Tin Tức - Công Ty Quản Lý Tài Sản (VAMC)

1. Tổng quan về nợ xấu và kết quả xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam qua các giai đoạn

Trong những năm qua, nợ xấu không chỉ là “căn bệnh” của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng, mà đã trở thành vấn đề đáng quan ngại của cả hệ thống ngân hàng – tài chính toàn cầu, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cuối năm 2008 bắt nguồn từ Mỹ, lan rộng sang các nước lân cận và trên thế giới. Thuật ngữ “nợ xấu” đã trở thành chủ đề được đề cập đến tại nhiều nghiên ở các nước phát triển và các nước mới nổi, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu chú ý nhiều hơn đến việc đưa ra các giải pháp nhằm ngăn chặn rủi ro do nợ xấu mang lại, cũng như biện pháp hạn chế tỷ lệ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng – tài chính thông qua đề xuất… “Nợ xấu được hiểu là khoản nợ mà quá thời hạn thanh toán một số ngày nhất định mà người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng cho vay”, đây là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo. Nợ xấu vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn, và tính hoàn trả đầy đủ, sau nữa, nó gây nên sự mất lòng tin của người cấp tín dụng đối với khách hàng nhận tín dụng. Việc phát sinh nợ xấu là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Đây là vấn đề mà tất cả các NHTM trên thế giới phải đối mặt, nếu tỷ nợ xấu quá cao, hoạt động ngân hàng sẽ bị tê liệt vì các ngân hàng không có vốn để thanh toán cho người gửi tiền khi đến hạn. Ở mức độ trầm trọng, sẽ dẫn tới sự phá sản ngân hàng. Do đó, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nợ xấu là một công tác hết sức quan trọng tại các NHTM.

Tại Việt Nam, việc xác định nợ xấu ngân hàng trước hết phải thông qua việc phân loại nợ. Theo Điều 10 Thông tư 02/2013/TT-NHNN, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện phân loại nợ (trừ các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng) theo 05 nhóm: (i) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn); (ii) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý); (iii) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn); (iv) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ); (v) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Để tính toán và phân loại nhóm nợ, cơ quan quản lý sẽ căn cứ theo chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu được tính toán như sau:

Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ x 100%

Tỷ lệ nợ xấu là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng, phản ánh khả năng thu hồi vốn khó khăn, vốn của ngân hàng lúc này không còn ở mức độ rủi ro thông thường nữa mà là nguy cơ mất vốn. Hiện nay, theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ an toàn cho phép là dưới 3%.

1.1. Kết quả xử lý nợ xấu theo Đề án “Cơ cấu hệ lại thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015” ban hành theo Quyết định số 254/QĐ-TTg

Tỷ lệ nợ xấu tại Việt Nam có xu hướng tăng từ cuối năm 2007 và trở nên trầm trọng hơn từ cuối năm 2011. Theo báo cáo của các TCTD, đến 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống là 117.723 tỷ đồng, chiếm 4,47%. Tuy nhiên, theo số liệu NHNN đã mạnh dạn công bố tỷ lệ nợ xấu tới 8,82% (2012), vượt xa số liệu các NHTM công bố. Ngoài ra, theo số liệu của Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu Việt Nam năm 2012 là 13% trên tổng dư nợ. Thậm chí, tới thời điểm tháng 5/2015, khi đánh giá lại toàn diện các nguồn nợ xấu, NHNN đưa ra một tỷ lệ nợ xấu gấp đôi tới 17,21% tại thời điểm 30/9/2012 tương đương 465.000 tỷ đồng cho vay không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này gần với các đánh giá của Fitch là 15% (9/2012) và tỷ lệ tới 20% theo đánh giá của Barclay.

