình đàng hoàng tới.
Anh ta vừa ngửi bông hoa vàng vừa bước vào cổng xép, miệng hát một đoạn trong bài ca chống Nhật, phong thái ung dung…
Tư Mã Khố nói: – Thả hết những người nhà Thượng Quan ra! Tội ai nấy chịu! (Tr. 474, 476, 477, 478)
Những huyền thoại gắn liền với Tư Mã Khố làm người nghe cảm thấy hứng thú và thán phục:
Tóc thằng cha này cứng hơn lông gáy lợn! Ông thợ cắt tóc giơ lưỡi dao cạo cho hai người lính gác xem – lưỡi mẻ hết cả! Râu hắn càng cứng hơn, như cái bàn chải bằng dây thép. Vậy mà hắn còn vận nội công lên râu!
– Thằng khốn, đó là vì ta đau quá!…
… Tư Mã Khố thèm thuồng nhìn đôi môi cương nghị của chị công an, lại nhìn rất lâu bộ ngực nhô cao sau lần áo quân phục màu vàng, nói: – Này cô em, vú cô không nhỏ chút nào! (Tr. 482, 484).
Khi đối diện với cái chết anh vẫn giữ được những khí tiết của bậc hảo hán:
Hai binh sĩ to lớn nắm vai Tư Mã Khố, cố sức xoay người anh lại, quay mặt về phía đầm… Anh quay phắt lại và bằng cái giọng khiến viên Trưởng phòng Tư pháp Cục Công an và những tên đao phủ giết người không chớp mắt sợ tái mặt: – Tôi không thể để các ông bắn từ phía sau…
… Tư Mã Khố la to: – Ôi, đàn bà mới là những người tốt nhất trên đời.
Đám đông đứng lặng như trời trồng. Lời hô của Tư Mã Khố tuy không hùng tráng nhưng nó lại xoáy sâu vào tâm khảm mọi người. (Tr. 482, 486)
Tất cả cuộc đời của Tư Mã Khố gắn liền với những biến động to lớn của vùng Cao Mật. Anh là một phần quan trọng của những trang sử đó. Con người của Tư Mã Khố là sự tổng hoà của mọi khí chất: ngông nghênh, yêu nước, đa tình, lãng mạn, cương trực, dũng mảnh và anh hùng. Anh là hình ảnh của những người có tài bị lạc đường chính trị. Qua anh, Mạc Ngôn muốn cảnh báo rằng: sự cứng nhắc trong thi hành chính trị sẽ là nguyên nhân tạo ra những kẻ thù mới và nguy hiểm của nhân dân và lực lượng cách mạng. Bức tranh chân dung của Tư Mã Khố được vẽ nên một cách trọn vẹn và đầy đủ qua lời nhận xét của Lỗ thị: “Mẹ bảo: – Thu xếp mau lên, đi tiễn anh ta một tí! Anh ta là đồ đốn mạt, nhưng cũng là trang hảo hán! Những người như vậy, trước đây cứ khoảng mươi năm lại có một người. Từ nay về sau chắc là tuyệt chủng!” (Tr. 480)
Lại nói về Lỗ Lập Nhân, mặc dù anh không phải là người Cao Mật, nhưng đối với anh Cao Mật thật sự là một vùng quê gắn bó máu thịt. Lập nghiệp cùng Cao Mật, chết trên Cao Mật, người Cao Mật đã xem anh như một là phần của mảnh đất này. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, Lỗ Lập Nhân ít nhiều cũng có những lí tưởng tốt đẹp, có thể anh ta có những mục đích tốt đẹp nhưng hành động của anh lại không phù hợp với những mục đích đó dẫn đến những sai lầm trầm trọng.
Khác với Tư Mã Khố, cuộc đời của Lỗ Lập Nhân gắn liền với danh lợi, dối trá và thủ đoạn. Hai vợ chồng Lỗ Lập Nhân và Phán Đệ đã bỏ trọn cuộc đời của mình để săn lùng danh vọng. Vì chức quyền họ có thể làm tất cả, họ bán rẻ lòng tin của nhân dân, họ thẳng tay tử hình người thân và sẵn sàng chối bỏ nguồn gốc nếu nó làm phương hại đến con đường tiến thân của họ:
Trên đường, một công nhân già bảo tôi, đội trưởng Mã tên là Mã Thuỵ Liên vợ của giám đốc nông trường Lý Đỗ tiếng tăm đang nổi như cồn… Kim Đồng rủa thầm, tưởng ai, té ra là chị Phán Đệ. Vì nhà Thượng Quan chúng tôi tiếng xấu đồn xa nên chị ta thay tên đổi họ. Qua đó có thể suy ra, cái ông Lý Đỗ kia chính là Lỗ Lập Nhân, trước đó vốn có tên là Tưởng Lập Nhân, chưa chừng trước đó nữa còn có tên là X Lập Nhân, Y Lập Nhân cũng nên (Tr. 542).
Những cuộc cải cách đầy sai lầm của họ là những ngòi nổ làm bùng lên sự bất mãn và gây ra sự thống khổ cho nhân dân. Thứ chính trị mà Lỗ Lập Nhân theo đuổi là thứ chính trị sáo rỗng, vô giá trị, là kẻ thù của mọi giai cấp tiến bộ.
Trong chiến tranh, mặc dù Lỗ Lập Nhân có chút thủ đoạn nhưng ta vẫn thấy ở anh có sự kiên cường trong chiến đấu. Thế mà khi trở về với đời sống công chức thời bình, Lỗ Lập Nhân trở thành một tên nịnh bợ, luồn cúi đến thảm hại:
Lỗ Lập Nhân nhìn nhân vật bự bằng con mắt cầu cứu. Nhân vật bự lạnh lùng nhìn anh ta, cái nhìn sắc như dao. Lỗ Lập Nhân mồ hôi chảy đầy mặt, mất hẳn cái vẻ ung dung thanh thót, khi thì cúi nhìn các đầu ngón chân, chóc lại ngẩn nhìn những người dưới sân phơi, anh ta không đủ dũng khí nhìn thẳng vào mắt nhân vật bự (Tr. 344).
Cả cuộc đời của Lỗ Lập Nhân chạy theo danh vọng, thích nổi bật, luồn cúi trước quyền lực để đến cuối cùng phải chết một cách âm thầm trong thất bại:
Khi khu nhà kho lợp ngói đỏ cũng đổ sập, nông trường Thuồng Luồng trở thành biển cả. Giám đốc nông trường Lỗ Lập Nhân, vị cán bộ ít khi được thấy mặt, gục gặc cái đầu tóc hoa râm, tay ôm ngực khuỵu xuống. Ông chủ nhiệm văn phòng nông trường đở anh ta dạy, nhưng lại làm anh ta ngả lăn ra. – Có ai biết cấp cứu không. Gọi bác sĩ mau lên! – Hết rồi, nhồi máu cơ tim! (Tr. 566)
Nếu so sánh cái chết của Tư Mã Khố như cái chết của một hảo hán thì cái chết của Lỗ Lập Nhân lại bình thường như rất nhiều nạn nhân của nạn đói năm ấy.
Lỗ Lập Nhân là người đại diện cho lực lượng Đảng viên Cộng sản đảng trong những năm đầu với những sai lầm, thiếu sót. Những con người ấy tin theo một thứ chính trị thực dụng, rập khuôn. Rơi vào cái bẫy chết người mang tên danh vọng, những người như Lỗ Lập Nhân quay cuồng với những sự tranh giành bon chen và dần dần đã đánh mất đi bản chất lương thiện của chính mình.
Đứng trên phương diện chính trị, Lỗ Lập Nhân và Tư Mã Khố thuộc hai chiến tuyến khác nhau, nhưng xét ở một phương diện nào đó, cả hai người họ đều có một mục đích đó là được sống và sống sao cho thật tốt xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Ở họ đều toát lên niềm thiết tha với cuộc sống, một sức sống mãnh liệt của một dân tộc vĩ đại. Nhưng ở đây không chỉ là cuộc sống đơn thuần mà con người còn nhận thức được phải sống sao cho tử tế. Đến đây, người đọc bất chợt nhớ đến câu nói còn vang vọng mãi cùng thời gian của Hamlet “Sống hay không sống đó là vấn đề”. Thật vậy, đó là một vấn đề lớn đối với mọi con người mà đặc biệt là những người đang đứng trước sự biến chuyển của thời đại, chính điều đó giúp con người sống tốt hơn và giúp cho cái thiện vẫn mãi trường tồn.
Ở đây ta thấy được sự tỉnh táo tài tình của tác giả. Ông không “tô hồng” cũng không “nhuộm đen” một lực lượng nào. Ông nhìn các lực lượng ấy thông qua những việc họ đã làm và tác động của những hành động đó đố với sự phát triển của quê hương. Đồng thời miêu tả khách quan mọi sự kiện lịch sử thông qua đôi mắt của những người dân. Trong con mắt của nhân dân, lịch sử được ghi chép khá đầy đủ và công bằng vì thế những bài học được rút ra từ đó có ý nghĩa và giá trị hơn. Mạc Ngôn đã đưa văn học trở lại chức năng cơ bản của nó, đó là phản ánh số phận con người.
3.2. ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI ĐẠI MỚI, NHỮNG THẾ LỰC MỚI VÀ SỰ THÁC LOẠN
Đi vượt qua chiến tranh, nội chiến, những sai sót về chính trị… Cao Mật bước vào thời đại mới, thời kì của khoa học kĩ thuật. Những thế hệ trẻ của Cao Mật cũng hoà mình vào dòng chảy chung của thời đại. Họ dấn thân vào cuộc đời.
Các thế hệ trẻ của gia đình Thượng Quan cũng không ngoại lệ, họ cố gắn bước vào đời với một tâm thế vững vàng nhất. Hàn Vẹt và Tư Mã Lương là hai con người thành công nhất trong việc hoà nhập với xã hội.
