Tông Huấn Familiaris Consortio - Xuân Bích Việt Nam

TÔNG HUẤNFAMILIARIS CONSORTIO

của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi các Giám mục, Linh mục và các tín hữu trong khắp Hội Thánh Công Giáo về các nhiệm vụ của gia đình Ki-tô hữu trong thế giới ngày nay

(Bản dịch tiếng Việt của cha Agostino Nguyễn Văn Dụ)

 

NHẬP ĐỀ

GIÁO HỘI PHỤC VỤ CÁC GIA ĐÌNH

————————————————-

1. Vào thời đại chúng ta, gia đình cũng như các cơ cấu khác và có thể còn hơn các cơ cấu khác nữa, đã bị ảnh hưởng do những biến đổi rộng rãi sâu xa, ồ ạt của xã hội và văn hoá. Trong hoàn cảnh đó, nhiều gia đình đã sống trung thành với những giá trị nền tảng của định chế gia đình. Nhiều gia đình khác ngập ngừng và lạc hướng trước những trách vụ của họ, thậm chí còn rơi vào chỗ hoài nghi và gần như không biết gì về những điều liên quan đến ý nghĩa sâu xa và giá trị của đời sống hôn nhân và gia đình. Có những gia đình khác nữa bị cản trở không thực hiện được những quyền lợi căn bản của họ, do nhiều hoàn cảnh bất công khác.

Vì biết rằng hôn nhân và gia đình là một trong những điều thiện hảo quý giá nhất của nhân loại, Giáo Hội muốn ngỏ lời và đem lại sự nâng đỡ cho những người đã biết được giá trị của hôn nhân cũng như gia đình và đang cố gắng sống trung thành với giá trị đó, cho những người đang sống trong ngập ngừng âu lo và đang đi tìm chân lý, cho những người đang bị ngăn cản cách bất công, không được tự do sống những dự phóng của gia đình họ. Trong khi đem lại sự nâng đỡ cho nhóm thứ nhất, ánh sáng cho nhóm thứ hai và sự trợ giúp cho nhóm người thứ ba, Hội Thánh muốn đem thân phục vụ mọi người đang bận tâm lo lắng cho số phận của hôn nhân và gia đình[1].

Giáo Hội đặc biệt ngỏ lời với các bạn trẻ đang chuẩn bị dấn thân trên con đường hôn nhân và gia đình, ngõ hầu mở ra cho họ những chân trời mới bằng cách giúp họ khám phá ra vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi sống tình yêu phục vụ cho sự sống.

Thượng Hội Đồng Giám Mục 1980 tiếp nối các khoá trước

2. Thượng Hội Đồng Giám Mục (THĐGM) vừa qua tại Rô-ma, từ ngày 26.9 đến 25.10, là một dấu chỉ cho thấy mối quan tâm sâu xa của Hội Thánh đối với gia đình, và là một sự tiếp nối tự nhiên hai kỳ họp Thượng Hội Đồng Giám Mục trước đó[2]. Thực vậy, gia đình Ki-tô hữu là một cộng đoàn đầu tiên được mời gọi rao giảng Tin Mừng cho nhân vị đang phát triển, nhờ sự giáo dục và dạy giáo lý tiệm tiến để hướng dẫn nhân vị ấy đến mức trưởng thành đầy đủ trên phương diện nhân bản và Ki-tô. Cũng có thể nói rằng khoá họp THĐGM lần này xét về Chủ đề, được liên kết một cách nào đó với kỳ họp THĐGM bàn về chức Tư tế thừa tác và về công bằng trong thế giới hiện nay. Thực vậy, với tư cách là một cộng đoàn có trách nhiệm giáo dục, gia đình phải giúp con người nhận rõ được ơn gọi của mình và biết dấn thân, một sự dấn thân cần thiết để phục vụ cho một nền công bằng to lớn hơn, bằng cách ngay từ buổi đầu của đời sống con người, gia đình đào luyện cho con người biết sống những tương quan liên vị đầy công bằng và tình thương.

Khi kết thúc cuộc họp, các nghị phụ THĐGM đã trình lên cho tôi một loạt những đề nghị đúc kết từ những suy tư chín mùi trong những ngày làm việc hăng say. Các nghị phụ đã đồng thanh yêu cầu tôi đứng ra diễn giải cho nhân loại biết mối ưu tư sống động của Hội Thánh đối với gia đình và nêu lên những định hướng thích hợp để canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và của sinh hoạt Hội Thánh.

Tôi thi hành trách vụ ấy bằng cách công bố Tông huấn này, như một phương thức đặc biệt để chu toàn tác vụ tông đồ đã được trao phó cho tôi. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những ai đã góp phần vào kỳ họp THĐGM vừa qua, vì sự đóng góp quý giá về giáo lý và kinh nghiệm mà họ đã mang đến cho tôi, nhất là qua những bản đề nghị. Tôi đã trao bản văn về những đề nghị ấy cho Ủy Ban Giáo Hoàng về gia đình, và yêu cầu Ủy Ban nghiên cứu tường tận để lượng giá từng khía cạnh của những điều phong phú tích chứa trong đó.

Hôn nhân và gia đình là một điều thiện hảo quý giá

3. Nhờ đức tin soi sáng, một lần nữa Hội Thánh biết được tất cả sự thật về điều thiện hảo quý giá là hôn nhân và gia đình, và về ý nghĩa sâu xa nhất của các thực tại ấy. Hội Thánh còn thấy được tính cách khẩn thiết phải rao giảng Phúc âm, tức là Tin Mừng, cho tất cả mọi người, nhưng cách riêng là cho những ai được mời gọi sống đời hôn nhân và đang chuẩn bị bước vào đời sống đó, cho mọi đôi vợ chồng và cho tất cả những bậc cha mẹ trên thế giới.

Hội Thánh xác tín sâu xa rằng, chỉ khi nào biết tiếp nhận Tin Mừng, người ta mới có thể chắc chắn thực hiện được trọn vẹn tất cả những gì mà con người đang hy vọng cách chính đáng nơi hôn nhân và gia đình.

Được Thiên Chúa thiết định ngay từ hồi sáng thế[3], hôn nhân và gia đình tự bản chất đã nhất thiết phải được hoàn tất trong Chúa Ki-tô[4] và cần có ân sủng của Ngài để được chữa lành khỏi vết thương tội lỗi[5] và được đưa về “tình trạng nguyên thuỷ”[6], nghĩa là nhận biết trọn vẹn và thực hiện đầy đủ ý định của Thiên Chúa. Trong một giai đoạn lịch sử mà gia đình đang bị nhiều sức ép tìm cách huỷ diệt hay ít ra là muốn làm méo mó nó, Hội Thánh – vì biết rằng lợi ích của xã hội và lợi ích riêng của mình đều được liên kết mật thiết với lợi ích của gia đình[7] – nên đã ý thức một cách mạnh mẽ và bức thiết rằng, mình có sứ mạng công bố cho mọi người biết ý định Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, bằng cách bảo đảm cho hôn nhân và gia đình có được sức sống tràn đầy cũng như sự thăng tiến về phương diện nhân bản cũng như Ki-tô giáo, và như thế là góp phần vào việc canh tân xã hội và canh tân Dân Thiên Chúa.

PHẦN THỨ NHẤT

ÁNH SÁNG VÀ BÓNG TỐINƠI GIA ĐÌNH NGÀY NAY

————————————————————-

Cần phải nhận biết hiện tình

4. Vì ý định Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, liên hệ đến người nam và người nữ trong đời sống cụ thể hằng ngày trong một hoàn cảnh xã hội và văn hoá nào đó, nên để chu toàn công việc phục vụ của mình, Hội Thánh phải tìm cách nhận biết những hoàn cảnh trong đó hôn nhân và gia đình ngày hôm nay đang sống[8].

Trong công việc rao giảng Tin Mừng, việc nhận biết ấy là một đòi hỏi không thể coi thường. Thật vậy, đối tượng mà Hội Thánh đang phải giới thiệu Tin Mừng bất biến và luôn mới mẻ của Đức Giê-su Ki-tô chính là các gia đình của thời đại chúng ta: những kẻ đang được mời gọi đón nhận và sống điều Thiên Chúa đã vạch ra cho các gia đình trong những điều kiện hiện nay của thế giới. Hơn nữa, những đòi hỏi, những lời mời gọi của Thánh Thần cũng đang vang lên qua những biến chuyển lịch sử, và vì thế có thể làm cho Hội Thánh hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm sâu thẳm của hôn nhân và gia đình, bắt đầu từ những hoàn cảnh, vấn đề, âu lo và hy vọng của các thanh niên, các đôi vợ chồng và các bậc cha mẹ ngày nay[9].

Thêm vào đó, còn phải nêu lên một suy tư đặc biệt quan trọng trong thời đại hiện nay. Trong khi những người nam và những người nữ ngày nay đang thành tâm và nghiêm chỉnh tìm kiếm một giải đáp cho những vấn đề hằng ngày và hệ trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình của họ, lắm lúc, họ đã được cung cấp những cái nhìn và những đề nghị dưới dáng vẻ hấp dẫn nhưng không nhiều thì ít sẽ nguy hại cho chân lý và phẩm giá con người. Sự cung cấp đó thường được nâng đỡ bởi các phương tiện truyền thông xã hội đầy quyền lực và phổ biến khắp nơi, những phương tiện đang có thể, một cách rất tinh vi, làm cho con người bị mất tự do và khả năng phán đoán khách quan.

Nhiều người đã ý thức được mối nguy đe dọa đến nhân phẩm nêu trên, nên quyết tâm hành động cho sự thật. Nhận định theo Tin Mừng, Hội Thánh liên kết cùng những người ấy, tích cực góp phần phục vụ sự thật, tự do và nhân phẩm của mọi người nam nữ.