Trước tình hình nợ xấu gia tăng, gây bất ổn đối với an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng, cũng như các hoạt động kinh tế, NHNN đã thực hiện đánh giá thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng và chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 843/2013/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 về phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” và Đề án “Thành lập Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC)”. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nằm trong kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng khi ban hành Quyết định số 734/QĐ-NHNN ngày 18/04/2012 nhằm góp phần thực hiện thành công mục tiêu của Đề án “Cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011-2015” ban hành theo Quyết định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, NHNN đã chỉ đạo hệ thống các TCTD tích cực triển khai đồng bộ các biện pháp điều hành cũng như chấn chỉnh hoạt động của các TCTD như: (1) Kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát và giảm tín dụng trong những lĩnh vực rủi ro để chủ động kiểm soát nợ xấu phát sinh; (2) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hỗ trợ cho quá trình đánh giá, kiểm soát, xử lý nợ xấu như các chuẩn mực mới về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, các tỷ lệ, giới hạn an toàn hoạt động của TCTD, quy định về ủy thác, nhận ủy thác theo hướng phù hợp hơn với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, từ đó, tạo nền tảng cho các TCTD hoạt động an toàn hơn và thúc đẩy xử lý nợ xấu, cơ cấu lại theo các mục tiêu, định hướng đề ra. Theo đó, khuôn khổ pháp lý về mua bán, xử lý nợ xấu thuộc phạm vi quản lý của NHNN gồm: (i) Ban hành các văn bản quy định về thành lập, cơ cấu tổ chức và hoạt động của VAMC; (ii) Ban hành quy định mới về mua, bán nợ của các TCTD; (iii) Phối hợp với các Bộ, ngành ban hành các văn bản quy định về hoạt động xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của TCTD và VAMC; (3) Các NHTM tăng cường công tác xử lý nợ xấu chủ yếu thông qua giảm lợi nhuận, giảm chia cổ tức cho các cổ đông để tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro xử lý các khoản nợ xấu phát sinh, tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý tài sản bảo đảm, bán nợ xấu cho VAMC, bán nợ xấu cho các cá nhân và tổ chức khác. (Hình 1)

Nhờ vậy, sau gần 3 năm thực hiện, tính đến cuối tháng 2/2017, có thể nói, nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam đã được xử lý một bước căn bản, thể hiện qua các số liệu sau: Thứ nhất, hệ thống ngân hàng đã xử lý một khối lượng lớn nợ xấu 611,59 nghìn tỷ đồng nợ xấu (tính từ 2012-2016), qua đó, góp phần cải thiện tăng trưởng tín dụng, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt đối với các lĩnh vực ưu tiên và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; thứ hai, việc xử lý nợ xấu của các TCTD được thúc đẩy mạnh mẽ, thời điểm cuối tháng 9/2012, theo thông báo của NHNN tỷ lệ nợ xấu do các TCTD báo cáo ở mức khoảng 4,47% nhưng đến cuối tháng 2/2017, tỷ lệ nợ xấu nội bảng do NHNN công bố giảm còn 2,56% và đáng lưu ý là các chuẩn mực mới về phân loại nợ đã được triển khai theo đúng lộ trình, làm cho nợ xấu trở nên minh bạch hơn và được phản ánh đầy đủ hơn; thứ ba, việc thành lập VAMC đã góp phần quan trọng việc xử lý nợ xấu được nhận diện vào tháng 9/2012, theo đó, xử lý nợ xấu qua VAMC chiếm khoảng 43%, còn lại do các TCTD tự xử lý bằng nhiều biện pháp khác nhau như đôn đốc khách hàng trả nợ, sử dụng dự phòng rủi ro, phát mại tài sản đảm bảo, chuyển nợ thành vốn góp.

Mặc dù kết quả xử lý nợ xấu giai đoạn này được cải thiện theo hướng rất tích cực, nhưng thực trạng nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn đáng quan ngại và cần phải có các giải pháp để xử lý triệt để trong giai đoạn tiếp theo. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các ngân hàng là 2,46% vào cuối năm 2016, nhưng nếu tính số nợ xấu các ngân hàng đã bán cho VAMC chưa thu hồi được (hiện đang theo dõi ngoại bảng), nợ đã được các ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Quyết định 780 và Thông tư 09/2014/TT-NHNN có khả năng chuyển thành nợ xấu thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam có thể cao hơn. Bên cạnh đó, việc xử lý nợ xấu giai đoạn này cũng phát sinh nhiều khó khăn, vướng mắc đã ảnh hưởng đến quá trình xử lý nợ xấu.