Hàn Vẹt là kết quả của “mối tình đẹp nhưng độc như hoa anh túc” giữa Hàn Chim và Lai Đệ. Hàn Vẹt lớn lên trong sự đùm bọc của bà ngoại Lỗ Thị. Anh cưới Cảnh Liên Liên và cùng cô mở ra “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông”. Bề ngoài của “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông” là một nơi bảo tồn các loài chim quí hiếm nhưng thực chất đó là nơi buôn bán trái phép những loài chim quí hiếm cho những người muốn thưởng thức các món ăn lạ:
Cái miệng của con người là một thị trường rộng lớn kinh khủng. Cùng với sự phát triển về kinh tế, của cải nhiều lên, cái miệng con người không bằng lòng với những món ăn thông thường, người ta đã ngán gà, vịt, thịt, cá… “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông” kiếm tiền nhờ những người này (Tr. 656)
Trung tâm ấy là một thiên đường dưới thế, thiên đường của những con người thích hưởng thụ:
Một đàn gà rừng đã được huấn luyện đang múa điệu nghênh tân ở giữa sân, nhất cử nhất động đều khớp với tiết tấu âm nhạc… Tiết mục tiếp theo là hai con chim sáo mặc quần đỏ, đội mũ xanh, lạch bạch đến bênh mi cờ rô, chào rất điệu: Chào các bà, chào các ông! Hai con sáo này nói xong, tám con sáo khác liền dịch ra tiếng Anh (Tr. 665, 666)
Dưới tài bẩm sinh giao tiếp với muôn thú của Hàn Vẹt và sự luồn lách của Cảnh Liên Liên, “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông” luôn có những kế hoạch táo bạo: “Họ đang triển khai “Kế hoạch Phượng hoàng”, tạo ra giống mới từ đà điểu giao phối với gà gấm, chim công, giống chim phượng hoàng chỉ có trong truyền thuyết” (Tr. 690). Điều đáng nói là tất cả những phi vụ ấy đều được Hàn Vẹt và Cảnh Liên Liên dựa trên những mối quan hệ bất chính mà có được:
Cảnh Liên Liên sai Kim Đồng đem đến từng nhà các vị có mặt hôm tham quan trung tâm những túi quà đã chuẩn bị sẵn, tất nhiên trừ Kỷ Quỳnh Chi. Quà gồm có: tổ yến một cân, lông công một bó. Những vị khách đặc biệt quan trọng như giám đốc các ngân hàng thì tổ yến hai cân (Tr. 668)
Với những việc làm bất chính như thế thì người đọc không mấy ngạc nhiên trước kết cục của “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông”:
Cảnh Liên Liên và Hàn Vẹt cũng vì tội hối lộ mà bị bắt giam. “Kế hoạch Phượng hoàng” thực tế chỉ là một trò bịp. Số tiền mấy trăm triệu mà Lỗ Thắng Lợi lợi dụng chức quyền cho “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông” vay, quá nửa đã bị Cảnh Liên Liên đem đi hối lộ, số còn lại cũng không còn một xu. Nghe nói riêng tiền lãi của khoảng vay này mỗi năm tới bốn mươi triệu nhân dân tệ (Tr. 740)
Nhưng điều làm người đọc nực cười và ngán ngẩm đó là hành động của những người lãnh đạo trước hậu quả đó: Đây là khoản nợ không bao giờ trả được, nhưng ngân hàng không muốn “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông” tuyên bố phá sản, thành phố Đại La cũng không muốn “Trung tâm nuôi dưỡng chim Phương Đông” phá sản (Tr. 740).
Quan liêu là một căn bệnh không mới trong lịch phát triển của Cao Mật, nhưng cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì căn bệnh này cũng nghiêm trọng và khó trị hơn.
Nếu Tư Mã Khố được mọi người kính sợ vì cái khí phách của một vị yên hùng thì đứa con trai duy nhất của anh là Tư Mã Lương cũng không hề thua kém. Sau nhiều năm thăng trầm cùng gia đình Thượng Quan, Tư Mã Lương đã trở thành một thành viên quan trọng của gia đình. Trong những năm động loạn của Cách mạng Văn hoá, Tư Mã Lương biệt vô âm tín, nhưng sau đó không lâu, anh ta quay lại Cao Mật với một vị thế khác – một tay buôn giàu có ở Nam Hàn. Cũng giống người cha đã khuất, Tư Mã Lương cũng yêu chân thành, tha thiết vùng đất Cao Mật bát ngát cao lương, anh trở về quê và dùng tiền của mình góp phần xây dựng quê hương:
Thị trưởng Lỗ này, tôi đầu tư một trăm triệu để xây dựng khách sạn cao nhất ở trung tâm thành phố. Kinh phí tu bổ ngọn tháp này cũng để tôi lo. Trung tâm nuôi chim của Hàn Vẹt thì sau khi cử người về quan sát tôi sẽ quyết định có đầu tư hay không (Tr. 696)
Không những thế, Tư Mã Lương còn là một con người hiếu thảo, chân thành và ân oán phân minh, đúng như tính cách của cha anh khi còn sống:
Rồi Tư Mã Lương cũng trông thấy mẹ tôi đang bị trói tay chân nằm còng queo dưới đất. Cậu ta rướn người lên như bị một bàn tay khổng lồ nắm tóc nhấc bổng lên. Cậu ta lùi lại, cái đầu to tướng lắc lia lịa, nước mắt ứa ra! Chân cậu từ từ khuỵu xuống đến nửa chừng rồi đột nhiên quì sụp, cất tiếng khóc: – Ngoại ơi, ngoại! …
Cậu khóc thật sự, khóc như trẻ con, có nước mắt lã chã làm chứng, có nước mũi ròng ròng làm chứng… – Ngoại ơi, ngoại thân yêu của con! Con là Tư Mã Lương, con lớn lên nhờ sữa của ngoại đây! Tư Mã Lương vùa kể lể vừa khóc…
… Lương ơi, Tư Mã Lương! Cậu, cậu Kim Đồng đấy à? Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. (Tr. 690, 691, 694)
Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Tư Mã Lương quả thật là một con người hoàn hảo cho thời đại mới, tuy nhiên Tư Mã Lương lại mắc tệ nạn mới. Hãy nhìn vào cách tiêu tiền và hưởng thụ của anh ta: ở khách sạn trong phòng tổng thống, xài nước hoa Azzaro, hút xì gà…; những mối quan hệ trai gái thác loạn: Tư Mã Lương giở quyển sổ ghi, tìm đoạn ghi chép liên quan đến cô diễn viên: Đêm, gọi cô Đinh X, diễn viên đoàn kịch Mậu Xoang đến hầu ngủ, xong việc, phát hiện bao cao su bị thủng. (Tr. 743); bên cạnh đó là những hành động ám muội của anh: Cậu cứ yên tâm mà làm ăn, thi thố tài năng của cậu, cháu đã dẹp cái thằng “Tê giác một sừng” ấy rồi! Cậu đừng hỏi dẹp bằng cách nào, chỉ biết rằng, từ nay trở đi hắn phải ngoan ngoãn, không được quạy phá. (Tr. 708).
Tư Mã Lương là con người của thời đại mới, anh cũng là hình ảnh của những con người bị tha hoá trong thời mở cửa. Trong thời đại mới, con đường mà những người như Tư Mã Lương đang bước luôn chất chứa nhiều cạm bẫy, cạm bẫy của danh vọng, cạm bẫy của tiền tài và cả cạm bẫy của lòng người… Những điều đó đang từng ngày làm cho tình giữa con người ta chai sạn, người ta đóng kính của lòng mình với chính cuộc đời, với chính thời đại của mình.
Nhưng may thay, Mạc Ngôn đã kịp gieo vào vùng đất Cao Mật những hạt giống của niềm tin, sự lương thiện, và mở ra con đường để cho những con người lạc lối quay về: Cô nhéch mép cười buồn, tợp một ngụm rượu nói một mình: – Thối nát, thối nát quá. Cô lẩm bẩm: – Tiền là thứ bẩn thỉu nhất trên đời… rời bỏ số tiền này, trong lòng cô rất nặng nề, rất không bằng lòng về mình: – Mình gom cái của này để làm gì nhỉ? Cô nghĩ…
…Cô nghĩ, đáng đem bắn bỏ được rồi. Mọi người đều tham tối mắt vì tiền, cuối cùng bị đồng tiền cắn chết (Tr. 847, 848)
“Báu vật của đời” của Mạc Ngôn đã gợi nên nhiều điều về thân phận con người, mọi người trong xã hội đang quay cuồng trong cơn lốc của thời đại vật chất. Từ đó mở ra những suy ngẫm về nhân tình thế thái, sự suy đồi về đạo đức đặc biệt là những kẻ có chức quyền trong tay. Nhưng xa hơn và quan trọng hơn, Mạc Ngôn đã gieo niềm tin vào lòng cuộc sống. Đó chính là những hạt mầm tốt.
- 4. MỘT KẾT CẤU ĐỘC ĐÁO ĐƯỢC XÂY DỰNG THÔNG QUA ĐÔI MẮT CỦA KIM ĐỒNG
Như đã nói ở trên, tiểu thuyết “Báu vật của đời” được viết theo quan điểm lịch sử, nhưng là lịch sử trong con mắt của nhân dân, tức là viết về mảng khuất trong lịch sử phát triển Trung Quốc khoảng một trăm năm (1900 – 1995). Với lối viết như vậy, tác giả đã mở ra một không gian lịch sử rộng lớn, cực kì hấp dẫn, vì nó phản ánh thực chất cuộc sống của con người như vốn có.
Cái không gian được tác giả chăm chút cho tác phẩm đó là vùng quê Cao Mật. Ông đã biến một khái niệm địa lí thành một khái niệm văn học, một khái niệm mở. Ông xây dựng Cao Mật như một cảnh ảo do ông tưởng tượng trên cơ sở những kinh nghiệm của tuổi ấu thơ và ra sức biến nó thành một Trung Quốc thu nhỏ, gắn những niềm vui và những nỗi buồn của Cao Mật với niềm vui và nỗi buồn của nhân loại.
Thôn Cao Mật là một sản phẩm tuyệt diệu của hư cấu. Người đọc có thể nhận ra đó là nguyên mẫu làng quê của tác giả. Nhưng Cao Mật cũng có thể là bất cứ làng quê nào của Trung Quốc và cả đất nước Trung Quốc rộng lớn. Thôn Cao Mật đủ sức dung nạp tất cả, từ hiện thực đến những chuyện huyền hoặc, hoang đường. Nhờ hư cấu và hiện thực cuộc sống chen chúc đan xen trong tác phẩm khiến nó trở nên phong phú đa dạng và hấp dẫn lạ thường.
Ngòi bút của Mạc Ngôn vừa hiện đại vừa truyền thống. Điều đó làm ông trở nên nổi bật và không thể trộn lẫn với bất kì ai. Kết cấu trong “Báu vật của đời” là một điểm đặc sắc thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.
Toàn bộ câu chuyện được kể lại qua lời nhân vật Kim Đồng, người con trai duy nhất của dòng họ Thượng Quan. Đây là một thủ pháp tương đối khó và mới mẻ, theo lí luận văn học nó có tên là “lời phong cách hoá”. Ở đó toàn bộ câu chuyện được kể theo ý thức của một hoặc nhiều nhân vật, qua đó tạo ra cái nhìn bổ sung cho cái nhìn của tác giả trong việc miêu tả.
Ở “Báu vật của đời”, Kim Đồng như một nhân chứng chứng kiến toàn bộ qua trình phát triển của Cao Mật và sự hưng vong của gia đình Thượng Quan. Câu chuyện xoay quanh những thành viên của hai dòng họ Thượng Quan, Tư Mã và những người liên quan đến hai dòng họ này.
Mỗi nhân vật xuất hiện trong dòng chảy của câu chuyện đều hiện lên qua cảm nhận, cảm quan của Kim Đồng. Anh là nhân vật trunh tâm của tiểu thuyết, mọi đầu mối của câu chuyện đều hướng về anh. Anh vừa là một nhân chứng lại vừa là một nạn nhân của quá trình phát triển ấy. Câu chuyện diễn ra tự nhiên theo dòng thời gian cùng với sự lớn lên (về mặt thể chất) của Kim Đồng, vì vậy câu chuyện được kể lại một cách trọn vẹn, không có những điểm gãy.