Nhận định theo Tin Mừng

5. Nhờ nhận định rõ ràng, Hội Thánh đề nghị một đường hướng cho phép cứu vãn và thực hiện tất cả sự thật và trọn vẹn về phẩm giá của hôn nhân và gia đình.

Nhận định này có được là nhờ cảm thức đức tin[10], ơn mà Thánh Thần ban cho tất cả mọi tín hữu[11]. Do đó, đây là một công việc của cả Hội Thánh, theo những ơn ban và đoàn sủng khác nhau, tùy trách nhiệm riêng biệt của mọi người, là những ơn đang cùng chung sức tác động để giúp Hội Thánh hiểu biết sâu xa hơn về Lời Chúa mà đem ra thực hành. Như thế, Hội Thánh thực hiện việc nhận định theo Tin Mừng không phải chỉ do các chủ chăn, những vị giảng dạy nhân danh Chúa Ki-tô và với quyền bính của Người, nhưng còn do giáo dân mà Chúa Ki- tô đã đặt làm “những chứng nhân, khi Ngài ban cho họ cảm thức đức tin và ơn sử dụng ngôn ngữ (×. Cv 2,17-18; Kn 19,10) để sức mạnh Tin Mừng được sáng ngời trong đời sống thường ngày, trong gia đình và ngoài xã hội”[12]. Hơn nữa, do ơn gọi riêng của mình, giáo dân có một nhiệm vụ đặc biệt là diễn giải lịch sử thế giới này theo ánh sáng Đức Ki-tô, vì họ được mời gọi phải soi sáng và xếp đặt các thực tại trần thế theo ý định của Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Chuộc.

“Cảm thức siêu nhiên về Đức Tin”[13] không phải chỉ hệ tại cũng không nhất thiết phải hệ tại vào sự đồng ý chung của các tín hữu. Theo chân Đức Ki-tô, Hội Thánh đi tìm chân lý, mà chân lý không phải bao giờ cũng trùng hợp với quan niệm của số đông. Hội Thánh nghe theo lương tâm chứ không nghe theo quyền lực và bằng cách đó, Hội Thánh bảo vệ những người nghèo và những người bị khinh dễ. Hội Thánh có thể dựa vào việc nghiên cứu xã hội và thống kê khi việc ấy tỏ ra hữu ích để hiểu được bối cảnh lịch sử, trong đó Hội Thánh phải thi hành việc mục vụ, và để biết rõ sự thật hơn; nhưng đừng nghĩ rằng việc nghiên cứu ấy đã là sự diễn tả cảm thức Đức tin.

Vai trò thừa tác vụ tông đồ là bảo đảm cho Hội Thánh được kiên trì trong sự thật của Đức Ki-tô và làm cho Hội Thánh tiến sâu hơn nữa vào sự thật ấy. Do đó các chủ chăn phải làm phát triển cảm thức đức tin nơi mọi tín hữu, khảo sát và phê phán một cách có thẩm quyền về tính trung thực của những cách diễn tả cảm thức ấy, và huấn luyện các tín hữu biết theo Tin Mừng để nhận định mỗi lúc một chín chắn hơn[14].

Để luyện được một nhận định đích thực theo Tin Mừng giữa những hoàn cảnh và những nền văn hoá khác biệt trong đó người nam và người nữ đang sống đời hôn nhân và gia đình, các đôi bạn và các bậc cha mẹ Ki-tô hữu có thể và phải đóng góp phần riêng không thể thay thế được của mình. Về điểm này họ có khả năng, nhờ đoàn sủng riêng của Bí Tích Hôn Phối[15].

Hoàn cảnh của gia đình trong thế giới ngày nay

6. Hoàn cảnh trong đó các gia đình đang sống hiện có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực: một số khía cạnh là dấu cho thấy ơn cứu độ của Đức Ki-tô đang tác động trong thế gian, một số khía cạnh khác là dấu cho thấy sự chối từ của con người đang chống lại tình thương của Thiên Chúa.

Một đàng, người ta thấy có một ý thức sống động hơn về tự do cá nhân và một sự chú ý nhiều hơn đến phẩm chất của các tương quan liên vị trong hôn nhân, đến sự nâng cao phẩm giá phụ nữ, đến sự sinh sản có trách nhiệm, đến việc giáo dục trẻ em; thêm vào đó là ý thức về nhu cầu phải phát triển những liên hệ giữa các gia đình để giúp đỡ lẫn nhau về mặt tinh thần và vật chất, cũng như khám phá lại sứ mạng Hội Thánh riêng biệt của gia đình và trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng một xã hội công bình hơn. Nhưng đàng khác, cũng không thiếu những dấu hiệu cho thấy một sự thoái hoá đáng lo ngại về một số giá trị căn bản: một quan niệm sai lầm trên lý thuyết và thực hành về sự độc lập giữa hai vợ chồng, những mập mờ rất trầm trọng về tương quan uy quyền của cha mẹ đối với con cái, những khó khăn cụ thể trong việc lưu truyền các giá trị như nhiều gia đình đã cảm nghiệm, con số các vụ ly dị gia tăng, vết thương về sự phá thai, việc dùng các phương pháp tuyệt sản ngày càng nhiều, việc hình thành một não trạng đích thị là não trạng chống thụ thai.

Căn nguyên của những hiện tượng tiêu cực ấy thường là sự suy đồi trong quan niệm và trong kinh nghiệm về tự do, người ta không còn coi tự do như khả năng thực hiện sự thật Thiên Chúa vạch ra cho hôn nhân và gia đình, nhưng coi nó như một năng lực tự lập để tự xác định chính mình, thường là chống lại người khác, và để lo cho sự thoải mái ích kỷ của mình.

Một sự kiện khác cũng đáng cho chúng ta chú ý: trong các nước thuộc thế giới thứ ba, các gia đình thường thiếu thốn từ những phương tiện căn bản để sống còn, như thực phẩm, việc làm, nhà cửa, thuốc men, cho đến cả những tự do sơ đẳng nhất. Tại các nước giàu có hơn thì ngược lại, người ta quá thoải mái và nặng óc hưởng thụ, nhưng trớ trêu thay sự thoải mái và óc hưởng thụ ấy lại gắn liền với một thứ âu lo nào đó, cảm thấy bấp bênh trước tương lai, nên các đôi bạn mất sự quảng đại và can đảm để làm phát sinh thêm những sự sống mới: người ta không còn coi sự sống như là một lời chúc phúc, nhưng lại coi như một sự nguy hiểm phải tránh né.

Như thế, tình cảnh cụ thể trong đó gia đình đang sống quả là một sự pha trộn giữa bóng tối và ánh sáng.

Sự pha trộn ấy cho thấy lịch sử không đơn thuần là một sự tiến bộ nhất thiết tiến về cái hay hơn, tốt hơn, nhưng là một diễn biến của tự do, và hơn thế nữa còn là một cuộc chiến giữa những mối tự do đối nghịch nhau, nghĩa là, nói theo thánh Augustinô, một cuộc xung đột giữa hai tình yêu: một bên là lòng yêu mến Thiên Chúa đến độ coi rẻ chính mình và một bên là lòng yêu mình đến độ coi rẻ Thiên Chúa[16].

Như thế, chỉ có việc giáo dục tình yêu ăn rễ trong đức tin mới có thể đưa người ta đến chỗ có khả năng đọc được những dấu chỉ thời đại nơi việc diễn tả cụ thể của tình yêu hai mặt ấy.

Hoàn cảnh ấy ảnh hưởng gì trên lương tâm các tín hữu?

7. Sống trong một thế giới như thế và nhất là dưới ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng, không phải lúc nào tín hữu cũng đã hoặc sẽ tránh được việc bị lây nhiễm tình trạng các giá trị căn bản bị lu mờ, không phải lúc nào họ cũng biết đứng ra đóng vai ý thức phê phán đối với thứ văn hoá về gia đình vừa nói trên, và đóng vai những người tích cực xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình.

Giữa những dấu chỉ đáng quan tâm nhất của hiện tượng ấy, các nghị phụ Thượng Hội Đồng đã đặc biệt nhấn mạnh về sự lan tràn nạn ly dị và ngay cả các tín hữu cũng đòi được tái hôn sau khi ly thân; về quan niệm chỉ chấp nhận cử hành hôn phối theo phần đời, ngược hẳn ơn gọi của những người đã được rửa tội là “lấy nhau trong Chúa”; về việc cử hành bí tích Hôn Phối mà không có đức tin sống động, nhưng chỉ vì những lý do khác; về sự phủ nhận những nguyên tắc luân lý đang soi sáng và nâng đỡ việc thực hành tính dục trong hôn nhân cách nhân bản và Ki-tô giáo.

Thời đại chúng ta cần sự khôn ngoan

8. Tất cả Hội Thánh có bổn phận phải suy tư và dấn thân sâu xa để nền văn hoá mới đang ló dạng được thấm nhuần Tin Mừng cách thâm sâu, để các giá trị chân thật được nhìn nhận, để các quyền của người nam người nữ được bảo vệ và để công lý được thăng tiến ngay trong các cơ cấu của xã hội. Như thế, “nền nhân bản mới” sẽ không làm cho con người quay lưng lại với những tương quan giữa họ với Thiên Chúa, nhưng sẽ đưa họ tới một tương quan trọn vẹn hơn.

Trong việc kiến tạo một nền nhân bản như thế, khoa học và các áp dụng kỹ thuật của nó cống hiến những khả năng mới mẻ và rộng lớn. Thế nhưng, một khi các lập trường chính trị giành quyền định đoạt hướng đi của việc nghiên cứu và các áp dụng của nó, khoa học thường bị sử dụng ngược với ý nghĩa nguyên thuỷ nhằm thăng tiến nhân vị.