1.2. Kết quả xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và Đề án “Cơ cấu hệ lại thống TCTD gắn với xử lí nợ xấu giai đoạn 2016-2020” ban hành kèm theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg

Với chủ trương tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, giúp xử lý nhanh và dứt điểm nợ xấu của các TCTD trong giai đoạn 2016-2020, trên cơ sở tinh thần chỉ đạo tại các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ [1], NHNN đã xác định việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về cơ cấu lại các TCTD yếu kém là nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này. Theo đó, NHNN đã xây dựng, trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn liền với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” ban hành kèm theo Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 (Đề án 1058); đồng thời, ban hành Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 về việc thực hiện Nghị quyết số 42 thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD và Thông tư số 09/2017/TT-NHNN ngày 14/8/2017 về mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC để hướng dẫn Điều 6 Nghị quyết 42. Trên cơ sở đó, NHNN chủ động, tích cực triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp được giao, cụ thể: (1) Yêu cầu các TCTD rà soát, đánh giá toàn bộ danh mục tín dụng, thực trạng nợ xấu sửa đổi các quy định nội bộ liên quan quy trình, hướng dẫn công tác thu giữ tài sản được xác định theo các quy định tại Nghị quyết 42; thành lập Ban chỉ đạo, các tổ công tác xử lý nợ xấu và banh hành văn bản chỉ đạo các đơn vị phổ biến, hướng dẫn, tập huấn nội dung Nghị quyết cho cán bộ từ Hội sở đến các chi nhánh trong toàn hệ thống; phối hợp với VAMC, các đơn vị liên quan, chính quyền các cấp để tranh thủ sự chỉ đạo, hỗ trợ trong quá trình xử lý nợ xấu; truyền thông đến khách hàng đang có nợ xấu theo Nghị quyết số 42 hiểu rõ quyền lợi hợp pháp của TCTD cũng như trách nhiệm trả nợ của khách hàng; tích cực đôn đốc, yêu cầu khách hàng trả nợ, vận dụng linh hoạt các giải pháp hỗ trợ để xử lý tài sản đảm bảo có hiệu quả; đồng thời, NHNN tiếp tục yêu cầu các TCTD phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro theo quy định và tăng cường công tác quản lý rủi ro, nâng cao năng lực quản trị điều hành, kiểm soát nội bộ để phòng ngừa, kiểm soát nhằm hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh và định kỳ báo cáo NHNN tình hình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42; (2) NHNN cũng chỉ đạo NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố yêu cầu các chi nhánh TCTD và QTDND trên địa bàn chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật về cấp tín dụng, bảo đảm tiền vay, các quy định an toàn trong hoạt động; có văn bản cảnh báo nợ xấu đối với các QTDND có nợ xấu vượt mức cho phép; đồng thời thanh tra, giám sát công tác tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, xử lý thu hồi nợ, phát hiện và xử lý kịp thời các TCTD và cá nhân có hành vi vi phạm nhằm nâng cao chất lượng tín dụng; (3) đồng thời, giao VAMC hoàn thiện việc sửa đổi và ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ phù hợp với các quy định mới; ký thỏa thuận hợp tác, phối hợp với một số TCTD (6 TCTD: Agribank, BIDV, Vietinbank, ACB, Sacombank,Techcombank, không bao gồm hệ thống QTDND) thí điểm triển khai đẩy mạnh xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42; hoàn thiện phương án mua nợ xấu theo giá thị trường, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền và khách hàng vay để hoàn thiện thủ tục, hồ sơ pháp lý và đề nghị được áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao và xử lý TSBĐ; đánh giá thực trạng các khoản nợ, nợ xấu và tài sản đảm bảo cho các khoản nợ xấu đã mua để xác định khả năng thu hồi nợ, từ đó, có biện pháp xử lý phù hợp; tích cực tìm kiếm các đối tác mua nợ đối với các khoản nợ đã bán cho VAMC và được VAMC ủy quyền bán nợ.

Kết quả cho thấy, sau khi Nghị quyết 42 và Đề án 1058 được ban hành và có hiệu lực, tính đến cuối quý II/2018, nợ xấu của toàn hệ thống TCTD được xử lý tăng lên đáng kể và bước đầu đã đạt được những thành quả tích cực. Tính riêng trong 10 tháng thí điểm (từ giữa tháng 8/2017- tháng 6/2018), cả hệ thống TCTD đã xử lý được gần 140 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 thông qua sử dụng các hình thức xử lý nợ xấu đa dạng [2], nhưng chủ yếu là từ phía các TCTD tự xử lý, bình quân xử lý được khoảng gần 14 nghìn tỷ đồng/tháng, cao hơn khoảng 4 nghìn tỷ đồng/tháng so với giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực năm 2012-2017 (khoảng 10,1 nghìn tỷ đồng/tháng). Trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng là 70,23 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,78%% tổng nợ xấu đã xử lý), xử lý các khoản hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán xác định theo Nghị quyết 42 là 21,59 nghìn tỷ đồng (bằng 15,61%), xử lý các khoản nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 46,46 nghìn tỷ đồng (bằng 33,59%). Bên cạnh đó, đến thời điểm cuối tháng 6/2018, các TCTD đã sử dụng 61,04 nghìn tỷ đồng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu nội bảng.[3]