Nói riêng về Kim Đồng, anh là người con trai duy nhất trong chuỗi dài sinh nở dằng dặc của Lỗ thị. Anh là niềm hi vọng lớn nhất của Lỗ thị và cả gia đình, anh đồng thời cũng là động lực giúp Lỗ thị sống mạnh mẽ hơn:
Mẹ nói: – Tao khác trước mà cũng không khác. Mười mấy năm nay, người nhà Thượng Quan chúng ta như những cây hẹ, búi tàn úa búi mọc lên, có sống ắt có chết, chết thì dễ, sống mới khó, càng khó càng phải sống! Càng không sợ chết càng phải cố mà sống! Mẹ phải nhìn thấy cái ngày con cháu mẹ mở mày mở mặt với đời! Mắt mẹ mọng nước, nhưng ánh mắt thì rực lửa, nhìn chúng tôi khắp lượt, cuối cùng đọng lại trên mặt tôi như kí thác niềm hi vọng lớn nhất ở tôi (Tr. 480).
Nhưng rủi thay, Kim Đồng lại chỉ là một đứa trẻ lớn xác. Suốt đời chỉ bám lấy vú mẹ. Những biến chuyển của thời đại quá to lớn, quá mạnh mẽ, nó khiến cho một số người không thể tiếp cận và hoà nhập với nó, từ đó đẩy họ ra lề của cuộc sống, biến họ thành những con người dị thường. Ở Kim Đồng, những biến động xã hội đã làm anh không thể lớn lên được về mặt tinh thần, nó ức chế những suy nghĩ, những hành động của anh:
Anh giật mạnh, con thỏ văng ra dưới chân, máu me đầm đìa, mũi liềm cắm sâu vào một bên mắt. Một cảm giác ớn lạnh rung chuyển toàn thân, anh quẳng cái liềm trên bờ mương, nháo nhác nhìn quanh tìm người cầu cứu, chẳng khác đứa trẻ khi gặp tai hoạ.
Mẹ với một thái độ nghiêm khắc chưa bao giờ thấy, nói: – Kim Đồng, thấm thoắt con đã bốn mươi hai tuổi rồi, vậy con cứ lẵng nhẵng như trẻ con.
… – Con ơi con nghe đây. Bây giờ, như một người đàn ông thực thụ, con xách con thỏ này xuống sông Mực, lột da mổ bụng nó ra… Khi lột da mổ thịt có thể con cảm thấy ghê tay cho thế là tàn nhẫn, nhưng một con người trưởng thành như con mà còn bú tí thì có tàn nhẫn không? Con phải biết, sữa là máu của người phụ nữ, việc con làm còn tàn nhẫn gấp trăm lần giết một con thỏ! Nghĩ như vậy con mới dám làm thịt con thỏ, con mới cảm thấy sung sướng! (Tr. 630)
Trong đôi mắt của anh, điều quan trọng nhất là những bầu vú, anh gọi chúng với những cái tên trìu mến: hồ lô, đôi bồ câu, cặp lọ sứ… Cuộc đời Kim Đồng gắn liền với những cặp vú, anh bú mẹ và những người khác từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến năm bốn mươi hai tuổi. Hình ảnh đầu tiên mà anh nghĩ đến khi trông thấy một người phụ nữ chính là cặp vú: “mẹ ôm chặt tôi vào lòng, dưới cặp vú đồ sộ và ấm áp của bà”; “nước ngập chân, ngập bụng, ngập hai bầu vú. Đàn cá nhỏ vui vẻ và cảm động đụng vào đầu vú chị. Hai gò vú làm sáng bừng mặt nước”; “cặp vú đồ sộ nặng trĩu mê hoặc con mắt tôi. Núm vú đỏ hồng phập phồng sau lần áo lót”; “chị ta có ngực rộng, cặp vú đồ sộ như hai nấm mồ”; “đôi vú mệt mỏi nằm bẹp trên xương ngực”… Dẫn ra hình ảnh cặp vú hơi nhiều nhưng cái nhìn của Kim Đồng không hề mang ý nghĩa của sắc dục, đó không phải là sự ham muốn về tình dục. Những cặp vú ở đây chính là hình ảnh tượng trưng cho nguồn sống, là cuộc sống ở thế gian. Đó là nguồn sống, là điều mà Kim Đồng luôn tìm kiếm, là nơi anh bám víu. Kim Đồng ham sống, muốn sống một cách mạnh mẽ và chân thành, vì vậy anh luôn hướng về nguồn sống của mình. Tồn tại là mục đích thực nhất và duy nhất của Thượng Quan Kim Đồng.
Cái độc đáo ở đây chính là sự “trẻ con” của Kim Đồng và thế giới quan qua cảm nhận của anh đã được Mạc Ngôn dung hoà hợp lí và mang nhiều ý nghĩa. Dưới con mắt của một đứa trẻ những con người quanh nó được vẽ nên một cách nghệch ngoạc, hóm hỉnh nhưng chân thật, đầy đặn và đặc biệt là không có màu sắc của yếu tố chủ quan:
Con mắt đen láy cùng với cặp môi đỏ mọng như thèm khát cuả chị. Đâu phải là một cô gái mới mười bảy tuổi? Rõ ràng là một con bò cái tơ đang động đực!…
… Nó khóc như tiếng quạ, như tiếng ếch, tiếng cú kêu. Vẻ ngoài của nó giống chó sói, chó hoang, giống con thỏ rừng… Khi gào khóc, nó vẫn mở to mắt. Mắt nó như mắt của thằn lằn. Chị Chiêu Đệ chết tiệt đã đem về một tiểu yêu do thằn lằn đẻ ra…
… Áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người. (Tr. 139, 150, 151)
Những sự việc được Kim Đồng tả lại, kể lại, luôn luôn vận động và biến đổi đúng như bản chất qui luật của nó, làm cho nó trở nên thật hơn, đáng tin hơn. Bên cạnh đó, Kim Đồng còn là hình ảnh của những tạp tục lạc hậu như trọng nam khinh nữ đang đổ sụp trong thời đại mới. Nếu những người chị của Kim Đồng luôn mạnh mẻ dấn thân vào đời thì Kim Đồng lại bạc nhược trước cuộc đời. Qua đó Mạc Ngôn đồng thời cũng tôn vinh vị trí của người phụ nữ trong thời đại mới, họ nhạy bén và can đảm bước vào đời, luôn phấn đấu vì một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ yêu, họ hành động và sống thực với lòng bằng tất cả nhiệt huyết của mình. Những người phụ nữ cũng góp phần làm nên lịch sử, tạo nên sự biến cuyển trong quá trình phát triển của lịch sử. Vị thế của họ xứng đáng được nâng nên ngang tầm với những đấng nam nhi. Về vấn đề này, Mạc Ngôn đã kế thừa xuất sắc tư tưởng của Tào Tuyết Cần trong “Hồng lâu mộng”. Cả hai tác phẩm đều cho người đọc thấy được sứ mệnh, giá trị và vai trò của người phụ nữ trong đời sống xã hội và sự phát triển của nó trong tương lai.
Một điều tạo ra sự mới mẻ trong kết cấu “Báu vật của đời” đó chính là ngôi kể. Tiểu thuyết truyền thống thường dùng ngôi thứ ba để thuật truyện, còn Mạc Ngôn thì dùng ngôi thứ nhất xưng “tôi” để thuật truyện. Người kể trong tiểu thuyết truyền thống có tầm nhìn không hạn chế, hiểu biết tất cả. Còn đối với Kim Đồng trong “Báu vật của đời” có một tầm nhìn hạn chế, sự hiểu biết của Kim Đồng – người kể chuyện – ít hơn các nhân vật. Kim Đồng bé hơn (về cả thể chất lẫn tinh thần) nên không phải cái gì anh cũng biết, do vậy trong lời kể của anh đôi khi có sự mập mờ, không rõ ràng, đôi khi khó hiểu, nó gợi trì tò mò của độc giả và tạo nên sức hút cho tác phẩm.
Kết cấu của “Báu vật của đời” giống như một bộ phim của truyền thống – hiện đại, vừa tồn tại một kết cấu nội tại vừa có một kết cấu ngoại tại. Bản thân cốt truyện có thời gian tuyến tính tức là thời gian gần một trăm năm về gia đình Thượng Quan, nhưng do xuất phát từ điểm nhìn của Kim Đồng nên anh đã cắt cốt truyện ra thành nhiều đoạn, sau đó dựa trên kí ức và cảm xúc của anh tái tạo nên một thế giới hoàn toàn mới. Do vậy số phận các nhân vật cứ xoáy vào nhau, quay tròn, quanh quẫn, đôi khi rời rạc mất hút nhưng cuối cùng tất cả đều hội tụ trong đôi mắt của Kim Đồng.
Thế giới nghệ thuật trong “Báu vật của đời” được Mạc Ngôn tạo ra một cách tài tình, lạ lẫm mà quen thuộc, thực hư hoà quyện. Cái có thật vốn là những sự kiện lịch sử xảy ra ở Trung Quốc được tái hiện đến từng chi tiết. Đó là những cuộc nội chiến khốc liệt giữa Quốc dân đảng và Cộng sản đảng, đó là hai cuộc chiến tranh thế giới đầy đau thương và mất mát. Những nạn đói, những cái chết, những cuộc thảm sát đã được miêu tả chân thật đến từng chi tiết để tố cáo sự xấu xa của chiến tranh và cả những cuộc tranh giành quyền lực ở đất nước Trung Quốc:
– Đây là chôn sống. Qua cách gọi cũng hiểu chôn sống là đem chôn người đang sống – Bọn phỉ Hoà Hương Đoàn khi chôn người đã mệt, chúng bắt những nạn nhân tự đào huyệt để chôn lẫn nhau. Đất lấp đến ngực là không thở được nữa, ngực như vỡ tung, máu dồn lên đầu, lúc này bọn Hoàng Hương Đoàn nhằm vào những cái đầu mà nổ súng, máu trộn lẫn với óc vọt ra hàng thướt (Tr. 458).
Chính sự chen chúc của những chi tiết nghệ thuật; kết hợp với cách kể chuyện sáng tạo; không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật tương ứng tạo hiệu quả cao nhất; cùng với một hệ thống hình tượng nhân vật độc đáo, lạ mà quen và một điểm nhìn mới mẻ… tất cả đã tạo nên cho “Báu vật của đời” một kết cấu cực kì hiện đại, chằng chịt, phức hợp, phi tuyến tính. Đồng thời vẫn giữ được nét truyền thống qua hình thức biên niên sử.
Cái có thực vốn là những lạc hậu cổ hủ của người dân Trung Quốc như tục bó chân ở phụ nữ hay sự trọng nam khinh nữ trong tư tưởng phong kiến. Cái có thực được tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hoá đó là hình ảnh của Tiên chim chữa bệnh cho mọi người, bộ râu cứng như thép của Tư Mã Khố làm mẻ cả dao cạo… Cái có thực mang tính kì diệu, đó là khả năng giao tiếp với muôn thú của cha con Hàn Chim, Hàn Vẹt; đó là căn bệnh “nhũ yếm thực” của Kim Đồng làm anh mãi mãi không trưởng thành về tinh thần – đó cũng là cảm quan của nhà văn về một con người chưa thành người hoặc bị hạ cấp xuống lưng chừng giữa trần thế: thiên đường hay địa ngục đều không dành cho chúng ta! Chỗ của ta là khoảng giữa thiên đường và địa ngục. (Tr. 309) đó là lời cảnh báo của tác giả đối với nhân loại.