Do đó cần phải làm sao cho mọi người ý thức được sự ưu tiên của các giá trị luân lý: đó là những giá trị nhân vị với tư cách là nhân vị. Việc hiểu được ý nghĩa cuối cùng của sự sống và của những giá trị căn bản của sự sống là một thách đố lớn lao đang đặt ra cho việc canh tân xã hội ngày nay. Chỉ khi nào cảm nhận được sự ưu tiên của các giá trị ấy, người ta mới có thể tận dụng những khả năng bao la mà khoa học đang đặt vào tay con người như phương thế để thật sự thăng tiến nhân vị trong sự thật toàn diện của nó. Khoa học được mời gọi kết hợp với sự khôn ngoan.

Cũng có thể áp dụng cho các vấn đề về gia đình những lời của Công Đồng Va-ti-ca-nô II: “Hơn bất cứ thời đại nào, thời đại chúng ta cần có một sự khôn ngoan thế nào để tất cả những khám phá mới của con người, dù là khám phá nào cũng đều được mang tính chất nhân bản hơn. Tương lai thế giới sẽ lâm nguy nếu tương lai ấy không biết kiếm cho mình những nhà hiền triết”[17].

Như thế, việc giáo dục lương tâm làm cho mỗi người có khả năng phán đoán và nhận ra được những phương tiện thích hợp để mình tự thực hiện theo đúng sự thật nguyên thuỷ của mình, việc giáo dục lương tâm ấy trở nên một đòi hỏi hàng đầu không thể chối cãi.

Liên kết với sự khôn ngoan của Thiên Chúa là một điều phải được mạnh mẽ tái xác định trong nền văn hoá hiện nay. Mỗi người nhờ hành vi sáng tạo của chính Thiên Chúa, được dự phần vào sự khôn ngoan ấy. Và chỉ khi nào trung thành với mối liên hệ ấy, các gia đình ngày nay mới có thể tạo được một ảnh hưởng tích cực trong việc kiến tạo một thế giới công bình huynh đệ hơn.

Tiệm tiến và hoán cải

9. Trước sự bất chính do tội lỗi gây ra – tội lỗi đang ăn sâu vào trong các cơ cấu thế giới ngày nay – thường ngăn cản gia đình không thể thực sự tự thể hiện chính mình và không thể sử dụng các quyền căn bản của mình, tất cả chúng ta phải chống lại bằng một sự hoán cải trong tinh thần và con tim, bao gồm việc từ bỏ ích kỷ riêng mình để bước theo Chúa Ki-tô thập giá: một sự hoán cải như thế không thể nào không gây một ảnh hưởng hữu ích và có sức canh tân trên chính các cơ cấu xã hội.

Cần phải có một sự hoán cải liên lỉ trường kỳ. Vừa đòi hỏi phải thoát ly từ bên trong khỏi mọi sự dữ và gắn bó với sự lành toàn diện, sự hoán cải ấy vừa diễn ra một cách cụ thể như một chương trình luôn đưa người ta đi xa hơn. Như thế có một tiến trình năng động được phát triển, từ từ tiến tới trước, nhờ biết dần dần đem các ơn Thiên Chúa và những đòi hỏi của tình yêu quyết liệt và tuyệt đối của Ngài hội nhập vào trong đời sống bản thân và xã hội của con người. Do đó việc tăng trưởng cần phải đi qua một tiến trình sư phạm để các tín hữu, các gia đình và các dân tộc và ngay cả nền văn minh có thể từ những gì họ đã nhận được nơi mầu nhiệm Đức Ki-tô, được kiên trì dẫn dắt đi xa hơn, đến chỗ có được một ý thức phong phú hơn và đón nhận mầu nhiệm ấy trọn vẹn hơn trong đời sống của họ.

Hội nhập văn hoá

10. Truyền thống xưa nay của Hội Thánh vẫn quen đón nhận từ nền văn hoá các dân tộc những gì thích hợp để diễn tả những phong phú vô tận của Đức Ki-tô cách tốt hơn[18]. Và chỉ với sự góp sức của mọi nền văn hoá, những phong phú ấy mới có thể càng lúc càng bộc lộ rõ hơn và Hội Thánh mới có thể tiến tới sự hiểu biết ngày càng trọn vẹn và sâu sắc hơn về chân lý mà Chúa đã ban trọn cho Hội Thánh. Nắm vững được nguyên tắc kép, vừa tìm kiếm nơi các nền văn hoá khác nhau những điều tương hợp với Tin Mừng vừa hiệp thông với Hội Thánh phổ quát, người ta còn phải theo đuổi việc nghiên cứu – cách riêng đó là trách nhiệm của các Hội Đồng Giám Mục và của các cấp có thẩm quyền của giáo triều Rô-ma – và phương hướng mục vụ, làm thế nào để việc “hội nhập văn hoá” trong đức tin Ki-tô giáo được thực hiện một cách càng lúc càng rộng lớn, ngay cả trong lãnh vực hôn nhân và gia đình.

Nhờ việc “hội nhập văn hoá” ấy, người ta tiến tới chỗ phục hồi trọn vẹn mối liên kết của mình đối với sự khôn ngoan của Thiên Chúa, là chính Đức Ki-tô. Hội Thánh cũng được thêm phong phú và sinh động nhờ tất cả những nền văn hoá dù chưa được kỹ thuật hoá, nhưng giàu sự khôn ngoan nhân loại và những giá trị luân lý cao cả.

Để cho mục đích của cuộc hành trình này được sáng tỏ và để nhờ đó, mà vạch được đường đi cách chắc chắn, THĐGM trước hết và thật chính đáng, xem xét đến nơi đến chốn dự án nguyên thuỷ của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình. Thượng Hội đồng Giám Mục muốn “trở lại từ đầu” để tôn trọng giáo huấn của Đức Ki-tô[19].

PHẦN THỨ HAI

Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚAVỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

—————————————————————————–

Con người, hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu

11. Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài[20], giống như họa ảnh của Ngài. Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu.

Thiên Chúa là Tình yêu[21] và nơi chính mình Ngài, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như cả khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông[22]. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người.

Bởi con người là một tinh thần nhập thể, nghĩa là một linh hồn biểu lộ trong một thân xác và một thân xác được sinh động do một tinh thần bất tử, nên nó được mời gọi sống yêu thương trong toàn thể duy nhất tính của nó. Tình yêu cũng bao gồm cả thân xác con người và thân xác được dự phần vào tình yêu của tinh thần.

Mặc khải Ki-tô giáo nhìn nhận có hai cách thế chuyên biệt để thực hiện ơn gọi sống yêu thương của nhân vị trong sự trọn vẹn của nó: đó là hôn nhân và trinh khiết. Cả hai cách thế trong hình thức riêng biệt của mình, đều là sự cụ thể hoá sự thật sâu xa về con người, “hữu thể theo hình ảnh của Thiên Chúa”.

Bởi thế, tính dục mà nhờ đó người nam và người nữ hiến mình cho nhau bằng những hành vi riêng biệt và chỉ dành riêng cho đôi bạn, tính dục ấy không phải là một điều thuần tuý sinh lý, nhưng có liên hệ đến nhân vị trong mức thâm sâu nhất mà nhân vị ấy có được. Tính dục ấy chỉ được thực hiện một cách nhân bản đích thực, nếu nó là một thành phần làm nên tình yêu, trong đó người nam và người nữ hiến thân trọn vẹn cho nhau cho đến chết. Sự trao hiến hoàn toàn theo thể xác sẽ giả dối nếu nó không phải là dấu chỉ và kết quả của sự trao hiến cả ngôi vị, trong đó toàn thể ngôi vị đều hiện diện, cả trong chiều kích trần tục của nó. Nếu người ta dành lại bất cứ điều gì, hoặc dành cho mình quyền có thể quyết định khác đi sau này, thì như thế không còn là một sự trao hiến hoàn toàn nữa.

Sự đòi buộc toàn diện như thế trong tình yêu đôi bạn, cũng phù hợp với những đòi hỏi của việc sinh sản có trách nhiệm: việc này vì có mục đích sinh ra một hữu thể nhân linh nên nó vượt lên trên bình diện thuần sinh lý và bao gồm toàn thể những giá trị nhân vị; và để cho toàn thể những giá trị này được phát triển điều hoà, cả người cha và người mẹ phải cùng đóng góp phần mình một cách thường xuyên và đồng thuận với nhau.

“Nơi” duy nhất làm cho sự trao hiến ấy có thể thực hiện được với trọn cả sự thật của nó chính là hôn nhân, nghĩa là khế ước tình yêu hôn phối, hay nói cách khác, là sự chọn lựa có ý thức và tự do nhờ đó mà người nam và người nữ chấp nhận sống chung và chia sẻ tình yêu như chính Thiên Chúa đã muốn[23], và cũng chỉ dưới ánh sáng này, sự chọn lựa kia mới bày tỏ tất cả ý nghĩa đích thực của nó. Định chế hôn nhân không phải là một sự can thiệp ngang ngược của xã hội và quyền bính, cũng không phải là sự áp đặt một hình thức từ bên ngoài, định chế ấy là một đòi hỏi tự bên trong khế ước tình yêu hôn phối, được xác định công khai như khế ước duy nhất và tuyệt đối để nhờ đó đôi bạn có thể sống trung thành trọn vẹn với ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá. Sự trung thành này, thay vì giảm thiểu tự do của nhân vị, lại giúp cho tự do ấy khỏi rơi vào những thái độ chủ quan và những chủ trương tương đối và làm cho nó được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa Sáng Tạo.