Tóm lại, trong thời gian qua, quá trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD đã có được những chuyển biến tích cực và thành công đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD. Tổng nợ xấu lũy kế từ năm 2012 – đến cuối quý I/2018 đã xử lý được khoảng 753 nghìn tỷ đồng nợ xấu, trong đó: TCTD tự xử lý (sử dụng dự phòng rủi ro; bán, phát mại tài sản đảm bảo và do khách hàng tự trả) khoảng 455 nghìn tỷ đồng, chiếm trên 60%; nợ bán cho VAMC chỉ có 282 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 40% (Bảng 1). Theo đó, đến cuối tháng 6/2018, tỷ lệ nợ xấu so với so với tổng nợ là 2,09%, giảm so với thời điểm cuối năm 2016 (2,46%); nếu tính cả nợ xấu ngoại bảng, các khoản nợ xấu đã cơ cấu và nợ xấu tiềm ẩn, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng ở mức 6,6 – 6,7%, thấp hơn đáng kể so với cuối năm 2016, nhưng vẫn còn ở mức cao. (Bảng 1)

2. Một số vấn đề cần quan tâm trong quá trình xử lý nợ xấu

Bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua, trong quá trình triển khai công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu, vẫn còn một số thách thức, khó khăn cần quan tâm giải quyết như sau:

a. Nguồn lực tài chính cho quá trình xử lý nợ xấu:

Thực tế quá trình xử lý nợ xấu cho thấy, nguồn lực tài chính chủ yếu là tự lực của các TCTD thông qua tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ xấu. Điều này cho thấy nỗ lực rất lớn của hệ thống ngân hàng thời gian qua đã tự xử lý được gần 60% số nợ xấu. Việc phát hành trái phiếu đặc biệt VAMC và cho phép TCTD có thể cầm cố để vay tái cấp vốn của NHNN chỉ là giải pháp hỗ trợ tạm thời, tạo thanh khoản cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC nhưng thực chất không có nguồn tiền thực sự chuyển cho các ngân hàng khi bán nợ xấu cho VAMC. Do đó, để xử lý nợ xấu thành công, cần có nguồn lực tài chính vững mạnh để thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Theo đó, cần có các phương án tài chính để mua trực tiếp và dứt điểm nợ xấu của các ngân hàng, chuyển số tiền mua nợ xấu cho các ngân hàng để ổn định kinh doanh, tăng cường hoạt động xử lý nợ xấu VAMC thông qua tái cấu trúc, bán cho các nhà đầu tư theo giá thị trường, xử lý tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản bảo đảm…

b. Yêu cầu tăng vốn cho các TCTD

Trong bối cảnh thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung và các vấn đề khác, qua đó, tiềm ẩn nhiều rủi ro, tác động xấu đến nền kinh tế – tài chính trong nước. Hoạt động của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện còn đang gặp khó khăn về tài chính, sự thành công của quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu, kể cả thoái vốn ngoài ngành của các DNNN và TCTD phụ thuộc rất lớn vào sự phục hồi của nền kinh tế, điều kiện thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trong bối cảnh NSNN còn bội chi, quan điểm của Chính phủ là không sử dụng tiền của NSNN để cơ cấu lại TCTD và xử lý nợ xấu, trong khi khả năng huy động các nguồn lực xã hội cho tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD còn hạn chế. Vì vậy, việc tăng vốn cho các TCTD, đặc biệt là các NHTM Nhà nước gặp nhiều khó khăn do theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định số 91/2015/NĐ-CP không cho phép các NHTM Nhà nước giữ lại lợi nhuận, sau khi trích lập các quỹ phải trả/phải nộp cho Nhà nước; đồng thời, tại Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 09/11/2016 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 cũng quy định rõ việc tăng vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước không sử dụng NSNN.