Cái không có thực – nhà văn dựa trên cảm quan hiện thực xã hội mà tưởng tượng theo nguyên tắc huyền thoại hoá: Những câu chuyện về hồn ma, về hồ li trong những giấc mơ của Kim Đồng, đó là số phận gian truân của cả gia đình Thượng Quan. Mạc Ngôn qua đó bày tỏ nỗi đau trước số phận con người. Có những nỗi đau nhìn thấy, nhưng có những nỗi đau đau hơn nhiều lần mà không dễ nhận ra mà Mạc Ngôn là người đã nhận ra và đau nỗi đau chung của hiện thực.
“Mạc Ngôn là người đầu tiên đoạn tuyệt với phương pháp sáng tác theo chủ nghĩa vật bản, đưa văn học trở lại với chức năng cơ bản của văn học, tức là phản ánh số phận của con người.” (PGS.TS Hồn Sĩ Hiệp, 2007). Vì văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Ở cuối tác phẩm, Kim Đồng thức canh mộ mẹ, sợ “ông chính phủ” bắt đào lên dù đã chôn ở bãi đất hoang:
Anh trông thấy phía sau mộ mẹ, nơi không bị dẫm nát, có rất nhiều hoa đang nở, những bông hoa màu nhợt nhạt, chỉ một bông giữa là màu đỏ nhờ nhờ. Loại hoa này có mùi thơm. Anh bò lên mấy bước, giơ tay ngắt lấy bông hoa rồi đưa vào miệng. Cánh hoa rất giòn, như thịt tôm sống, nhưng khi nhai thì xộc lên mũi toàn mùi máu. Vì sao hoa có mùi máu? Vì trên mảnh đất này thấm đẫm máu người (Tr. 859)
Đọc“Báu vật của đời” của Mạc Ngôn chúng tôi nghĩ đến Lỗ Tấn. Có lẽ, bởi cả hai nhà văn Trung Quốc này, một đầu và một ở cuối thế kỉ XX, đã có sự gặp nhau trong suy nghĩ về đất nước mình. Nhân vật người điên của Lỗ Tấn thấy ai cũng ăn thịt mình, Kim Đồng không rời vú mẹ của Mạc Ngôn thấy bông hoa bốc mùi máu; hai hoàn cảnh lịch sử, hai chế độ chính trị khác nhau giữa hai thời kì sống của hai nhà văn. Nhưng có một cái không khác, đó là tình yêu nước và trách nhiệm nhà văn của hai người, và không chỉ của riêng họ. Nhà văn, cũng như người phụ nữ vậy, phải có niềm vui và nỗi đau của sự mang thai và sinh nở những giá trị mới, nhận thức mới cho người đọc. Đó là trách nhiệm và lương tâm của một người nghệ sĩ chân chính.
KẾT LUẬN
ó
Trong xã hội khoa học kĩ thuật hiện nay, khi các giá trị vật chất đã đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu của con người thì con người lại có xu hướng tìm về giá trị truyền thống, tìm về các vấn đề lịch sử của chính dân tộc, Tổ quốc mình. Tìm hiểu những góc khuất, những điểm gãy trong lịch sử phát triển dân tộc trở thành một nhu cầu tất yếu của con người thời hiện đại. “Báu vật của đời” đã đáp ứng nhu cầu ấy của độc giả.
Tiểu thuyết “Báu vật của đời” đã khái quát cả một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa vĩ đại. Trong “Báu vật của đời” các nhân vật được xây dựng một cách độc đáo dựa trên thủ pháp “lạ hóa” và lời kể phong cách hóa. Các nhân vật với các đặc điểm tính cách khác nhau cùng nhau bước vào ngưỡng của của sự đổi mới tạo nên một bức tranh xã hội Trung Quốc chân thực và sinh động. Qua đó cũng gợi ra cho chúng ta những suy ngẫm về thân phận con người liên quan đến chính trị. Đồng thời Mạc Ngôn còn góp tiếng nói bênh vực và đề cao vị trí của người phụ nữ trong thời đại mới. Sức sống của những nhân vật trong tiểu thuyết là một sức sống mãnh liệt, mọi hành động của họ đều có chung một mục đích đó là phải sống và sống sao cho thật tử tế để xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Với một kết cấu độc đáo, vừa hiện đại vừa truyền thống chứa đựng những chi tiết thực hư đan xen chằng chịt cùng một điểm nhìn hiện đại, Mạc Ngôn đã đưa một khái niệm địa lí thành một khái niệm văn học. Gắn mọi niềm vui nỗi buồn của Cao Mật với mọi niềm vui nỗi buồn của nhân loại, Mạc Ngôn đã tạo cho độc giả sự rung cảm trước hiện thực và cũng nhận được sự đồng cảm bởi lối viết chân thành và đầy trách nhiệm của ông.
Mạc Ngôn là một cây bút xuất sắc, ông đã đề cập được những vấn đề chủ yếu của thời đại. Thông qua việc sử dụng những hình tượng nghệ thuật muôn màu muôn vẻ, phản ánh cuộc sống của nhân dân, đề cao tinh thần dân tộc, đấu tranh chống lại sự phiến diện trước lịch sử, đấu tranh vì những quyền lợi chân chính, nhân bản của con người. Mạc Ngôn đã trực tiếp hoặc gián tiếp biểu hiện cuộc sống của xã hội và hơi thơ của thời đại. Đó là yếu tố cơ bản để Mạc Ngôn đã, đang và sẽ đạt được những thành công trong sự nghiệp sáng tác và trở thành một nhà văn lớn của nền văn học Trung Quốc.
PHỤ LỤC 1
ó
TÓM TẮT TIỂU THUYẾT “BÁU VẬT CỦA ĐỜI”:
Báu vật của đời nguyên tác tiếng Hoa là Phong nhũ phì đồn (丰乳肥臀) nghĩa là Ngực to mông nở được xuất bản tháng 9 năm 1995 và và đã trở thành một hiện tượng, tác phẩm đã được trao giải cao nhất của Hội Nhà văn Trung Quốc về truyện trong năm đó. Quyển tiểu thuyết này được xem là viên gạch nặng nhất, giá trị nhất trong lâu đài tác phẩm của nhà văn Mạc Ngôn. Tiểu thuyết được chia thành bảy chương và một chương viết thêm, với dung lượng hơn 860 trang (Theo bản dịch của dịch giả Trần Đình Hiến, NXB Văn Nghệ, TP. Hồ Chí Minh, năm 2000).
Báu vật của đời khái quát một giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi tráng của đất nước Trung Hoa thông qua các thế hệ trong gia đình Thượng Quan. Với một góc nhìn mới lạ, tác giả đã tiếp cận lịch sử một cách chân thật nhất, đầy đặn nhất. Từ đó giúp cho người đọc có cách nghĩ mới khách quan hơn với lịch sử, cũng như có cái nhìn mới về những điểm gãy bị che khuất trong lịch sử phát triển của đất nước Trung Hoa.
Báu vật của đời là cuốn tiểu thuyết mang không khí “sử thi” tiêu biểu về một giai đoạn lịch sử (từ 1900 đến 1995) của đất nước Trung Quốc. Ám ảnh tác giả là hình ảnh người mẹ với lòng khoan dung vô bờ bến mang tên Lỗ thị. Nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời của bà không phải ở cái chết của cả gia đình mà là tập tục nghiệt ngã buộc phải có con trai. Vì vậy, Lỗ thị đã phải “ngủ” cùng những người đàn ông không mong muốn chỉ với một hi vọng đó là có con trai.
Cả câu chuyện xoay quanh cuộc đời của bà mẹ Lỗ thị, những đứa con gái của bà, những biến loạn của vùng Cao Mật và cũng là của cả đất nước Trung Quốc. Tất cả mọi câu chuyện, mọi hình ảnh đều được tác giả kể thông qua cái nhìn của nhân vật Kim Đồng từ khi vừa sinh ra cho đến hết. Một kết cấu độc đáo, độc đáo ngay trong cách kể chuyện, các nhân vật được xây dựng một cách rất thực mà cũng rất hư, xâu chuỗi các câu chuyện thành một mạch thống nhất… tất cả những điều đó làm nên một hiện tượng văn học – một trong những tác phẩm được đánh giá là xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc hiện đại.
Câu chuyện lấy bối cảnh ở vùng quê Cao Mật (có tổng cộng mười tám thôn), được cụ tổ của hai gia đình Tư Mã và Thượng Quan – Tư Mã Răng To và Thượng Quan Đẫu – là những người đầu tiên khai phá. Năm 1900, hai ông đã thành lập đội Hổ Lang nhằm tổ chức đánh đuổi quân Đức với lòng yêu nước và với những suy nghĩ, hiểu biết ngây thơ cho rằng quân Đức không có đầu gối, chân thẳng đuột không gập lại được. Còn nói quân Đức ưa sạch, rất sợ dính phân vào người, hễ dính phân là nôn oẹ cho đến chết. Lại nói bọn Tây đều là con chiên. Chiên thì sợ hổ báo lang sói. Thế là hai vị tiên phong trong công cuộc khai phá vùng đông bắc, tự tập một số bợm rượu, con bạc, du đãng … Tất nhiên họ đều là những kẻ không sợ chết, võ nghệ siêu quần, thành lập đội Hổ Lang.” (Tr. 129, 130) Vì vậy đội Hổ Lang đã dùng cát và phân để chiến đấu chống lại quân Đức. Cuộc chiến đấu thất bại, cả Tư Mã Răng To và Thượng Quan Đẩu đều bị giết hại.
Cũng cùng năm đó tại thôn Sa Oa thuộc Cao Mật, quân Đức với sự tiếp ứng của quân triều đình Mãn Thanh đã gây ra vụ thảm sát bốn trăn chín mươi bốn người trong số đó có cha mẹ của cô bé Lỗ Toàn Nhi.
Lỗ Toàn Nhi sau đó được cô chú Vu Bàn Vả đem về nuôi dưỡng, đến khi được năm tuổi thì bị bó chân. Đến năm mười bảy tuổi thì được gả vào nhà Thượng Quan làm vợ của Thượng Quan Thọ Hỉ. Thượng Quan Thọ Hỉ là một nông dân ngu dốt, bất tài và là một người chồng vũ phu, bất lực – không có khả năng truyền giống. Trong khi đó mẹ chồng của cô – bà Thượng Quan Lã thị – lại là người vô cùng khao khát có cháu trai nối dõi, sau ba năm cưới về mà Lỗ Toàn Nhi vẫn không có đứa con nào, bà thường xuyên xỉ vả, chì chiết, hành hạ cô “chỉ biết ăn mà không biết đẻ, nuôi cái đồ vô tích sự ấy làm gì!” (Tr. 773).