Hôn nhân và sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người

12. Sự hiệp thông yêu thương giữa Thiên Chúa và loài người, tức nội dung căn bản của mặc khải và của kinh nghiệm sống đức tin nơi dân Ít-ra-en, được diễn tả cách đầy ý nghĩa trong giao ước ngày cưới giữa người nam và người nữ.

Chính vì thế mà những từ ngữ chính yếu trong mặc khải như “Thiên Chúa yêu thương dân Ngài”, đều được phát biểu dựa theo những từ ngữ sống động và cụ thể mà người nam và người nữ dùng để diễn tả tình yêu vợ chồng của họ. Dây liên kết tình yêu của họ trở thành hình ảnh và biểu tượng cho giao ước nối kết dân Chúa với dân Ngài[24]. Cả đến tội lỗi, có thể làm tổn thương khế ước hôn nhân cũng trở thành hình ảnh cho sự bất trung của dân đối với Thiên Chúa. Việc thờ ngẫu tượng là một sự mãi dâm[25], bất trung là ngoại tình, và không vâng nghe luật Chúa là một sự chối bỏ tình yêu hôn ước của Chúa. Nhưng sự bất trung của Ít-ra-en không huỷ diệt lòng trung tín đời đời của Chúa và bởi thế, tình yêu trung thành mãi mãi của Thiên Chúa được giới thiệu như kiểu mẫu cho những tương quan tình yêu trung tín phải có giữa vợ chồng[26].

Đức Giê-su Ki-tô hôn phu của Hội Thánh và bí tích hôn nhân

13. Sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được hoàn tất vĩnh viễn nơi Đức Giê-su Ki-tô, vị Hôn Phu yêu thương và hiến mình làm Đấng cứu độ nhân loại bằng cách kết hiệp nhân loại với Người như chính thân mình Người.

Người mặc khải sự thật nguyên thuỷ của hôn nhân, sự thật của “thuở ban đầu”[27] và khi giải phóng con người khỏi tâm hồn chai đá, Người làm cho con người có khả năng thực hiện sự thật này một cách trọn vẹn.

Mặc khải này đạt đến sự viên mãn dứt khoát của nó trong việc trao ban tình yêu mà Ngôi Lời Thiên Chúa ban cho loài người khi Người mặc lấy bản tính nhân loại và trong việc hy sinh mà Đức Giê-su Ki-tô đã hiến mình trên thập giá cho hiền thê của Người là Hội Thánh. Sự hy sinh ấy biểu lộ trọn vẹn ý định mà Thiên Chúa đã ghi khắc vào trong nhân tính của người nam và người nữ từ khi tạo dựng nên họ[28]. Như thế hôn nhân của những người đã chịu phép rửa tội trở nên biểu tượng thật của giao ước mới và vĩnh cửu được ký kết trong máu Đức Ki-tô. Thánh Thần mà Chúa đã đổ tràn xuống, ban cho họ một trái tim mới và làm cho cả người nam và người nữ có khả năng yêu thương nhau như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta. Tình yêu vợ chồng đạt tới sự sung mãn là tình bác ái vợ chồng mà do bản chất, là phương thế độc đáo và riêng biệt giúp các đôi vợ chồng tham dự vào tình bác ái của Đức Ki-tô, Đấng trao ban chính mình trên thập giá, và cũng nhờ đó họ được mời gọi sống tình bác ái của Người.

Trong một trang sách, rất nổi tiếng, Tertulianô đã diễn tả tuyệt vời nét cao cả và vẻ đẹp của đời sống vợ chồng trong Đức Ki-tô: “Tôi sẽ múc đâu ra sức mạnh để nói cho thoả về niềm hạnh phúc của cuộc hôn nhân được Hội Thánh nối kết, được Thánh lễ thừa nhận, được lời chúc lành niêm ấn; được các Thiên thần công bố và được Cha trên trời chuẩn y … Có đôi bạn nào đẹp bằng đôi bạn Ki-tô hữu, được kết hợp do cùng một niềm hy vọng, cùng một ước nguyện, cùng một nề nếp, cùng một công việc phục vụ. Cả hai cùng là con một Cha, cùng phục vụ một Chúa; không gì phân rẽ họ nổi, trong tinh thần cũng như trong xác thịt; ngược lại, họ là hai trong cùng một thể xác. Ở đâu có cùng một thể xác, ở đó cũng có cùng một tinh thần”[29].

Trung thành đón nhận và suy niệm Lời Chúa, Hội Thánh đã long trọng giảng dạy và vẫn còn dạy rằng hôn nhân giữa những người đã chịu phép rửa là một trong bảy Bí Tích của Tân Ước[30].

Quả vậy, do phép rửa, người nam và người nữ mãi mãi được gia nhập vào giao ước mới và vĩnh cửu, giao ước hôn nhân của Đức Ki-tô với Hội Thánh. Chính vì sự gia nhập bất khả thu hồi ấy mà cộng đoàn thân mật của sự sống và tình yêu vợ chồng do Tạo Hoá[31] lập nên, đã được nâng cao và đem vào trong tình bác ái hôn ước của Đức Ki-tô, được sức mạnh cứu rỗi của Ngài nâng đỡ và làm cho phong phú.

Nhờ tính cách bí tích của hôn nhân, đôi bạn được liên kết với nhau một cách chặt chẽ không thể tháo gỡ được. Khi người này thuộc về người kia, họ thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Ki-tô với Hội Thánh Ngài, qua dấu chỉ bí tích.

Như vậy đôi bạn là lời nhắc nhở thường xuyên cho Hội Thánh về điều đã xảy ra trên thập giá. Họ là nhân chứng cho nhau và cho con cái về ơn cứu độ mà bí tích đã làm cho họ được dự phần. Hôn nhân cũng như mọi bí tích khác, là một sự nhớ lại, một sự hiện tại hoá và một lời tiên tri về biến cố cứu độ. “Là một sự nhớ lại, bí tích ban cho họ ân sủng và trao cho họ bổn phận phải làm nhớ lại những kỳ công của Thiên Chúa và làm chứng về những kỳ công ấy trước mặt con cái họ; là một sự hiện tại hoá, bí tích ban cho họ ân sủng lẫn bổn phận phải thực hành trong hiện tại giữa họ với nhau và giữa họ với con cái, những đòi hỏi của một tình yêu tha thứ và cứu chuộc; là môït lời tiên tri, bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận sống và làm chứng về mối hy vọng sẽ được gặp gỡ Đức Ki-tô sau này”[32].

Như từng bí tích trong bảy bí tích, hôn nhân cũng là một biểu tượng thật của biến cố cứu độ, nhưng theo cách thế riêng. “Đôi bạn dự phần vào đó với tư cách là đôi bạn, là hai vợ chồng, đến nỗi hậu quả đầu tiên và tức khắc của bí tích hôn nhân không phải là ân sủng siêu nhiên nhưng là mối dây liên kết hôn nhân Ki-tô giáo, là việc hai người thông hiệp với nhau theo cách thức đặc biệt Ki-tô giáo, bởi vì sự thông hiệp ấy diễn tả mầu nhiệm nhập thể của Đức Ki-tô và mầu nhiệm giao ước của Ngài. Và nội dung của việc tham dự vào sự sống Đức Ki-tô cũng rất đặc biệt: “Tình yêu vợ chồng bao gồm một toàn thể tính trong đó có đủ mọi yếu tố cấu tạo nên ngôi vị: tiếng gọi của thân xác và của bản năng, sức mạnh của cảm năng và của lòng yêu mến, khát vọng của tinh thần và của ý chí; tình yêu ấy nhắm đến một sự hiệp nhất sâu xa về ngôi vị, một sự hiệp nhất, vượt qua sự kết hợp thành một thân xác, đưa đến chỗ chỉ còn một trái tim, một linh hồn; tình yêu ấy đòi hỏi sự bất khả phân ly và sự trung thành trong việc trao hiến cho nhau một cách dứt khoát, mở ngõ cho việc sinh sản (×. Thông điệp Sự sống con người, số 9). Tắt một lời, đó chính là những đăïc tính thông thường của mọi tình yêu vợ chồng nhưng với một ý nghĩa mới mẻ, một ý nghĩa không những thanh luyện và củng cố đặc tính ấy, nhưng còn nâng chúng lên cao đến độ biến chúng trở thành lời diễn tả những giá trị thật sự của Ki-tô giáo”[33].

Con cái, ơn huệ rất quý báu của hôn nhân

14. Theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình, vì chính định chế hôn nhân và tình yêu vợ chồng đều quy hướng về việc truyền sinh và giáo dục con cái, làm nên triều thiên cho định chế và tình yêu ấy[34].

Trong thực tế sâu xa nhất của nó, tình yêu vốn cốt yếu là ơn huệ, và tình yêu vợ chồng, khi đưa đôi bạn đến chỗ “biết” nhau làm cho họ trở thành “một xác thịt”[35], nó không chấm dứt nơi hai người nhưng nó làm cho họ có khả năng thực hiện được việc trao hiến lớn lao nhất, nhờ đó họ trở nên những người cộng tác với Thiên Chúa để thông ban sự sống cho một nhân vị khác. Vì thế khi hai vợ chồng trao hiến cho nhau thì cũng trao ban một hữu thể thực hữu vượt khỏi họ, tức là đứa con, dấu chỉ thường xuyên của sự hiệp nhất vợ chồng và là tổng hợp sống động và không thể phân chia của tư cách làm cha làm mẹ của họ.

Khi trở nên cha mẹ, đôi bạn cũng lãnh nhận nơi Thiên Chúa một quà tặng, đó là một trách nhiệm mới. Cha mẹ được mời gọi để biến tình thương con cái, thành dấu chỉ hữu hình cho chúng nhận ra được chính tình yêu của Thiên Chúa, “là nguồn gốc mọi tình phụ tử trên trời dưới đất”[36].