c. Hoạt động của các TCTD

Thời gian qua, trong hoạt động các ngân hàng đang gặp những khó khăn trong việc xử lý nợ xấu như: (i) Nợ xấu được xử lý bằng dự phòng rủi ro và trái phiếu đặc biệt là chủ yếu trong khi các biện pháp xử lý nợ xấu triệt để thông qua xử lý tài sản bảo đảm và khách hàng vay trả nợ còn ở mức thấp. Do đó, tính hiệu quả và triệt để trong xử lý nợ xấu còn hạn chế, nợ xấu vẫn còn tồn tại khi mà bên cho vay và bên đi vay chưa chấm dứt, tất toán được quyền và nghĩa vụ liên quan đến khoản nợ. Đẩy mạnh xử lý nợ xấu bằng dự phòng rủi ro và bán nợ cho VAMC nhận trái phiếu đặc biệt như trong thời gian qua làm ảnh hưởng đáng kể đến sự lành mạnh và an toàn hoạt động của TCTD, bởi toàn bộ rủi ro và chi phí xử lý nợ xấu do TCTD gánh chịu. Chi phí dự phòng rủi ro và trích lập dự phòng trái phiếu đặc biệt tiếp tục tăng trong các năm tới sẽ làm hạn chế kết quả kinh doanh và khả năng tăng vốn điều lệ của các TCTD nếu nợ xấu không được xử lý triệt để theo cơ chế thị trường; (ii) TCTD cũng gặp những khó khăn trong việc sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu do theo quy trình, TCTD phải áp dụng các biện pháp thu hồi nợ từ khách hàng trước, thậm chí, xét điều kiện của khách hàng áp dụng các biện pháp hỗ trợ (cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, cơ cấu khoản vay…) để nâng cao năng lực tài chính của khách hàng, tăng khả năng trả nợ của khách hàng, sau đó mới có thể sử dụng dự phòng rủi ro, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ để xử lý nợ xấu thuộc nhóm 5 hoặc khoản nợ của khách hàng bị giải thể, phá sản, mất tích, chết; (iii) Khả năng trả nợ của khách hàng vẫn còn hạn chế do sản xuất kinh doanh còn khó khăn; một số khách hàng chây ỳ, ý thức trả nợ kém, không hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý TSĐB để trả nợ; khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích; (iv) Đối với việc thu giữ TSBĐ vẫn đang gặp khó khăn do khách hàng không hợp tác trong việc bàn giao tài sản; các cơ quan chức năng (UBND, cơ quan công an,…) chưa phối hợp, tham gia hỗ trợ một cách tích cực để giải quyết khó khăn cho TCTD; khó khăn về mặt truyền thông trong quá trình thu giữ tài sản theo tinh thần Nghị quyết 42.

d. Hoạt động của VAMC

Để đẩy nhanh tiến trình xử lý nợ xấu, đặc biệt để xử lý nhanh nợ và tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua của VAMC, một trong những giải pháp quan trọng là cần nâng cao tiềm lực tài chính cho VAMC. Theo lộ trình, giai đoạn 2017-2018, vốn điều lệ của VAMC sẽ được tăng lên mức 5.000 tỷ đồng và đạt mức mức 10.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2019-2020, tuy nhiên, cho đến nay, VAMC vẫn chưa được cấp vốn như lộ trình đề ra, trong khi các cơ chế, chính sách, quy định pháp lý mang tính đặc thù, gây ảnh hưởng lớn đến mục tiêu, hạn chế hiệu quả hoạt động của VAMC với vai trò là công cụ đặc biệt của Nhà nước nhằm góp phần xử lý nhanh nợ xấu. Quy mô vốn thực tế hiện nay của VAMC là 2.000 tỷ đồng, trong khi doanh số mua nợ theo giá trị thị trường của VAMC đến 31/12/2017, đạt 3.141,07 tỷ đồng, do đó, rất khó để đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ theo giá thị trường.

e. Những khó khăn về pháp lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấuCác quy định pháp luật hiện hành vẫn còn những vướng mắc cho VAMC và các TCTD trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm và xử lý nợ xấu:

(i) Công tác hướng dẫn tố tụng, thi hành án còn chưa có được hướng dẫn cụ thể của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng các thủ tục tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại Tòa án;

(ii) Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP và Nghị định 163/2006/NĐ-CP, TCTD được quyền thu giữ TSBĐ khi xử lý nợ, nhưng hiện nay, theo Nghị quyết 42, để thực hiện quyền thu giữ TSBĐ, trong hợp đồng bảo đảm giữa TCTD và bên bảo đảm phải có nội dung thỏa thuận về việc được quyền thu giữ TSBĐ. Do vậy, nếu hợp đồng bảo đảm không có thỏa thuận cụ thể về quyền thu giữ hoặc có thỏa thuận nhưng nội dung không rõ ràng có thể gây bất lợi cho TCTD trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng để thực hiện quyền lợi của mình. Với cơ chế tiếp cận thông tin về tình trạng TSĐB, hiện nay, tòa án, cơ quan thi hành án dân sự không có hệ thống dữ liệu cho phép các TCTD trích xuất, tra cứu thông tin về tình trạng (có tranh chấp, hay đang áp dụng biện pháp khẩn cấp…) tài sản nên gây khó khăn khi áp dụng các biện pháp xử lý tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị quyết 42 về điều kiện để thu giữ TSBĐ;