Là con dâu trong gia đình, nhưng Toàn Nhi chẳng hơn gì một đứa đày tớ, cô sống trong sự hà khắc của mẹ chồng, sự vũ phu của chồng và lo sợ trước những định kiến của xã hội về một người đàn bà không có con. Chính những điều đó đã đẩy cô đến hành động đi xin giống của đàn ông thiên hạ. Cuối cùng Toàn Nhi đã sinh cho gia đình Thượng Quan một đàn con chín đứa gồm tám gái một trai, trong đó Lai Đệ và Chiêu Đệ là giống của ông chú dượng Vu Bàn Vả; Lãnh Đệ là con của anh chàng bán vịt dạo; Tưởng Đệ là con của một thầy lang bán rong; Phán Đệ là của lão Béo bán thịt chó ở thôn Sa Tử; Niệm Đệ là giống của Hoà thượng Trí Thông ở chùa Thiên Tề; Cầu Đệ là kết quả của lần Lỗ Toàn Nhi bị bốn tên lính thất trận cưỡng hiếp ở bờ bắc sông Thuồng Luồng; sau cùng là cặp song sinh Kim Đồng, Ngọc Nữ của mục sư Malôa.
Sống trong hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, Toàn Nhi nhận ra một chân lý nghiệt ngã: là đàn bà không lấy chồng không được, lấy chồng mà không sinh con không được, sinh toàn con gái cũng không được. Muốn có địa vị trong gia đình, dứt khoát phải sinh con trai. (Tr. 783).
Mở đầu truyện là hình ảnh của hai cuộc “vượt cạn”. Một bên là Lỗ Toàn Nhi đang một mình trên chiếc giường bẩn thỉu đang kêu gào trong cơn đau đớn. Một bên là con lừa cái đang được cả gia đình Thượng Quan chăm sóc và mời cả bác sĩ riêng cho nó. Hai hình ảnh đối lập phần nào cho ta thấy được thân phận của người phụ nữ Trung Quốc trong xã hội phong kiến.
Sự khát khao cháu trai của mẹ chồng, sự nghiệt ngã của những quan niệm phong kiến, … tất cả những điều đó đã góp tay đẩy cuộc hôn nhân của Lỗ Toàn Nhi thành một bi kịch. Khiến Lỗ Toàn Nhi thành một người đi xin “giống dạo”, biến cô trở thành một phụ nữ sống trong nhục nhã và căm giận Toàn Nhi này có đẻ thêm một ngàn đứa nữa, cũng không phải giống nhà Thượng Quan … Này mẹ chồng, này chồng, các người cứ đánh tôi đi, cứ mong đi, tôi sẽ đẻ con trai nhưng nó không phải là giống nhà Thượng Quan. (Tr. 785).
Và xem việc ăn nằm với những người đàn ông khác là cách trả thù gia đình Thượng Quan. Chuyện ăn nằm, thụ thai và sinh nở của Lỗ thị chính là sự tung hê, thách thức cái xã hội khinh miệt, coi rẻ người phụ nữ.
Khi cặp song sinh Kim Đồng, Ngọc Nữ cất tiếng khóc chào đời thì cũng là lúc giai đình Thượng Quan bị quân Nhật tàn sát. Một mình Lỗ Toàn Nhi phải gánh vác, chống đỡ cả gia đình, nuôi các con từng người từng người trưởng thành.
Trải qua biết bao lần các thế lực chính trị thay ngôi đổi chủ ở Cao Mật, biết bao biến thiên của xã hội với nào là kháng chiến (chống Đức, chống Nhật), nội chiến (giữa Cộng sản Đảng và Quốc dân Đảng), nạn đói, cải cách ruộng đất, cuộc “Cách mạng văn hoá” rồi cuộc “cải cách mở cửa”… Lỗ thị đã chứng kiến, tham gia và cũng chịu tác động không nhỏ trong những biến cố ấy, mất chồng, mất con, mất cháu, gia đình ly tán rồi sum họp, lên voi xuống chó nhanh như chớp, bao phen đói khát phải ăn cỏ dại, rau rừng, ngủ cùng xác chết, cùng đạn bom, bị tra tấn, bị làm nhục nhưng với một ý chí sinh tồn mạnh mẽ đến khó tin cùng với tấm lòng của một người mẹ yêu thương đàn con vô hạn Lỗ thị đã khéo léo chống chèo cả gia đình vượt qua tất cả.
Sự mong mỏi của Thượng Quan Lã thị cuối cùng cũng được thỏa lòng khi Lỗ Toàn Nhi sinh cho gia đình Thượng Quan một đứa cháu trai mang tên Thượng Quan Kim Đồng. Nhưng Kim Đồng, đứa con trai duy nhất sau chuỗi sinh nở dằng dặc một đời người của Lỗ Toàn Nhi chỉ là một đứa trẻ to xác, nhu nhược, vô tích sự, suốt đời bám vú mẹ trong khi các cô gái nhà Thượng Quan đều quyết liệt dấn thân vào đời.
Đàn con của Lỗ thị có đủ mọi thành phần xã hội, nói rộng ra, có đủ mọi giống người. Họ được bà mẹ vĩ đại sinh ra đúng vào lúc đất nước Trung Quốc cũng đang trong cơn quặn đau quặn đẻ. Những cô gái nhà Thượng Quan quyết liệt dấn thân vào đời với những ước mơ, hoài bảo, tình yêu. Họ đại diện cho những lối sống, những luồng tư tưởng khác nhau trong xã hội Trung Quốc, qua đó ta thấy được sự băn khoăn của một bộ phận không nhỏ người dân Trung quốc trước những biến đổi to lớn của lịch sử. Những biến loạn ấy to lớn đến nổi làm cho Kim Đồng không thể lớn về mặt tinh thần, mãi là một đứa trẻ bám vào vú mẹ (không chỉ là Kim Đồng mà là cả một thế hệ trong đó Kim Đồng chỉ là đại diện). Đó là sự suy thoái của nhân sinh. Mỗi đứa con chọn một con đường, một cách sống, và một cách chết trên con đường đời đầy gian truân khổ ải. Họ thậm chí còn xung khắc, thù ghét nhau theo sự chọn lựa chính kiến, lý tưởng, nhưng điểm tựa duy nhất, nguồn an ủi duy nhất của họ, là người mẹ Lỗ thị.
Suốt cuộc đời của Lỗ thị gắn liền với hai chữ “hi sinh”. Ngoài đàn con chín đứa của mình, Lỗ thị con cưu mang, nuôi dưỡng tám đứa cháu khác gọi bà bằng ngoại. Trong đó gồm có: Sa Tảo Hoa con của Lai Đệ và tên hán gian Sa Nguyệt Lượng; Hàn Vẹt, kết quả của cuộc tình vụng trộm giữa Lai Đệ và Hàn Chim; Câm anh, Câm em con của Tiên chim Lãnh Đệ và tên câm Tôn Bất Ngôn; Tư Mã Phượng, Tư Mã Hoàng con của Chiêu Đệ và Tư Mã Khố; Lỗ Thắng lợi, con của Phán Đệ và Lỗ Lập Nhân; Tư Mã Lương, con của Tư Mã Khố và vợ ba – đứa con trai duy nhất sống sót trong đợt thảm sát gia đình Tư Mã của quân Nhật.
Lỗ thị là một người mẹ vĩ đại, bà sẵn sàng dang tay, che chở mọi sinh linh bé nhỏ không cần biết đến xuất thân sang hèn, không cần biết đó là sản phẩm của hệ tư tưởng chính trị nào. Nguồn sữa suốt đời của Lỗ thị chỉ dành riêng cho Kim Đồng nhưng trái tim và tình yêu của bà thì được mở rộng, chia đều cho mọi đứa con, đứa cháu.
Lỗ thị là điểm nối, điểm liên kết các thành viên trong gia đình Thượng Quan. Là bàn đạp cho các con vào đời, là chỗ dựa vững chắc khi các con lâm nạn và là chốn bình yên khi dừng bước quay về.
Cả cuộc đời Lỗ thị sống trong vất vả, lo toan, nuôi nấng đàn con đàn cháu nên người, nhưng đến cuối đời lại sống thui thủi một mình trong ngôi tháp canh bỏ hoang cũ kĩ với những niềm hi vọng vào đứa con trai độc nhất.
Mở đầu truyện, người mẹ sinh Kim Đồng trong cơn ngất lịm. Kết thúc truyện, Kim Đồng thức chong đêm canh mộ mẹ, sợ “ông Chính Phủ” bắt đào lên dù chôn tại một bãi đất hoang.
Anh trông thấy phía sau mộ mẹ, nơi không bị giẫm nát, có rất nhiều hoa đang nở, những bông hoa mầu nhợt nhạt, chỉ một bông giữa là màu đỏ nhờ nhờ. Loại hoa này có mùi thơm. Anh bò lên mấy bước, giơ tay ngắt lấy bông hoa rồi đưa vào miệng. Cánh hoa rất giòn, như thịt tôm sống, nhưng khi nhai thì xộc lên mũi toàn một mùi máu. Vì sao hoa nở có máu? Vì trên mảnh đất này thấm đẫm máu người. (Tr. 859).
Lỗ thị là một nhân vật rất thực và cũng rất tượng trưng. Đầu tiên hình ảnh Lỗ thị là thân phận của một người phụ nữ trong xã hội phong kiến và là một người mẹ với tấm lòng bao dung và hi sinh cho đàn con thân yêu. Giặc ngoại xâm, các thế lực chính trị thay nhau đến rồi đi, bao biến thiên, bao bi kịch xảy đến với vùng đất Cao Mật, với gia đình Thượng Quan. Đất nước cũng vật vã thăng trầm như đời mẹ. Lỗ thị càng là một bà mẹ vĩ đại. Đó không còn là thân phận người phụ nữ nữa. Đó là thân phận đất nước Trung Hoa vĩ đại và đau thương. Đau thương và vĩ đại như cơn lốc tràn qua lục địa Trung Hoa mênh mông, xoáy quật thân phận một người phụ nữ như Lỗ thị đến chết vẫn chưa được yên. Một phụ nữ tượng trưng của một đất nước ở cái khả năng thiên phú mà dù cho con người có chà đạp tiêu diệt đến đâu thì vẫn trường tồn, bởi vì nếu nó mất đi thì mất luôn cả sự sống.
Kết thúc truyện là cảnh những kẻ phát loạn, thoái hóa trong công cuộc “cải cách mở cửa” đang phải trả giá cho những hành động của mình và lại tiếp tục xuất hiện những thủ đoạn luồn lách pháp luật khác cùng với những hành động bất nhân khác của con người với nhau. Có phải Mạc Ngôn muốn cảnh báo rằng cái ác muôn thuở vẫn là nỗi đau của con người và loài người ơi! Hãy cảnh giác! Cũng có phải vì thế mà Mạc Ngôn xây dựng nên Lỗ Toàn Nhi – một người mẹ đầy lòng yêu thương – với khả năng thiên phú, cùng với tựa đề Mông to, vú lớn là biểu tượng cho nguồn sống và sự bất diệt của loài người?…
PHỤ LỤC 2
ó
THỐNG KÊ NHỮNG THÀNH NGỮ,
TỤC NGỮ, NGỮ CỐ ĐỊNH TRONG “BÁU VẬT CỦA ĐỜI”
Với số lượng 50 vạn chữ (thống kê của Mạc Ngôn trong Mạc Ngôn và những lời tự bạch) 860 trang viết (Bản dịch của Trần Đình Hiến), Mạc Ngôn đã miêu tả về một thời kì lịch sử đau thương và hào hùng của đất nước Trung Quốc vĩ đại. Với sự tài tình của tác giả, cái hiện đại và cái truyền thống được kết hợp thật tinh tế. Trong quá trình tìm hiểu tác phẩm, chúng tôi nhận thấy một số lượng khá lớn các câu thành ngữ, tục ngữ, ngữ có định và bên cạnh đó còn có những câu, những cụm mang âm hưởng của ca dao tục ngữ… tất cả được Mạc Ngôn sử dụng một cách thuần thục trong tác phẩm, điều này tạo cho chúng tôi sự hứng thú. Dưới đây là số thành ngữ, tục ngữ và ngữ có định chúng tôi đã thống kê được trong tiểu thuyết và có kèm theo số trang để tiện theo dõi.