Tuy nhiên, đừng quên rằng ngay cả trong những trường hợp không thể nào có con, đời sống vợ chồng vẫn giữ nguyên tất cả giá trị của nó. Sự son sẻ về phần xác, thực ra, lại có thể là dịp để đôi bạn dấn thân vào những công việc phục vụ quan trọng cho sự sống của nhân vị, như việc nhận con nuôi, những công việc giáo dục đủ loại, việc trợ giúp cho những gia đình khác, những trẻ nghèo hoặc tàn tật.

Gia đình, cộng đoàn hiệp thông những ngôi vị

15. Ngay giữa lòng cuộc sống hôn nhân và gia đình, toàn bộ những tương quan liên vị được dệt nên – những tương quan về tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình con thảo, tình anh em – qua những tương quan ấy, mỗi ngôi vị được dẫn đưa vào trong “gia đình nhân loại” và “gia đình Thiên Chúa” là Hội Thánh.

Hôn nhân và gia đình Ki-tô giáo xây nên Hội Thánh. Thật vậy, trong gia đình, nhân vị không phải chỉ được sinh ra và dần dần nhờ giáo dục được dẫn vào trong cộng đồng nhân loại mà thôi, nhưng nhờ tái sinh qua phép rửa và nhờ sự giáo dục đức tin, ngôi vị ấy cũng được dẫn vào trong gia đình của Thiên Chúa là Hội Thánh.

Gia đình nhân loại, bị phân hoá vì tội lỗi, được phục hồi trong sự hiệp nhất của nó nhờ quyền năng cứu chuộc do cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô[37]. Nhờ tham dự vào hiệu năng cứu độ của biến cố ấy, hôn nhân Ki-tô giáo trở thành môi trường tự nhiên để cho nhân vị được hội nhập vào trong đại gia đình Hội Thánh.

Sứ mạng ngay từ đầu đã được trao cho người nam và người nữ để sinh sản thêm nhiều cũng nhờ đó mà trở thành hiện thực và được thực hiện hoàn toàn.

Cuối cùng, nơi gia đình, đã phát xuất từ bí tích hôn phối, Hội Thánh còn tìm được cái nôi và môi trường giúp cho Hội Thánh có thể hoàn tất việc hội nhập vào các thế hệ loài người, cũng như ngược lại, các thế hệ loài người được hội nhập vào Hội Thánh.

Hôn nhân và trinh khiết

16. Sự trinh khiết và độc thân vì Nước Thiên Chúa, không làm giảm bớt chút nào phẩm giá của hôn nhân, ngược lại, chúng giả thiết phải có phẩm giá ấy và củng cố nó. Hôn nhân và sự trinh khiết là hai cách thức để diễn tả cùng một mầu nhiệm duy nhất về giao ước giữa Thiên Chúa với Dân Ngài. Ở đâu không có sự kính trọng đối với hôn nhân, cũng không thể nào có được sự trinh khiết tận hiến. Ở đâu người ta không nhìn tính dục con người như là ân sủng lớn lao của Đấng Tạo hoá, thì ở đó việc từ bỏ tính dục vì Nước Trời cũng mất đi ý nghĩa của nó.

Thánh Gio-an Kim Khẩu đã nói rất đúng như sau: “Bôi nhọ hôn nhân cũng đồng thời làm giảm đi vinh quang của sự trinh khiết, ca ngợi hôn nhân là nêu cao sự khâm phục phải có đối với sự trinh khiết và làm cho nó được chiếu sáng hơn. Bởi vì điều gì chỉ có vẻ là một điều tốt nhờ đem so sánh với một điều xấu thì không thể thực sự là một điều tốt. Nhưng một điều còn tốt hơn những điều tốt không chối cãi được thì đúng là điều tốt tuyệt hảo”[38].

Qua sự trinh khiết, con người chờ đợi lễ cưới cánh chung của Đức Ki-tô với Hội Thánh, ngay cả nơi thân xác mình, bằng cách tự hiến hoàn toàn cho Hội Thánh trong niềm mong đợi ngày Chúa Ki-tô trao hiến chính mình Người cho Hội Thánh, trong cuộc sống vĩnh cửu thật sự viên mãn. Như thế là sống trước nơi thân xác mình cái thế giới mới mẻ của sự phục sinh sau này[39].

Nhờ vào lời chứng ấy, sự trinh khiết giữ cho cái ý thức trong Hội Thánh về mầu nhiệm hôn nhân được sống động, và bảo vệ mầu nhiệm ấy chống lại bất cứ điều gì có thể phạm đến sự toàn vẹn của nó hoặc làm cho nó nghèo nàn đi.

Khi làm cho trái tim con người được đặc biệt tự do[40] “để nó được bừng cháy hơn nữa trong tình yêu đối với Thiên Chúa và với mọi người”[41], sự trinh khiết chứng tỏ rằng Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài chính là viên ngọc quí mà người ta phải coi trọng hơn mọi giá trị khác, dù những giá trị này lớn đến đâu đi nữa, và đồng thời phải tìm kiếm như là giá trị quyết định duy nhất. Chính vì mối liên hệ hết sức độc đáo của đặc sủng này với Nước Thiên Chúa mà Hội Thánh suốt cả lịch sử của mình, đã luôn luôn bênh vực sự trổi vượt của đặc sủng ấy so với đặc sủng hôn nhân[42].

Chính khi chối từ việc sinh sản về phần xác, người giữ mình trinh khiết trở nên phong nhiêu về phương diện tinh thần; làm cha, làm mẹ của một số đông người và như thế, họ cộng tác vào việc hiện thực hoá định chế gia đình theo ý định của Thiên Chúa.

Thế nên các đôi bạn Ki-tô hữu có quyền chờ đợi nơi những con người sống trinh khiết gương sáng và lời chứng về một lòng trung thành với ơn gọi cho đến chết. Cũng như đối với các đôi bạn, đôi khi việc trung thành trở nên khó khăn và đòi hỏi hy sinh, khổ chế, quên mình thì đối với những người sống trinh khiết cũng có thể xảy ra như vậy. Sự trung thành của họ, trung thành cả khi gặp thử thách, phải xây dựng cho sự trung thành của các đôi bạn[43]. Sau cùng, những suy tư trên đây về sự trinh khiết có thể soi sáng và trợ giúp cho những ai, vì những lý do ngoài ý muốn của họ, không thể kết hôn và đã chấp nhận tình cảnh của mình trong tinh thần phục vụ.

PHẦN THỨ BA

NHỮNG BỒN PHẬNCỦA GIA ĐÌNH KI-TÔ HỮU

——————————————————————

Hỡi gia đình, hãy trở nên đúng với bản chất của mình

17. Trong ý định của Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Chuộc, không những gia đình khám phá ra “căn tính” của nó, cái nó “là”, mà còn khám phá ra “sứ mạng” của nó, cái nó có thể và phải “làm”. Những bổn phận mà gia đình được Thiên Chúa mời gọi phải chu toàn trong lịch sử đều bắt nguồn từ hữu thể độc đáo của nó, và là cách diễn tả sự phát triển năng động và hiện sinh của nó. Mỗi gia đình khám phá và gặp được nơi chính mình lời mời gọi cấp bách ấy, cũng chính là lời mời gọi xác định đâu là phẩm giá và trách nhiệm của gia đình: Hỡi gia đình, “hãy trở nên” cái mà ngươi “là”.

Như thế, trở về “nguyên thuỷ” với hành vi sáng tạo của Thiên Chúa là một điều khẩn thiết đối với gia đình, nếu muốn biết mình và thể hiện chính mình không những theo sự thật sâu xa về hữu thể của mình, mà còn theo tầm mức hành động của mình trong lịch sử, và bởi vì, theo ý định của Thiên Chúa, gia đình kết thành “cộng đoàn thân mật của sự sống và tình yêu”[44], nên gia đình có sứ mạng phải mỗi lúc một trở nên cái nó là, nghĩa là một cộng đoàn của sự sống và tình yêu đang vươn lên và sẽ hoàn tất trong Nước Thiên Chúa – như mọi thực tại được sáng tạo và cứu chuộc. Khi trở về với nguồn gốc của thực tại như thế, ta phải nhìn nhận rằng yếu tính của gia đình và các bổn phận của nó dứt khoát phải được xác định bằng tình yêu. Vì thế gia đình lãnh nhận trách nhiệm phải giữ gìn mặc khải và thông truyền tình yêu, là phản ảnh sống động và dự phần thực sự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vào tình yêu của Đức Ki-tô là Chúa đối với hiền thê Người là Hội Thánh. Mọi bổn phận riêng biệt của gia đình đều là cách diễn tả thực tại cụ thể của sứ mạng căn bản ấy. Cho nên cần phải đi sâu hơn nữa vào trong sự phong phú đặc thù của sứ mạng gia đình và đem từ đó ra, những yếu tố vừa đa tạp vừa đơn nhất.

Trong cái nhìn ấy, khởi sự từ tình yêu và không ngừng qui chiếu về đó, THĐGM kỳ này đã đưa ra ánh sáng bốn bổn phận chính của gia đình:

1. Đào tạo một cộng đồng các ngôi vị; 2. Phục vụ sự sống; 3. Dự phần vào việc phát triển xã hội; 4. Dự phần vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh.

 

I. ĐÀO TẠO MỘT CỘNG ĐỔNG CÁC NGÔI VỊ

Tình yêu, nguồn mạch và sức mạnh của sự hiệp thông

18. Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi vị : đôi bạn là nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị.