(iii) Về mua bán khoản nợ xấu và phát triển thị trường mua bán nợ: trên thực tế, các TCTD chưa được hướng dẫn cách xác định giá bán thế nào là phù hợp với thị trường; phương pháp chuyển nợ thành vốn góp còn hạn chế và chưa phát huy được hiệu quả thực tế do giới hạn góp vốn mua cổ phần theo Điều 129 Luật Các TCTD, không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp; Việc mua bán nợ xấu chưa thật sự sôi động do chưa có thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp, bên cạnh đó, nhà đầu tư có nhu cầu mua bán khoản nợ còn e ngại hành lang pháp lý chưa đầy đủ, rõ ràng, quá trình xử lý nợ trên thực tế gặp nhiều khó khăn về thời gian và chi phí. Ngoài ra, đối với nợ xấu trong lĩnh vực cho vay bất động sản, hiện còn gặp khó khăn do việc xử lý TSBĐ tại TCTD hiện nay đang gặp một số khó khăn như khách hàng vay có nợ xấu tại TCTD, thế chấp tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai… nên TCTD không thể áp dụng biện pháp thu giữ tài sản bảo đảm.

3. Một số khuyến nghị

a. Đối với NHNN

– Tăng cường công tác thanh tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết 42, Đề án 1058, đồng thời, xử lý nghiêm theo thẩm quyền quy định đối với các vi phạm pháp luật của các TCTD trong quá trình triển khai thực hiện.

– Tăng cường công tác thanh tra, giám sát TCTD, VAMC trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về mua, bán nợ. Tiếp tục chỉ đạo, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các TCTD trong việc thực hiện Nghị quyết 42, Quyết định 1058, Chỉ thị số 06, Quyết định 1533 của NHNN, Kế hoạch, chỉ đạo của các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố và các văn bản khác có liên quan.

– Tiếp tục chỉ đạo các TCTD có nợ xấu cao chủ động xây dựng phương án, kế hoạch xử lý nợ xấu, có giải pháp ngăn chặn nợ xấu phát sinh; rà soát việc phân loại nợ, đảm bảo phản ánh đúng chất lượng khoản vay, trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định. Rà soát đánh giá các khách hàng khó khăn để đề xuất, quyết định miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định tại Luật Các TCTD, Thông tư 39 và quy định có liên quan.

– Tăng cường thanh tra, giám sát chặt chẽ việc chấp hành quy định về an toàn hoạt động và phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, hoạt động cấp tín dụng, chất lượng tín dụng, nợ xấu để phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời rủi ro gây tổn thất, mất an toàn và vi phạm pháp luật trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD; kiểm soát tốc độ và chất lượng tăng trưởng tín dụng hợp lý; phát hiện và xử lý kịp thời xu hướng đầu tư, cấp tín dụng vào các lĩnh vực, ngành nghề, đối tượng tiềm ẩn nhiều rủi ro.

– Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hệ thống giám sát, đánh giá chất lượng tín dụng của NHNN đối với các TCTD. Phát triển hệ thống thông tin tín dụng quốc gia và cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực kinh tế để hỗ trợ cho quá trình giám sát và cảnh báo rủi ro tín dụng, nợ xấu phát sinh.

– Sửa đổi, bổ sung các quy định, chính sách về hoạt động tín dụng theo hướng (i) đảm bảo phải có sự tham gia vốn hợp lý của chủ đầu tư trong các dự án đầu tư; (ii) nâng cao nguyên tắc, kỷ luật thị trường trong hoạt động tín dụng; (iii) công khai, minh bạch, tăng cường sự giám sát của thị trường, nhà đầu tư và người gửi tiền đối với hoạt động tín dụng; (iv) tăng cường hạn chế, kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với cổ đông lớn và người có liên quan; (v) phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động tín dụng; (vi) tăng cường trách nhiệm của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, ban kiểm soát và ban điều hành đối với hoạt động tín dụng.