STT | THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, NGỮ CỐ ĐỊNH | SỐ TRANG |
Hằng hà sa số | (7), (625) | |
Mặc dạn mày dầy | (38) | |
Trâu chết để da, người chết để tiếng | (42) | |
Mẹ tròn con vuông | (42) | |
Đánh trống khua chiêng | (42) | |
Long trời lở đất | (44) | |
Đầu ván mắt hoa | (46) | |
Ướt như chuột lột | (49), (595), (796) | |
Bán anh em xa mua láng giềng gần | (55) | |
Làm ơn nên oán | (55) | |
Độc như nọc ong, dã tâm như người tình hụt | (58) | |
Có tiền mua tiên cũng được | (58), (707) | |
Oai phong lẫm liệt | (59), (752) | |
Có bệnh thì vái tứ phương, ai có sữa thì người ấy là mẹ. | (61) | |
Vô công rỗi nghề | (70) | |
Hồi quang phản chiếu | (71) | |
Cáo mượn oai hùm | (81) | |
Thương luân hại lí | (82) | |
Trầm tư mặc tưởng | (86) | |
Dây mơ rễ má | (97), (261) | |
Lưu danh thiên cổ | (99) | |
Danh phận không rõ | (101) | |
Cóc ghẻ muốn ăn thịt ngỗng trời | (114) | |
Đinh tai nhức óc | (136), (633) | |
Đảo lộn cương thường | (144) | |
Không đội trời chung | (150) | |
Con giun xéo lắm cũng quằn | (155), (387) | |
Cạn tầu ráo máng | (155) | |
Bằng mặt chẳng bằng lòng | (156) | |
Sét đánh ngang tai | (160) | |
Rối như tơ vò | (160) | |
Cơm chẳng lành canh chẳng ngọt | (160) | |
Ánh mắt sắc như dao | (162) | |
Mũi diều, mắt quạ | (162) | |
Lòng lang dạ sói | (171) | |
Đồng cân đồng lạng | (174) | |
Hay thì ở, dở thì xéo | (179) | |
Chuột sa chĩnh gạo | (180) | |
Tự lực cánh sinh | (193) | |
Thọ tỉNamsơn | (196) | |
Con cháu đầy đàn | (196) | |
Ăn cháo đá bát | (198), (668) | |
Chí nhân chí nghĩa | (208), (320) | |
Trong cái rủi có cái may | (210) | |
Mát nước, thối đá | (214), (765) | |
Phú quí vinh hoa | (224), (683) | |
Gậy ông đập lưng ông | (237) | |
Tiền oan nghiệp chướng | (242), (777) | |
Coi trời bằng vung | (242) | |
Quỉ khóc thần sầu | (260) | |
Người trần mắt thịt | (262) | |
Sống chịu tội sống, chết thành tiên | (262) | |
Ngước chảy về chỗ thấp | (274) | |
Người vui chuyện gở, chó vui tranh phân | (285) | |
Được làm vua, thua làm giặc | (293), (327) | |
Yếu trâu còn hơn khoẻ bò | (293) | |
Bắt cá trên cạn | (300) | |
Nói có sách, mách có chứng | (300) | |
Mười năm Hà Đông, mười năm Hà Tây | (306) | |
Phó mặt cho trời | (307) | |
Vây nóng trả vội | (308) | |
Lòng lim dạ sắc | (312) | |
Chó cùng dứt dậu | (313), (387) | |
Mèo cùng trèo cây | (313) | |
Thỏ cùng cắn người | (313) | |
Gieo gió gặt bão | (319) | |
Cán cân đâu quả cân đấy | (324) | |
Như hình với bóng | (324) | |
Đới tội lập công | (327) | |
Nợ có đầu, oan có chủ | (343) | |
Cháy nhà ra mặt chuột | (344) | |
Namchinh bắc chiến | (373) | |
Rừng tên mũi đạn | (375) | |
Tiến thoái lưỡng nan | (377) | |
Châu chấu đá xe | (430) | |
Có gan ăn cắp có gan chịu đòn | (437) | |
Đơn thương độc mã | (475) | |
Trăm dâu đổ đầu tằm | (483) | |
Lo bò trắng răng | (494) | |
Túng thì phải tính | (548) | |
Xuất khẩu thành chương | (551) | |
Có tật giật mình | (554) | |
Hồn xiêu phách lạc | (560), (647), (668) | |
Thiên la địa võng | (579) | |
Người tốt vì lụa, lúa tốt vì phân | (580) | |
Nhát hơn thỏ đế | (598) | |
Báo thù tuyết hận | (599) | |
Xuất quỷ nhập thần | (602) | |
Mèo mã gà đồng | (614) | |
Vơ đũa cả nắm | (615) | |
Thập tử nhất sinh | (620) | |
Thấu tình đạt lí | (621) | |
Ma xui quỷ khiến | (627) | |
Cứu người thì cứu cho trót | (637) | |
Phượng hoàng quá lứa không bằng gà | (637) | |
Bế quan toả cảng | (650) | |
Bụng dạ Bồ tát | (654), (810) | |
Nuôi quân ngàn ngày, dùng trong một giờ | (660) | |
Nhất cử nhất động | (661) | |
Cá mè một lứa | (661), (792) | |
Sống cũng như chết | (681) | |
Ôm cây đợi thỏ | (681) | |
Mỡ đến miệng mèo | (681), (810) | |
Hậu sinh khả uý | (688) | |
Chân ướt chân ráo | (685), (766) | |
Ôn cố tri tân | (699) | |
Có tiền mua tiên cũng được | (707) | |
Người cùng cảnh ngộ | (717) | |
Ngồi mát ăn bát vàng | (726) | |
Gieo gió thì gặt bão | (730) | |
Chim ngói chiếm tổ chim sẻ | (732) | |
Đổi khách thành chủ | (732) | |
Rắn đòi nuốt voi | (732) | |
Cơn gà cá gỏi | (733) | |
Mèo già hoá cáo | (736) | |
Một liều ba bảy cũng liều | (748) | |
Cái chết nhẹ tựa lông hồng | (752) | |
Trọng nghĩa khinh tài | (752) | |
Lòng gang dạ sắt | (752) | |
Vỏ quýt dày có móng tay nhọn | (765) | |
Mưa thuận gió hoà | (773) | |
Khí tráng sơn hà | (774) | |
Đổ mồ hôi sôi nước mắt | (775) | |
Hang cùng ngõ hẻm | (788), (815) | |
Có mắt như mù | (790) | |
Miếng ngon chẳng đến người ngoài | (794) | |
Không ơn không kết thành cha con, không thù không kết thành nàng dâu mẹ chồng | (799) | |
Được đằng chân lên đằng đầu | (801) | |
Nghèo như ăn mày thì không thể nghèo hơn, quá nhiều cháy thì không còn thấy ngứa | (809) | |
Anh hùng hào kiệt | (809) | |
Độc nhất vô nhị | (812) | |
Người mù dạ sáng như gương | (815) | |
Phàm phu tục tử | (815) | |
Sống không thấy mặt chết không thấy xác | (816) | |
Khuynh quốc khuynh thành | (817) | |
Cái chết nặng tựa Thái Sơn | (817) | |
Sơn hào hải vị | (817) | |
Đồng bệnh tương liên | (823) | |
Trời đất xoay vần, tôn ti điên đảo | (824) | |
Phong gấm rủ là | (831) | |
Tử biệt sinh li | (834) | |
Tuyệt thế giai nhân | (835) | |
Thông trắng cám vàng | (837) | |
Cây muốn lặng như gió chẳng ngừng | (837) | |
Thiên lôi chỉ đâu đánh đấy | (838) | |
Rượu mời không uống, uống rượu phạt | (838) | |
Mẹ goá con côi | (839) | |
Trời đất không dung | (839) | |
Không tàn nhuỵ rữa | (840) | |
Lạc đà gầy còn to hơn ngựa, xấu phượng hoàng còn đẹp hơn gà | (840) | |
Ai có vú là mẹ, ai có tiền là chồng | (841) | |
Mưa không tới mặt, nắng không tới đầu | (841) | |
Dĩ độc trị độc | (842) | |
Thần không biết, quỉ không hay | (848) | |
Xấu dây tốt củ | (849) | |
Nghèo rớt mồng tơi | (854) |
PHỤ LỤC 3
ó
TÌM HIỂU CHUNG VỀ THỂ LOẠI TIỂU THUYẾT
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.
Trong một cách hiểu khác, nhận định của Belinski: “tiểu thuyết là sử thi của đời tư” chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt cơ cấu của nhân cách.
- 1. TÊN GỌI THỂ LOẠI
Trong văn học phương Đông, danh từ tiểu thuyết xuất hiện khá sớm nhằm phân biệt với hai thể loại cơ bản khác là đại thuyết và trung thuyết. Đại thuyết là kinh sách, đó là loại sách gần như chân lý, kiểu khuôn vàng thước ngọc và rất khó đọc. Trung thuyết do các hiền sư, sử gia thực hiện như Sử ký của Tư Mã Thiên. Còn tiểu thuyết, vốn chỉ những chuyện vụn vặt, đời thường. Những chuyện ấy cùng với cổ tích, ngụ ngôn là những mầm mống của tiểu thuyết phương Đông. Thuỷ Hử và Hồng Lâu Mộng là một trong những số đó.
Theo quan niệm trước đây, đặc biệt là quan niệm của Trung Quốc và Nhật Bản, tiểu thuyết bao gồm có hai loại chính là tiểu thuyết đoản thiên hay truyện ngắn, thậm chí là “vi hình tiểu thuyết” (truyện cực ngắn, truyện siêu ngắn) hay “truyện trong lòng bàn tay” và tiểu thuyết trường thiên (truyện dài). Tuy nhiên hiện nay, ở ViệtNam, khi nói đến tiểu thuyết, độc giả thường hiểu đó là tác phẩm truyện dài.
Ở một số ngôn ngữ phương Tây, từ tiểu thuyết có nguồn gốc từ tiếng Latinh, mang nghĩa chuyện mới (novel).
Song song với tiến trình này, văn học hiện đại thế giới cũng cho thấy những nguyên lý của tiểu thuyết chi phối hầu hết các tác phẩm tự sự khác nên sự phân biệt bản chất thể loại ở các truyện cụ thể trở nên ngày càng khó khăn.
- 2. LỊCH SỬ TIỂU THUYẾT
Lịch sử phát triển tiểu thuyết đã ghi nhận nền văn học thế giới có những thành tựu rực rỡ: từ những kiệt tác tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa đến những tác phẩm đồ sộ của tiểu thuyết hiện thực phê phán phương Tây, từ dòng chảy của tiểu thuyết sử thi hoành tráng trong văn học Nga “thế kỷ bạc”. Đến những nguồn mạch văn chương hiện thực huyền ảo Mỹ – Latinh, sự trỗi dậy và vượt thoát truyền thống của những nền văn học châu Á… Những mô hình ấy đã tạo dựng nên diện mạo đặc biệt phong phú của tiểu thuyết trong suốt thời kỳ đã qua tính từ khi hình thành thể loại.