Nguyên lý nội tại, sức mạnh thường xuyên và mục đích cuối cùng của một sức mạnh như thế chính là tình yêu: Cũng như không có tình yêu gia đình không phải là một cộng đồng các ngôi vị, thì cũng thế, không tình yêu, gia đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện xét như một cộng đồng các ngôi vị. Điều tôi đã viết trong Thông điệp “Đấng Cứu Chuộc Con Người” được áp dụng độc đáo và ưu tiên trước hết nơi gia đình: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người sẽ là kẻ không thể hiểu được đối với chính bản thân mình, cuộc sống con người mất ý nghĩa nếu không nhận lấy mặc khải về tình yêu, nếu không có kinh nghiệm về tình yêu và nếu không nhận lấy kinh nghiệm ấy làm của mình và hăng say dự phần vào đó”[45].

Tình yêu giữa người nam và người nữ trong hôn nhân và do đó, một cách rộng rãi hơn, tình yêu thương giữa các phần tử trong cùng một gia đình – giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em, giữa tất cả bà con họ hàng – được linh hoạt và nâng đỡ do một sức năng động từ bên trong đang đưa dẫn gia đình về một sự hiệp thông càng lúc càng sâu xa và đậm đà hơn, làm nền tảng và nguyên lý cho cộng đồng hôn phối và gia đình.

Sự hiệp thông vợ chồng là sự hiệp nhất không thể phân ly

19. Sự hiệp thông đầu tiên là sự hiệp thông được thiết lập và phát triển giữa đôi bạn: nhờ khế ước của tình yêu vợ chồng, người nam và người nữ “không còn phải là hai nhưng là một xác thịt”[46] và được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau.

Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng nhờ ý chí của đôi bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau toàn thể dự phóng cuộc đời của họ, chia sẻ với nhau điều họ có và điều họ là: bởi đó, một sự hiệp thông như thế là kết quả và là dấu hiệu của một đòi hỏi nhân bản sâu xa. Nhưng trong Chúa Ki-tô, Thiên Chúa nắm lấy cái đòi hỏi đó, củng cố nó, thanh luyện nó và nâng nó lên cao, bằng cách dùng Bí Tích Hôn Phối mà đưa nó đến chỗ toàn thiện: Chúa Thánh Thần được đổ tràn xuống khi cử hành bí tích, đã trao tặng cho đôi bạn Ki-tô hữu một sự hiệp thông mới, hiệp thông trong tình yêu là hình ảnh sống và thực của sự duy nhất hết sức độc đáo đang làm cho Hội Thánh trở thành thân mình mầu nhiệm không thể phân chia của Đức Ki-tô.

Ơn của Thần Khí là luật sống cho đôi bạn Ki-tô hữu và đồng thời là hơi thở hướng dẫn họ để mỗi ngày họ phát huy được thể xác, tình tình, con tim, trí tuệ, ý chí, linh hồn[47], hầu biểu lộ cho Hội Thánh và cho thế giới thấy sự hiệp thông mới mẻ về tình yêu do ân sủng Đức Ki-tô ban tặng.

Đa thê là một điều đối nghịch tận trong căn bản với một sự hiệp thông như thế: vì nó trực tiếp phủ nhận ý định của Thiên Chúa như Ngài đã mặc khải cho chúng ta ngay từ đầu, nó ngược hẳn với phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa người nữ và người nam, trong hôn nhân người nữ và người nam đều trao hiến cho nhau trong một tình yêu toàn diện và do đó cũng là một tình yêu duy nhất, không dành cho ai khác. Như đã viết trong Công Đồng Va-ti-ca-nô II: “Phải nhìn nhận phẩm giá biệt vị bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương ái trọn vẹn để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận”[48].

Một sự hiệp thông bất khả phân ly

20. Sự hiệp thông vợ chồng được đánh dấu không những do sự duy nhất nhưng còn do tính chất bất khả phân ly của nó: “Sự kết hợp mật thiết, việc hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi họ kết hợp với nhau cách bất khả phân ly”[49].

Hội Thánh có một bổn phận căn bản – như các nghị phụ của Thượng Hội Đồng đã làm – là phải tái khẳng định thật mạnh mẽ giáo lý về sự bất khả phân ly của hôn nhân đối với những người ngày nay đang nghĩ rằng thật khó và hơn nữa thật không sao có thể liên kết với một người suốt đời, và đối với những người đang bị cuốn theo một nền văn hoá từ chối sự bất khả phân ly của hôn nhân và có khi còn công khai khinh bỉ việc đôi bạn cam kết sống trung thành với nhau, thì còn phải nhắc lại lời loan báo vui mừng về tính cách dứt khoát của tình yêu vợ chồng này, là tình yêu đặt nền tảng và tìm được sức mạnh nơi Đức Ki-tô[50].

Bắt nguồn từ trong sự trao ban trọn vẹn và đích thân giữa hai vợ chồng, cũng như do lợi ích của con cái đòi hỏi, sự bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định Thiên Chúa đã bày tỏ trong mặc khải của Ngài: chính Ngài muốn hôn nhân phải bất khả phân ly và Ngài ban cho nó ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung thành mà Thiên Chúa đã có đối với con người và là tình yêu mà Chúa Giê-su đã tỏ ra đối với Hội Thánh.

Đức Ki-tô canh tân ý định nguyên thuỷ mà Đấng Tạo Hoá đã ghi khắc trong lòng người nam và người nữ, và trong lúc cử hành Bí Tích Hôn Phối, Người ban cho họ “một tấm lòng mới”: như thế, không những đôi bạn có thể vượt lên được khỏi sự “cứng lòng”[51], mà nhất là họ còn có thể dự phần vào tình yêu toàn diện và dứt khoát của Đức Ki-tô, là Giao ước mới và vĩnh cửu đã trở thành xác phàm. Cũng như Chúa Giê-su là vị “chứng nhân trung thành”[52], là tiếng, “có” của những lời Thiên Chúa hứa[53], và đó là sự thể hiện tối cao của lòng trung tín vô điều kiện mà với sự trung tín ấy Thiên Chúa đã yêu thương dân Ngài, thì đôi bạn Ki-tô hữu cũng được mời gọi để thực sự dự phần vào sự bất khả phân ly không thể thu hồi đang nối kết Đức Ki-tô với Hội Thánh là Hiền Thê mà Ngài yêu mến đến tận cùng[54].

Đối với đôi bạn Ki-tô hữu, ơn bí tích là một ơn gọi và đồng thời cũng là một lệnh truyền phải trung thành mãi mãi, bất chấp các thử thách và khó khăn với một lòng quảng đại tuân theo ý Chúa: “Điều Thiên Chúa đã phối hợp thì người ta không được phân ly”[55].

Ngày nay, làm chứng về giá trị cao quí của sự bất khả phân ly trong hôn nhân và của lòng chung thuỷ vợ chồng là một trong những bổn phận quan trọng nhất và cấp bách nhất của các đôi bạn Ki-tô hữu. Vì thế hiệp ý với tất cả các anh em của tôi đã cùng tham dự THĐGM, tôi ca ngợi và khích lệ đông đảo tất cả các đôi bạn, mặc dù gặp những khó khăn to lớn, vẫn giữ gìn và phát triển sự bất khả phân ly quí báu ấy: làm thế họ đã khiêm tốn và quả cảm đảm nhận trách nhiệm đã trao cho họ là trở nên dấu chỉ trong thế giới – một dấu chỉ kín đáo và quí giá, đôi khi bị thua chước cám dỗ nhưng rồi lại được đổi mới không ngừng – dấu chỉ về sự trung tín không biết mỏi mệt của tình yêu mà Thiên Chúa và Đức Giê-su Ki-tô đã có đối với tất cả mọi người và đối với từng người. Và cũng còn phải đánh giá cao lời chứng của những người chồng, người vợ bị bạn đời của mình rẫy bỏ mà nhờ đức tin và niềm hy vọng Ki-tô giáo, vẫn không tái hôn: như thế, họ đã nêu lên được một lời chứng đích thực cho sự trung thành mà thế giới ngày nay đang cần đến biết bao. Vì thế, các chủ chăn và tín hữu trong Hội Thánh phải khích lệ và giúp đỡ họ được kiên trì trong hướng ấy.

Sự hiệp thông mở rộng của gia đình

21. Sự hiệp thông vợ chồng tạo nên nền tảng trên đó xây dựng được sự hiệp thông rộng lớn hơn trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa những anh chị em trong nhà với nhau, giữa những người bà con gần và những thành phần khác của gia đình.

Một sự hiệp thông như vậy ăn rễ từ trong những liên hệ tự nhiên ruột thịt và được phát triển cho đến mức toàn thiện nhân bản, nhờ biết thực hiện và làm cho trưởng thành những mối liên hệ còn sâu xa và phong phú hơn của tinh thần, tức là: tình yêu, linh hồn của những tương quan liên vị giữa những thành phần khác nhau trong gia đình, tình yêu này là sức mạnh bên trong làm cho sự hiệp thông và cộng đồng gia đình được hình thành và sống động.

Ngoài ra, gia đình Ki-tô hữu còn được mời gọi cảm nghiệm một sự hiệp thông mới mẻ và độc đáo, củng cố cho sự hiệp thông tự nhiên và nhân bản. Thật vậy, ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô “Anh Cả của một đàn em đông đúc”[56] theo bản tính và sức mạnh nội tại của ơn ấy, là một “ân sủng của tình huynh đệ” như thánh Tô-ma Aquinô vẫn gọi[57]. Thánh Thần được đổ tràn xuống trong việc cử hành các bí tích chính là nguồn mạch sống động và lương thực vô tận cho sự hiệp thông siêu nhiên nối kết các tín hữu với Đức Ki-tô và qui tụ họ lại với nhau trong sự hiệp nhất của Hội Thánh Thiên Chúa. Gia đình Ki-tô hữu là một mặc khải, một sự thực hiện đặc biệt mối hiệp thông trong Hội Thánh. Vì thế, gia đình Ki-tô hữu có thể và phải được gọi là “Hội Thánh tại gia”[58].