– Điều hành linh hoạt, chặt chẽ, thận trọng chính sách tiền tệ và lượng tiền cung ứng phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, ổn định tỷ giá để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng và bảo đảm an toàn thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

– Ban hành và triển khai các nguyên tắc, chuẩn mực an toàn hoạt động tín dụng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.– Tiếp tục triển khai tái cơ cấu, kiên quyết xử lý dứt điểm và loại bỏ những TCTD yếu kém, tiềm ẩn rủi ro gây mất an toàn hệ thống. NHNN và VAMC cần có quyền chủ động can thiệp bắt buộc xử lý, mua, bán nợ và tài sản bảo đảm trong trường hợp cần thiết để bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại TCTD.

– Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về tổ chức, hoạt động và tài chính của VAMC; nghiên cứu, bổ sung vào văn bản Luật quy định những vấn đề đặc thù về tổ chức, hoạt động, tài chính và thẩm quyền của VAMC. Tiếp tục nghiên cứu trường hợp thực hiện giải pháp chuyển nợ thành vốn góp cho phép các TCTD góp vốn mua cổ phần của khách hàng thông qua việc mua lại một số tài sản vượt giới hạn góp vốn mua cổ phần theo quy định của NHNN hiện tại tối đa là 11%.

– Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền để tạo sự hiểu biết, thống nhất và ủng hộ của dư luận xã hội về vai trò, ý nghĩa, mục tiêu của chính sách, giải pháp xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD, tạo sự đồng thuận trong xã hội; triển khai đầy đủ, kịp thời các chỉ đạo của Chính phủ, NHNN về xử lý nợ xấu để các TCTD thực hiện có hiệu quả.

b. Đối với các TCTD

– Thực hiện tốt các quy định tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 10/01/2018 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2018; tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu.

– Nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật về cấp tín dụng, bảo đảm tiền vay, các quy định an toàn, thận trọng trong hoạt động tín dụng; thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định của pháp luật, bao gồm cả việc trích lập dự phòng rủi ro trái phiếu đặc biệt.

– Thường xuyên rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các quy định, chính sách quy trình, thủ tục quản lý, kiểm soát, giám sát cấp tín dụng theo hướng chặt chẽ, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro và vi phạm pháp luật trong hoạt động tín dụng; nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng; phát triển hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát hiện sớm và xử lý các hành vi vi phạm, tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động cấp tín dụng. Phát triển và quản lý có hiệu quả đội ngũ cán bộ ngân hàng, đặc biệt là nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định tín dụng và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.

– Bảo đảm tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và phù hợp với quy mô, cơ cấu nguồn vốn. Rà soát, điều chỉnh chiến lược, định hướng kinh doanh theo hướng an toàn, hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ cấp tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao và đầu tư dài hạn vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội.

– Tích cực, chủ động triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu như đôn đốc thu hồi nợ, bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm, khởi kiện khách hàng vay, sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, có biện pháp hỗ trợ phù hợp cho khách hàng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất kinh doanh, tiếp tục hỗ trợ vốn, miễn, giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ theo đúng quy định của pháp luật; đồng thời, cải cách mạnh mẽ thủ tục cấp tín dụng theo hướng thuận tiện cho khách hàng tiếp cận vốn, dịch vụ ngân hàng. Trường hợp tự xử lý được nợ xấu, có thể tăng cường nhận lại nợ đã bán cho VAMC để chủ động xử lý; đẩy mạnh hoạt động xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường, đặc biệt là với VAMC.

c. Đối với VAMC

– Cần bổ sung nguồn lực tài chính cho VAMC để khả năng xử lý các khoản nợ xấu, cụ thể như, có thể tăng vốn điều lệ của VAMC lên 20.000 tỷ đồng theo lộ trình đến năm 2020 để bổ sung nguồn vốn mua nợ xấu theo giá trị thị trường, bổ sung cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và nâng cao năng lực tài chính, uy tín thị trường nhằm triển khai việc mua bán nợ xấu theo giá trị thị trường có hiệu quả. Trường hợp cần vốn, cho phép VAMC phát hành trái phiếu có bảo lãnh của Chính phủ để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước (như trường hợp Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc – KAMKO).

– Tiếp tục nghiên cứu mở rộng phạm vi đối tượng mua nợ và các khoản đầu tư của VAMC để VAMC từng bước trở thành trung tâm tái tài trợ các khoản nợ, khoản đầu tư của TCTD, doanh nghiệp, hỗ trợ cho việc cơ cấu lại nợ.