2.1. CHÂU Á
Ở Trung Quốc tiểu thuyết xuất hiện rất sớm, vào thời kỳ Ngụy – Tấn (thế kỷ III – IV) tiểu thuyết đã manh nha dưới dạng những tác phẩm chí quái, chí nhân. Sang đời nhà Đường xuất hiện thể loại “truyền kỳ”, đời Tống lại có thêm dạng “thoại bản”, tất cả đều có thể coi là tiền thân của tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại. Từ đời Minh văn học Trung Quốc nói chung và văn xuôi Trung Quốc nói riêng phát triển rực rỡ với những bộ tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du ký của Ngô Thừa Ân, Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh v.v. Đời Thanh bước phát triển của tiểu thuyết chương hồi đã tới thời điểm hoàng kim qua hàng loạt danh tác như Chuyện làng Nho (Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần. Thời hiện đại tiểu thuyết Trung Quốc vượt thoát những thể loại truyền thống, ảnh hưởng lớn từ các trào lưu văn học phương Tây đương thời với sáng tác của các tác gia như Lỗ Tấn, Vệ Tuệ, Giả Bình Ao, Mạc Ngôn v.v.
Tại Nhật Bản, vượt qua sử ký, tùy bút và nhật ký, hình thức sơ khai của tiểu thuyết đã xuất hiện từ những thế kỷ thứ VI – VIII, ban đầu là sự tập hợp thành chương những bài ca ballad, truyện kể do các pháp sư mù gảy đàn biwa lưu truyền khắp đảo quốc. Cùng với những sáng tạo khởi đầu là Takatori monogatari, tiểu thuyết Nhật Bản, mà hình thức của thể loại được gọi bằng tên monogatari, đi được một nửa chặng đường đến Ise monogatari và đạt đỉnh cao với Genji monogatari. Genji monogatari trở thành ngôi sao băng chói sáng của văn chương cổ điển Nhật Bản, được đánh giá là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, mà rất nhiều thế kỷ về sau với Sagoromo monogatari, Yowa no nezame, Hamamatsu Chūnagon monogatari, Torikaebaya monogatari, văn học Nhật Bản vẫn không thể sản sinh được một tác phẩm tự sự nào có được vị trí và giá trị của nó. Từ thế kỷ XIX khi xã hội Nhật Bản không ngừng hướng theo mô hình phương Tây, những tác phẩm nổi tiếng của thể loại tiểu thuyết phương Tây đương thời được dịch thuật hoặc phóng tác tràn lan trong thời Minh Trị đã phát triển tiểu thuyết Nhật Bản theo những khuynh hướng sáng tác hiện đại, và những tiểu thuyết tiền – hiện đại đầu tiên có dạng thức tự thuật, còn gọi là “tâm cảnh tiểu thuyết”, vào cuối thời Minh Trị.
2.2. PHƯƠNG TÂY
Ở phương Tây, Tiểu thuyết có mầm mống ban đầu từ các tác phẩm tự sự viết bằng tiếng Roman, thường là thể loại anh hùng, đó là những tiểu thuyết kị sĩ với những biến cố và tình huống phi thường. Tuy nhiên, nhìn nguồn gốc của thể loại, các nhà nghiên cứu có thể truy nguyên về tận thời Hi Lạp, khi bên cạnh những tác phẩm trường ca cổ đại với cảm hứng về cái chung và cái anh hùng là chủ đạo, vẫn có những tác phẩm lấy cảm hứng từ con người riêng lẻ.
Thời kỳ Phục Hưng đã tạo cơ sở thuận tiện nhất cho sự phát triển tiểu thuyết: chất tiểu thuyết bộc lộ trong các tác phẩm thể truyện, thể trường ca, thể kịch… Nhưng tiểu thuyết đích thực gắn với những tìm tòi tư tưởng triết lý, chỉ xuất hiện vào cuối thời đại Phục Hưng với Đôn Kihôtê. Sau thời Phục Hưng, khi văn học tao nhã là chủ đạo, thì xu hướng phát triển tiểu thuyết chỉ bộc lộ rõ trong các sáng tác thuộc loại tiểu thuyết du đãng khai thác các đặc điểm trào phúng, sự hư cấu tự do, vai trò của kinh nghiệm cá nhân tác giả trong sáng tạo nghệ thuật, và tiểu thuyết tâm lý đầu tiên với sáng tác của bà La Fayette.
Sang thời đại Khai Sáng và thời cận đại, từ thế kỷ XVIII, tiểu thuyết đã đi một chặng đường dài với sự hình thành các kết cấu chính. Sự kết hợp hữu cơ giữa hai thể tài tâm lý và du đãng, đưa ra những mẫu mực của tiểu thuyết tình cảm đồng thời củng cố vai trò chủ đạo của tiểu thuyết luận đề, sự hình thành nguyên tắc điển hình hóa của tiểu thuyết hiện thực, làm tiền đề cho sự nở rộ tiểu thuyết của chủ nghĩa hiện thực phát triển mạnh giai đoạn sau đó với Balzac, Zola; Stendhal, Flaubert, (tiểu thuyết toàn cảnh, tiểu thuyết hướng tâm).
Qua thế kỷ XIX, tiểu thuyết sử thi của L. Tolstoi với sự trần thuật đạt được chiều rộng và tính bao quát, sự mô tả đời sống nội tâm nhân vật như một quá trình tâm lý nội tại lần đầu tiên cho phép tiểu thuyết tái hiện được “biện chứng của tâm hồn”. Tiểu thuyết đối thoại của Dostoevski với con người đời tư được đặt trong tương quan với cả thế giới.
Thế kỷ XX tiểu thuyết phương Tây phát triển trong sự đa dạng đối nghịch nhau về nhiều mặt, bên cạnh những thành tựu của tiểu thuyết hiện thực với khuynh hướng hiện thực phê phán hoặc khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, hướng sáng tác mới của M. Proust, J. Joyce, F. Kafka lại cho thấy một loạt các nguyên tắc tiểu thuyết vốn đã thành truyền thống trước kia bị biến đổi: độc thoại nội tâm bao trùm tác phẩm như một thủ pháp của tiểu thuyết dòng ý thức; sự xáo trộn liên tục các bình diện thời gian và không gian, các mảng đời sống hiện thực hòa quyện cùng huyền thoại, xuất hiện người kể chuyện không toàn năng khi trong lời kể có cả cái biết và cái không biết, cái khách quan lẫn chủ quan. Các vấn đề về “ngôi” và “thời” của lời trần thuật và các “điểm nhìn” trần thuật trở thành chìa khóa cho việc đọc tiểu thuyết theo khuynh hướng phức điệu, đa thanh. Bên cạnh đó, các trào lưu tư tưởng đương thời như hiện tượng học, thuyết phi lý, chủ nghĩa hiện sinh, phân tâm học, hậu hiện đại, phê bình nữ quyền, hậu thực dân cũng góp phần tạo ra những dạng thức như phản tiểu thuyết, tiểu thuyết mới, hoặc làm nảy sinh tư tưởng về nhân vật biến mất, hoặc tiểu thuyết cáo chung …
- 3. KẾT CẤU
Tiểu thuyết có nhiều dạng thức kết cấu tùy theo yêu cầu của đề tài, chủ đề hoặc theo sở trường của người viết. Thậm chí người ta còn cho rằng, về nguyên tắc, tiểu thuyết không có một hình thức thể loại hoàn kết, bởi vì nó là “sử thi của thời đại chúng ta”, tức là sử thi của cái hiện tại, cái đang hàng ngày hàng giờ đổi thay, bởi vì điều quan trọng đối với nó là sự tiếp xúc tối đa với cái thực tại dang dở “chưa xong xuôi”, cái thực tại đang thành hình, cái thực tại luôn bị đánh giá lại, tư duy lại. Tuy thường gặp những kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lý, kết cấu luận đề, kết cấu đơn tuyến, kết cấu đa tuyến … tiểu thuyết vẫn không chịu được những chế định chặt chẽ, nó không có quy phạm cố định và người viết thậm chí có thể phá vỡ những khuôn mẫu sẵn có để vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các hình thức kết cấu khác nhau. Kết cấu cho phép tạo nên một diện mạo chung nhất về tiểu loại: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết đa thanh … (Lại Nguyên Ân, 1999)
- 4. PHONG CÁCH
Với những khác biệt của tiểu thuyết về đề tài (tình yêu, xã hội, chính trị, lịch sử, triết lý, giả tưởng …), dung lượng, mức độ kịch tính, các nguyên tắc kết cấu – cốt truyện, phương thức trần thuật, có thể thấy một số điểm nhấn về phong cách, dễ thấy nhất là đem tính nội dung trực tiếp của tiểu thuyết ôm trùm toàn bộ mọi thành tố cốt truyện, khi đó tình tiết rắc rối sẽ trở thành phương tiện phản ánh xung đột giữa cá nhân và xã hội, trở thành động lực thúc đẩy hành động của nhân vật, giúp tăng cường vai trò cấu tạo của cốt truyện cho tác phẩm. Tạo được kịch tính cho trần thuật, sự rắc rối sẽ chi phối cả sự phát triển của mâu thuẫn nào đó xuất phát điểm đến phương thức giải quyết, cả tiến trình lẫn các thành phần của những biến cố cốt truyện và thậm chí cả bản thân các “chìa khóa” kết cấu tác phẩm.
- 5. XU HƯỚNG CẤU TRÚC
Quá trình phát triển thể loại tiểu thuyết hiện đại ở các nền văn học châu Âu cho thấy hai hướng cấu trúc tiêu biểu:
5.1. Tiểu thuyết mở
Tiểu thuyết mở có ngọn nguồn từ Đôn Kihôtê (1605, 1615), miêu tả xã hội một cách đa diện, tạo các lý do thật chi tiết cho sự tiến triển của nhân vật chính, cho nhân vật này can dự vào nhiều biến cố và những biến cố ấy lại là nơi cư ngụ cho vô số nhân vật phụ. Kiểu tiểu thuyết này cũng đặc trưng ở sự miêu tả rộng rãi hoàn cảnh ngoại giới khách quan mà trước nhất là hoàn cảnh xã hội.
5.2. Tiểu thuyết đóng
Tiểu thuyết theo xu hướng cấu trúc “đóng” có thể tính ngọn nguồn từ tác phẩm Quận chúa Clèves (La princesse de Clèves) (1678) của nữ sĩ M. M. de La Fayette, thể hiện sự tập trung vào cuộc đời của một con người, đôi khi vào chỉ một xung đột, một tình huống, do đó mang tính hướng tâm, đồng tâm, xét về kết cấu. Xu hướng cấu trúc tiểu thuyết này đã rất sớm trở thành ngọn nguồn của những sáng tác tiểu thuyết tâm lý giai đoạn sau.