Tất cả mọi thành phần trong gia đình, mỗi người theo ơn riêng của mình, đều có ân sủng và trách nhiệm để ngày này sang ngày khác tiếp tục xây dựng sự hiệp thông giữa các ngôi vị, bằng cách biến gia đình thành một “trường học đào tạo cho nhân tính được hoàn hảo và phong phú hơn”[59]: điều đó được thể hiện qua việc chăm sóc và tình yêu dành cho các em nhỏ, những người đau yếu, những người già cả, qua những việc phục vụ lẫn nhau trong đời sống hằng ngày, qua việc chia sẻ của cải, chia sẻ những niềm vui và nổi khổ.

Yếu tố căn bản tạo để nên sự hiệp thông như thế, chính là sự trao đổi có tính cách giáo dục giữa cha mẹ và con cái[60], làm cho mỗi người đều có thể cho đi và nhận lại. Qua tình yêu, sự kính trọng và vâng lời đối với cha mẹ, con cái mang lại phần đóng góp đặc biệt và không thể thay thế được của chúng cho việc xây dựng một gia đình thật sự nhân bản và Ki-tô giáo[61]. Điều đó sẽ dễ dàng hơn cho chúng nếu các bậc cha mẹ thực hành nghiêm chỉnh quyền bính của họ như một tác vụ thật sự hay đúng hơn, như một việc phục vụ nhắm tới lợi ích nhân bản và Ki-tô hữu của con cái, và đặc biệt hơn, như một việc phục vụ nhằm làm cho con cái đạt được một sự tự do thật sự có trách nhiệm, và nếu chính các cha mẹ cũng luôn giữ được một ý thức bén nhạy về hồng ân mà họ không ngừng nhận được từ nơi con cái họ.

Chỉ có một tinh thần hy sinh cao cả mới giúp gìn giữ được và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau, và hoà giải với nhau. Không gia đình nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hoà, những căng thẳng, những xung đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình. Đồng thời, mỗi gia đình đều luôn luôn được Thiên Chúa Chủ Tể của sự bình an, mời gọi sống kinh nghiệm tươi sáng phấn khởi của việc hoà giải, trong việc tái lập sự hiệp thông, tìm lại sự hiệp nhất. Cách riêng việc tham dự vào bí tích giao hoà và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Ki-tô sẽ đem lại cho gia đình Ki-tô hữu ơn sủng cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương xứng để thắng vượt tất cả mọi chia rẽ và bước tới sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và như thế là đáp lại nỗi ước mong nồng nàn của Chúa là “xin cho tất cả được nên một”[62].

Những quyền lợi và vai trò của người phụ nữ

22. Gia đình, xét như – và phải luôn trở thành – một sự hiệp thông và một cộng đồng các ngôi vị. Gia đình gặp được nơi tình yêu, nguyên do và sức khích lệ thường xuyên làm cho nó biết tiếp nhận, kính trọng và phát triển nơi mỗi thành phần của nó phẩm giá thật cao của các ngôi vị nghĩa là như những hình ảnh của Thiên Chúa. Như các nghị phụ THĐGM đã quả quyết rất đúng, tiêu chuẩn luân lý để cho các tương quan hôn nhân và gia đình được trung thực cốt ở việc đề cao phẩm giá và ơn gọi của từng ngôi vị, là những ngôi vị đã tìm được sự sung mãn của mình khi biết chân thành trao ban chính mình[63].

Trong viễn tượng ấy, THĐGM đã muốn dành một sự chú ý đặc biệt cho người phụ nữ, cho các quyền lợi và vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Cũng phải xét đến người nam, như là người chồng và là người cha, đến trẻ em và đến những người già cả trong cùng một viễn tượng ấy.

Về phụ nữ, trước hết cần phải ghi nhận rằng, phẩm giá và trách nhiệm của họ bình đẳng với phẩm giá và trách nhiệm của người nam. Sự bình đẳng ấy được thực hiện một cách đặc biệt trong việc họ trao hiến chính mình cho nhau và cho con cái họ. Một sự trao hiến như thế chỉ có được trong hôn nhân và gia đình. Điều mà lý trí con người đã trực giác thấy và đã nhìn nhận cũng là điều được mặc khải sung mãn trong Lời Chúa. Thật vậy, lịch sử cứu độ là một lời chứng liên lỉ và sáng chói cho phẩm giá phụ nữ.

Khi tạo dựng con người có nam có nữ[64], Thiên Chúa ban phẩm giá con người như nhau cho cả người nam và người nữ, trao cho họ những quyền lợi bất khả nhượng và những trách nhiệm dành riêng cho nhân vị. Rồi Thiên Chúa lại bày tỏ phẩm giá của người nữ cách cao cả hết sức có thể khi chính Ngài mặc lấy xác thịt từ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a mà Hội Thánh tôn kính như Mẹ Thiên Chúa, gọi Mẹ là E-và mới và giới thiệu Mẹ như là kiểu mẫu của người nữ đã được cứu chuộc. Tình thương tế nhị của Chúa Giê-su đối với những phụ nữ mà Người đã gọi đi theo Người, việc Người sống thân hữu với họ, việc Người hiện ra vào buổi sáng Phục Sinh cho một phụ nữ trước khi hiện ra cho những môn đệ khác, việc Người trao phó cho các phụ nữ sứ mạng đem Tin Mừng Phục sinh đến cho các tông đồ, tất cả những sự việc ấy là những dấu chỉ xác nhận lòng quí trọng đặc biệt của Chúa Giê-su đối với phụ nữ. Thánh Phao-lô về sau đã nói: “Hết thảy anh em là con cái Thiên Chúa, nhờ bởi lòng tin trong Đức Ki-tô Giê-su; … không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, vì hết thảy anh em là một trong Đức Ki-tô Giê-su”[65].

Người phụ nữ và xã hội

23. Ở đây ta không bàn đến chủ đề rộng rãi và phức tạp là những tương quan giữa người phụ nữ và xã hội dưới những khía cạnh khác biệt của chủ đề ấy, mà chỉ giới hạn vào một số điểm then chốt. Không thể nào không nhận thấy rằng trong lãnh vực dành riêng cho đời sống gia đình, có một truyền thống xã hội và văn hoá rất phổ biến đã muốn dành cho người phụ nữ chỉ nguyên vai trò làm vợ và làm mẹ mà không mở lối cho họ một cách tương xứng để bước vào những vai trò công cộng thường được coi như chỉ dành cho người nam.

Chắc chắn rằng sự bình đẳng về phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và người nữ đủ biện minh cho việc người nữ dấn thân vào các vai trò xã hội. Đàng khác, muốn thật sự đề cao phẩm giá phụ nữ thì cũng cần phải nhìn nhận rõ ràng vai trò làm mẹ và lo việc gia đình của phụ nữ có giá trị so với tất cả những vai trò công cộng và tất cả những chức nghiệp khác. Sau nữa cũng còn cần phải làm sao để tất cả những vai trò và những chức nghiệp ấy được liên kết chặt chẽ với nhau, nếu người ta muốn cho sự phát triển xã hội và văn hoá được đạt đến mức nhân bản thật sự và trọn vẹn.

Điều ấy có thể dễ dàng đạt được hơn, nếu nền “thần học về lao động” được canh tân. Đây là điều mà THĐGM đã mong ước để giúp làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của lao động trong đời sống Ki-tô hữu, cũng như để xác định mối liên hệ căn bản giữa lao động và gia đình, và cả ý nghĩa độc đáo, không thể thay thế được của việc lao động ở nhà và của việc giáo dục con cái[66].

Bởi thế, Hội Thánh có thể và phải trợ giúp cho xã hội hiện nay bằng cách luôn luôn kiên trì kêu gọi mọi người nhìn nhận và tôn kính giá trị không thể thay thế được của những công việc người phụ nữ làm trong gia đình. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với những gì có liên quan đến công việc giáo dục. Thật vậy, người ta sẽ loại bỏ được ngay tận gốc rễ sự phân biệt giả tạo giữa những việc lao động khác nhau và những nghề nghiệp khác nhau, nếu người ta thấy rõ được rằng tất cả mọi người trong mọi lãnh vực, đều dấn thân với những quyền lợi giống ý như nhau và một ý thức trách nhiệm như nhau. Và hình ảnh của Thiên Chúa trong người nam và người nữ nhờ đó mà được chiếu sáng hơn.

Cả khi phải nhìn nhận cho phụ nữ được quyền tham gia vào các chức năng công cộng như thể đã nhìn nhận cho nam giới, xã hội cũng phải được tổ chức làm sao để những người làm vợ, làm mẹ không bị bó buộc cách cụ thể phải đi làm việc ngoài gia đình và phải làm sao để ngay cả khi họ hoàn toàn hiến mình cho gia đình, gia đình họ vẫn có thể sống và phát triển một cách tương xứng.

Ngoài ra cần phải vượt qua não trạng cho rằng danh dự của phụ nữ là do việc làm ngoài xã hội hơn là do hoạt động ở trong gia đình. Nhưng để đạt được điều ấy nam giới cần biết quí chuộng và thật sự yêu thương người phụ nữ với tất cả sự kính trọng phẩm giá cá nhân của họ, và xã hội cần phải tạo ra và phát triển những điều kiện thích hợp cho công việc tại gia đình.