– Cần có văn bản quy định rõ các trường hợp, điều kiện nào thì VAMC sẽ đứng danh nghĩa trực tiếp thu giữ TSBĐ hay ủy quyền cho TCTD thu giữ TSBĐ, sự phối hợp giữa VAMC và TCTD.

d. Phối hợp chặt chẽ các ngành, các cấp để tiếp tục tháo gỡ khó khăn trong quá trình xử lý nợ xấu

– NHNN chỉ đạo các TCTD đang triển khai xây dựng Phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu đến năm 2020, trong đó, các TCTD có vi phạm về sở hữu cổ phần thực hiện rà soát, đánh giá và xây dựng các giải pháp, kế hoạch, lộ trình cụ thể nhằm xử lý tình trạng sở hữu cổ phần vượt quy định; nghiêm túc thực hiện việc thoái vốn đối với các khoản đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần mà pháp luật không cho phép; thực hiện thoái vốn đầu tư trong các lĩnh vực không có hiệu quả và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đồng thời, theo dõi, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện để có chỉ đạo kịp thời.

– NHNN chỉ đạo các TCTD tiếp tục chủ động phối hợp với các cổ đông lớn, đặc biệt cổ đông là tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước để xây dựng lộ trình, phương án thoái vốn theo đúng chỉ đạo, định hướng của Chính phủ về sở hữu cổ phần tại các TCTD trong thời gian tới.

– Phối hợp với các Bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo các DNNN (bao gồm cả tập đoàn kinh tế, tổng công ty, DNNN) đẩy nhanh tiến độ thoái vốn góp, vốn cổ phần tại TCTD theo chỉ đạo của Chính phủ và các giải pháp, lộ trình đã đề ra.

– Chỉ đạo, hướng dẫn hệ thống các TCTD phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để triển khai thực hiện Nghị quyết 42 và Đề án 1058 trên địa bàn.

– Chỉ đạo TCTD chủ động phối hợp chặt chẽ đơn vị liên quan, cơ quan thi hành án để phát mãi tài sản thu hồi nợ xấu; chủ động báo cáo, đề xuất Hội sở chính trong việc bán nợ cho VAMC; phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, cơ quan chức năng có liên quan trong việc xử lý, thu hồi nợ vay của các TCTD trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

Chú thích:

[1] Nghị quyết số 23/2016/QH14 ngày 07/11/2016, Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08/11/2016 của Quốc hội và Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ.[2] Xử lý thông qua các biện pháp: khuyến khích khách hàng trả nợ; xử lý khoản nợ xấu đã bán cho VAMC được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt và các biện pháp khác như: bán, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ; bán khoản nợ theo giá trị thị trường cho DATC, VAMC và tổ chức khác hoặc các hình thức xử lý nợ xấu khác.[3] Số liệu NHNN công bố ngày 28/8/2018 tại Hội nghị sơ kết 1 năm triển khai Nghị quyết số 42/2017/QH14 và Quyết định số 1058/QĐ-TTg.

Tài liệu tham khảo:

1. International Monetary Fund, 2016, “Asean-5 cluster report – evolution of monetary policy framework”, IMF Country Report No. 16/176;2. International Monetary Fund, 2016, “Vietnam 2016 Article IV Consultation”, IMF Country Report No. 16/240;3. Charnes, Cooper and Rhodes, 1978, “Measuring the efficiency of decision making units”, European Journal of Operational Research”.3. Ngo Dang Thanh and Mai Thi Thanh Xuan, 2012, “Effects of macroeconomic policy on the efficiency of the Vietnamese banking system 1990-2010”.4. Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg; Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” ban hành kèm theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 1/3/20119/7/2017), Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.5. Dự thảo Đề án Tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2011-2020.6. Báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của NHNN, các NHTM.7. Các thông tư và văn bản pháp quy của NHNN có liên quan.8. Các báo cáo chuyên đề được công bố của NHNN.9. Đề tài “ Đánh giá quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2014”- Chủ nhiệm đề tài Tô Kim Ngọc.10. Webside và báo điện tử: http://www.sbv.gov.vn; http://vneconomy.vn; http://bizlive.vn… và một số website, tài liệu tham khảo khác…

(Số liệu về vốn điều lệ của VAMC trong bài viết được lấy tại thời điểm tháng 8 năm 2018. Hiện tại, vốn điều lệ của VAMC là 5.000 tỷ - Ban biên tập Website VAMC)

Từ khóa » Nhược điểm Của Việc Bán Nợ Cho Vamc