- 6. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
6.1. Tính chất văn xuôi
Là một thể loại cao cấp nhất thuộc phương thức tự sự, tính chất văn xuôi, vì vậy, trở thành đặc trưng tiêu biểu cho nội dung của thể loại. Tính chất đó đã tạo nên trường lực mạnh mẽ để thể loại dung chứa toàn vẹn hiện thực, đồng hóa và tái hiện chúng trong một thể thống nhất với những sắc màu thẩm mỹ mới vượt lên trên hiện thực, cho phép tác phẩm phơi bày đến tận cùng sự phức tạp muôn màu của hiện thực đời sống.
6.2. Nghệ thuật kể chuyện
Giống như các hình thái tự sự khác như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết lấy nghệ thuật kể chuyện làm giọng điệu chính của tác phẩm. Thông thường ở tác phẩm xuất hiện người kể chuyện như một nhân vật trung gian có nhiệm vụ miêu tả và kể lại đầu đuôi diễn biến của chuyện. Tuy sự tồn tại của yếu tố này là ước lệ nghệ thuật của nhiều thể loại thuộc tự sự, nghệ thuật kể chuyện của tiểu thuyết vẫn cho thấy sự đa dạng đặc biệt về phong cách: có thể thông qua nhân vật trung gian, có thể là nhân vật xưng “tôi”, cũng có thể là một nhân vật khác trong tác phẩm, tạo nên các tác phẩm có một điểm nhìn trần thuật. Hiện nay, một trong những xu hướng tìm tòi đổi mới tiểu thuyết là việc tăng thêm các điểm nhìn ở tác phẩm, khi vai trò của nhân vật trung gian hoặc nhân vật xưng “tôi” được “san sẻ” cho nhiều nhân vật trong cùng một tác phẩm.
6.3. Khả năng phản ánh toàn vẹn hiện thực
Đặc trưng lớn nhất của tiểu thuyết chính là khả năng phản ánh toàn vẹn và sinh động đời sống theo hướng tiếp xúc gần gũi nhất với hiện thực. Là một thể loại lớn tiêu biểu cho phương thức tự sự, tiểu thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều rộng của không gian cũng như chiều dài của thời gian, cho phép nhà văn mở rộng tối đa tầm vóc của hiện thực trong tác phẩm của mình.
Ở phương diện khác, tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc linh hoạt, không chỉ cho phép mở rộng về thời gian, không gian, nhân vật, sự kiện mà còn ở khả năng dồn nhân vật và sự kiện vào một khoảng không gian và thời gian hẹp, đi sâu khai thác cảnh ngộ riêng và khám phá chiều sâu số phận cá nhân nhân vật.
6.4. Hư cấu nghệ thuật
Hư cấu nghệ thuật cũng được coi là một đặc trưng của thể loại, là một thao tác nghệ thuật không thể thiếu trong tư duy sáng tạo của tiểu thuyết. Hư cấu cho phép tác phẩm tái hiện những thời đại lịch sử phát triển trong câu chuyện hư cấu, không hiện thực như sử học, và những nhân vật hoàn toàn không bị lệ thuộc bởi nguyên mẫu ngoài đời như những tác phẩm thuộc thể ký. Trong vô vàn những gương mặt đời thường và giữa muôn ngàn biến cố của lịch sử, nhà văn khi trước tác một tác phẩm tiểu thuyết đã thực hiện những biện pháp nghệ thuật đồng hóa và tái hiện bức tranh đời sống bằng phương thức chọn lọc, tổng hợp và sáng tạo. Khi đó, hư cấu nghệ thuật, đối với tiểu thuyết đã trở thành yếu tố bộc lộ rõ rệt phẩm chất sáng tạo dồi dào của nhà văn.
6.5. Tính đa dạng về sắc độ thẩm mĩ
Tính đa dạng về màu sắc thẩm mỹ cũng là một đặc trưng tiêu biểu của thể loại. Các thể loại văn học khác thường chỉ tiếp nhận một sắc thái thẩm mỹ nào đó để tạo nên âm hưởng của toàn bộ tác phẩm, như bi kịch là cái cao cả, hài kịch là cái thấp hèn, thơ là cái đẹp và cái lý tưởng. Ở tiểu thuyết không diễn ra quá trình chọn lựa màu sắc thẩm mỹ khi tiếp nhận hiện thực mà nội dung của nó thể hiện sự pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau của các sắc độ thẩm mỹ khác nhau: cái cao cả bên cái thấp hèn, cái đẹp bên cái xấu, cái thiện lẫn cái ác, cái bi bên cạnh cái hài…
6.6. Tính tổng hợp của tiểu thuyết
Ở phương diện cuối cùng, tiểu thuyết là một thể loại mang bản chất tổng hợp. Nó có thể dung nạp thông qua ngôn từ nghệ thuật những phong cách nghệ thuật của các thể loại văn học khác như thơ (những rung động tinh tế), kịch (xung đột xã hội), ký (hiện thực đời sống); các thủ pháp nghệ thuật của những loại hình ngoại biên như hội họa (màu sắc), âm nhạc (thanh âm), điêu khắc (sự cân xứng, chi tiết), điện ảnh (khả năng liên kết các bức màn hiện thực); và thậm chí cả các bộ môn khoa học khác như tâm lý học, phân tâm học, đạo đức học và các bộ môn khoa học tự nhiên, khoa học viễn tưởng khác. v.v. Nhiều thiên tài nghệ thuật đã định hình phong cách từ khả năng tổng hợp này của thể loại, như Tolstoi với tiểu thuyết-sử thi, Dostoevski với thể loại tiểu thuyết – kịch, Solokhov với tiểu thuyết anh hùng ca – trữ tình, Roman Roland với tiểu thuyết – giao hưởng…
SƠ ĐỒ QUAN HỆ GIỮA CÁC NHÂN VẬT CHÍNH TRONG TIỂU THUYẾT BÁU VẬT CỦA ĐỜI CỦA NHÀ VĂN MẠC NGÔN.
Tư Mã Người Ông tổ Thượng Quan Đẩu
Răng To phụ nữ mù nhà họ Lỗ
T.M Ông Vu Bàn Vả Lỗ Ngũ Quậy Diệu bà T.Q Phúc Thọ Lã Thị
T.M Khố T.M Đình Lỗ Toàn Nhi T.Q Thọ Hỹ (Bị bất lực)
Tư M Lương
(con bà Ba)
Người Người Người bán Hoà thượng Tên Mục sư
Bán vịt bán thuốc thịt chó Trí Thông lính Malôa
Lai Chiêu Lãnh Tưởng Phán Niệm Cầu Ngọc Kim
Đệ Đệ Đệ Đệ Đệ Đệ Đệ Nữ Đồng
(Bán thân cứu gia đình (Được nhận làm (Bị mù bẩm sinh
Trong nạn đói 1941) con nuôi,chết trong tự tử chết năm 1960)
nạn đói 1960)
Hàn Sa Nguyệt Lượng Tư Mã Khố Tôn Bất Ngôn Lỗ Lập Nhân Báctíp Uông Ngân Chi
Chim (Hán gian) (Quốc Dân Đảng) (Cộng Sản Đảng) (Cộng Sản Đảng) (Thuộc hạ T.M Khố) (Con của Tê Giác một sừng Uông Kim Chi)
|
Hàn Vẹt Sa Tảo Hoa T.M T.M Câm Câm Lỗ Chiến Thắng (Làm nữ tặc, sau Hoàng Phượng anh em (Sau làm thị trưởng Tp. Đại La,
nhảy lầu tự tử) (Cặp song sinh con của (Bị chết trên đường ở tù vì tội tham nhũng)
Chiêu đệ và TMK bị xử bắn chạy loạn 1945)
Cảnh Liên Liên trong đợt cải cách ruộng đất)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 1. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi, Lê Hải Yến. Văn học Trung Quốc. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2002.
- 2. Trần Xuân Đề. Lịch sử văn học Trung Quốc. NXB Giáo Dục, 2002.
- 3. Trần Xuân Đề. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, NXB Giáo Dục, 2000.
- 4. Hồ Sĩ Hiệp. Một số vấn đề văn học Trung Quốc đương đại. NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2007.
- 5. Hồ Sĩ Hiệp. Một số vấn đề văn học Trung Quốc thời kì mới. NXB Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2003.
- 6. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh. Văn học sử Trung Quốc. tập 3. Người dịch: Phạm Công Đạt, NXB Phụ nữ, 2000.
- 7. Nhiều tác giả biên soạn , Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2. Đại Bách Khoa Toàn Thư Trung Quốc, . Người dịch: Bùi Hữu Hồng. NXB Thế Giới ấn hành năm 2000.
- 8. Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2. Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc. Nhiều người dịch. NXB Giáo dục 1997.
- 9. Phùng Hoài Ngọc. Đề cương bài giảng “Thi pháp học hiện đại” (Tài liệu lưu hành nội bộ), Đại học An Giang, 2005.
- 10. Phùng Hoài Ngọc. Đề cương bài giảng “Văn học Mĩ La Tinh” (Tài liệu lưu hành nội bộ), Đại học An Giang, 2002.
- 11. Phùng Hoài Ngọc. Giáo trình Văn học Trung Quốc (Tài liệu lưu hành nội bộ), Đại học An Giang, 2003.
- 12. Viện Khoa học xã hội. Phê bình văn học Trung Quốc đương đại.. NXB Khoa học xã hội, 2005.
- 13. Mạc Ngôn và những lời tự bạch. Nguyễn Thị Thại dịch. NXB Văn học, 2004.
- 14. Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo. Lịch sử Văn học Trung Quốc, tập 2. NXB Đại học sư phạm 2002.
- 15. Nguyễn Khắc Phi, Lương Duy Thứ. Văn học Trung Quốc, tập 2. NXB Giáo dục, 1998.
- 16. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân. Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam. NXB Giáo dục, 1997.
- 17. Lỗ Tấn. Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc. Lương Duy Tâm dịch. NXB Văn hóa, 1996.
- 18. Từ điển văn học (Bộ mới). NXB Thế Giới, 2004.
- 19. http://www.vi.wikipedia.org
- 20. http://www.vnexpre.vn
Chia sẻ:
Có liên quan
Từ khóa » Tóm Tắt Truyện Báu Vật Của đời
-
Báu Vật Của đời – Wikipedia Tiếng Việt
-
Review Sách Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn
-
Báu Vật Của Đời - Truyện FULL
-
Báu Vật Của đời Là Gì? Chi Tiết Về Báu Vật Của đời Mới Nhất 2021
-
Báu Vật Của đời - Giải Sách Hay
-
Báu Vật Của đời – Số Phận Người Phụ Nữ Trung Hoa đau Thương ...
-
Báu Vật Của Đời - Mạc Ngôn - Doc Truyen Online
-
Tìm Hiểu Tiểu Thuyết Báu Vật Của đời Của Mạc Ngôn
-
Báu Vật Của Đời Chương Mới Nhất | SSTruyen
-
Tóm Tắt Chuyện được Giải Nobel Văn Chương Của Mặc Ngôn
-
Thế Giới Nhân Vật Trong Báu Vật Của đời (mạc Ngôn) - Tài Liệu Text
-
Đặc điểm Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Báu Vật Của đời (Mạc Ngôn) | Kết Nối
-
đặc điểm Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Báu Vật Của đời (mạc Ngôn)
-
Luận Văn Tốt Nghiệp đề Tài: “tìm Hiểu Tiểu Thuyết “báu Vật Của đời” Của ...