Dù vẫn kính trọng sự khác biệt ơn gọi giữa người nam và người nữ, Hội Thánh cần phải đề cao, trong mức độ có thể, sự bình đẳng về quyền lợi và phẩm giá giữa người nam và người nữ trong sinh hoạt Hội Thánh, và đó là vì ích lợi của tất cả: của gia đình, của xã hội và của Hội Thánh.

Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là phụ nữ phải từ bỏ nữ tính của mình hay phải bắt chước tính khí nam giới, nhưng nhằm nói lên sự sung mãn nhân tính thực sự của người nữ, như phải được diễn tả trong cách thế hành động riêng của mình, cho dù ở trong hay ở ngoài gia đình, và đàng khác cũng không quên rằng trong lãnh vực này cũng còn có sự khác biệt về phong tục và văn hoá.

Những điều xúc phạm đến phẩm giá phụ nữ

24. Thật đáng tiếc, sứ điệp Ki-tô giáo về phẩm giá phụ nữ lại bị đối nghịch do một não trạng cứ nhất định nhìn con người không phải như một ngôi vị, nhưng như một đồ vật, một món hàng mua bán, để phục vụ cho lợi thú ích kỷ và lạc dục mà thôi. Nạn nhân đầu tiên của một não trạng như vậy là người phụ nữ.

Não trạng ấy gây ra những kết quả thật cay đắng, như sự khinh rẻ người nam và người nữ, tình trạng nô lệ, việc áp bức những người yếu đuối, sách báo phim ảnh khiêu dâm, nạn mãi dâm – nhất là khi biến nó thành tổ chức – và tất cả những hình thức kỳ thị người ta gặp phải trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp và phân phối công việc v.v…

Ngoài ra, ngay cả thời đại nầy, trong một phần lớn của xã hội chúng ta vẫn còn tồn tại nhiều hình thức kỳ thị hạ nhục đang làm phương hại và xúc phạm trầm trọng đến một số loại phụ nữ đặc biệt, chẳng hạn như những người vợ không con, các quả phụ, những người vợ ly thân, ly dị, những người mẹ độc thân.

Những kỳ thị này và nhiều kỳ thị khác nữa đã bị các nghị phụ phàn nàn hết sức tại THĐGM. Vậy tôi kêu gọi tất cả mọi người hãy dấn thân vào một hành động mục vụ chuyên biệt có tính cách mạnh mẽ và quyết định hơn, để có thể loại bỏ hẳn những kỳ thị ấy, và để nhờ đó mà đạt tới chỗ kính trọng trọn vẹn hình ảnh Thiên Chúa đang chiếu toả nơi mọi người chẳng trừ ai.

Người nam là chồng và là cha

25. Bên trong sự hiệp thông của cộng đồng hôn nhân và gia đình, người nam được mời gọi sống sự tự hiến của ông trong vai trò là chồng và là cha.

Ông nhìn ra vợ mình là sự chu toàn ý định của Thiên Chúa: “Không tốt nếu người nam chỉ có một mình, vậy Ta sẽ làm cho nó một kẻ trợ giúp tương xứng với nó”[67]. Ông sẽ thốt lên lời mà A-đam, người chồng đầu tiên, đã thốt lên : “Phen này, đây là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi”[68]. Tình vợ chồng đích thực giả thiết và đòi hỏi rằng người nam phải có sự kính trọng sâu xa đối với phẩm giá của vợ mình, như thánh Ambrôsiô đã viết: “Con không phải là chủ của nàng nhưng là chồng nàng; nàng được trao cho con để làm vợ chứ không phải làm nô lệ … Hãy đáp lại những chú ý nàng đã dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng”[69]. Người nam phải sống với vợ mình bằng một “tình bạn trong ngôi vị thật đặc biệt”[70]. Nếu là Ki-tô hữu, ông còn được mời gọi phát triển một thái độ yêu thương mới mẻ để diễn tả với vợ mình tình bác ái tế nhị và mạnh mẽ mà Chúa Ki-tô đã có đối với Hội Thánh[71].

Tình yêu đối với người vợ đã trở thành mẹ và tình yêu đối với con cái là con đường tự nhiên đưa người nam đến chỗ hiểu biết và thể hiện việc làm cha của mình. Ở những nơi hoàn cảnh xã hội và văn hoá dễ đưa người cha đến chỗ, một cách nào đó, không quan tâm tới gia đình hoặc ít có mặt trong công việc giáo dục, thì phải làm sao giúp cho xã hội ấy xác tín rằng chỗ đứng và vai trò của người cha trong gia đình có một tầm quan trọng độc nhất không thay thế được[72]. Như kinh nghiệm cho thấy, sự vắng mặt của người cha gây ra những sự thiếu quân bình tâm lý và tinh thần, cũng như nhiều khó khăn đáng kể khác trong các tương quan gia đình; nhưng ngược lại, cũng sẽ xảy ra như thế nếu sự hiện diện của người cha lại có tính cách áp bức, nhất là ở những nơi còn có hiện tượng mà người ta gọi là “đề cao đàn ông”, nghĩa là khi những lợi điểm nam tính được đề cao quá đáng làm giảm giá phụ nữ và cản trở sự phát triển các mối tương quan lành mạnh trong gia đình. Khi biểu lộ tình cha của Thiên Chúa và sống lại tình cha ấy trên mặt đất này[73], người nam được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành phần trong gia đình. Để chu toàn trách vụ này, ông cần phải quảng đại lãnh lấy trách nhiệm đối với sự sống được thai nghén trong lòng người mẹ, cần phải chú tâm chia sẻ cố gắng giáo dục con cái với vợ mình[74], công việc ấy sẽ không bao giờ làm chia rẽ gia đình, nhưng làm cho gia đình được vững mạnh trong sự hiệp nhất và ổn định, nên một lời chứng về đời sống Ki-tô hữu trưởng thành để hướng dẫn con cái vào trong kinh nghiệm sống động về Chúa Ki-tô và về Hội Thánh một cách hữu hiệu hơn.

Những quyền lợi của đứa con

26. Giữa lòng gia đình như một cộng đồng các ngôi vị, cần phải dành một sự chú ý đặc biệt cho đứa con, bằng cách phát huy lòng quí chuộng sâu xa đối với phẩm giá ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự kính trọng thật to lớn đối với những quyền lợi của nó, những quyền lợi mà người ta phải phục vụ một cách quảng đại. Đó là điều phải dành cho tất cả mọi đứa con, mà quan trọng nhất là đứa con nhỏ tuổi hơn, đang cần đủ mọi thứ, hoặc đối với một đứa con bị đau yếu, đau khổ hay tàn tật.

Khi đòi hỏi mọi người phải lưu tâm và khi chính mình lưu tâm một cách vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ đối với mọi trẻ em được sinh ra, Hội Thánh chu toàn một trong những sứ mạng căn bản của mình. Thực vậy, Hội Thánh được mời gọi phải làm cho người ta biết, và phải nêu lên một lần nữa mẫu gương và mệnh lệnh của Chúa Ki-tô, Đấng đã muốn đặt trẻ em vào ngay chính giữa Nước Thiên Chúa: “Hãy để mặc các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cản chúng vì Nước Thiên Chúa thuộc về những người như thế”[75].

Tôi lặp lại nơi đây điều tôi đã nói tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 2-10-1979, là: “Tôi muốn… nói lên niềm vui mà các trẻ em mang đến cho mỗi người trong chúng ta. Chúng là mùa xuân của cuộc đời, là lời báo trước về trang sử sắp đến của mỗi miền quê hương trần thế. Không một nước nào trên thế giới, không một hệ thống chính trị nào có thể nghĩ đến tương lai của mình bằng một cách khác hơn là nhìn qua hình ảnh của những thế hệ mới sẽ tiếp nối cha ông họ lãnh lấy gia sản, đa dạng về những giá trị, những bổn phận, những khát vọng của quốc gia mà họ thuộc về, và đồng thời cũng lãnh lấy gia sản của toàn thể gia đình nhân loại. Mối bận tâm về trẻ em, ngay cả từ trước khi chúng được sinh ra, từ giây phút đầu tiên được thai nghén và sau đó trong suốt tuổi nhi đồng và thiếu niên, chính là phương thế đầu tiên và căn bản để kiểm chứng mối tương quan giữa người với người. Như vậy người ta có thể cầu chúc gì cho từng dân tộc, cho toàn thể nhân loại và cho tất cả mọi trẻ em trên trần thế nếu không phải là cầu chúc một tương lai tốt đẹp hơn, trong đó sự kính trọng những quyền lợi con người trở thành sự thực vào năm 2000 sắp đến”[76].

Sự tiếp đón, tình yêu thương, sự quí chuộng, việc phục vụ nhiều mặt nhưng thống nhất – về vật chất, tình cảm, giáo dục, siêu nhiên – đối với mọi trẻ em sinh ra trên thế giới … Tất cả những điều ấy phải luôn luôn là một đặc điểm nổi bật, không thể tước đoạt được của người Ki-tô hữu, và cách riêng của các gia đình Ki-tô hữu. Như thế các trẻ em có thể lớn lên “về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”[77], chúng sẽ mang lại sự đóng góp quý báu của chúng cho việc xây dựng cộng đồng gia đình và ngay cả cho việc thánh hoá cha mẹ[78].

Những người già cả trong gia đình

27. Có những nền văn hoá biểu lộ một sự kính trọng đặc biệt và một tình yêu thương to lớn đối với những người cao niên: thay vì bị gạt ra khỏi gia đình hoặc bị coi như một gánh nặng vô ích, người già vẫn được hội nhập vào cuộc sống gia đình, tiếp tục dự phần vào đó một cách tích cực và có trách nhiệm – dù vẫn phải tôn trọng sự độc lập của gia đình mới – và nhất là người ấy thi hành một sứ mạng quý báu là trở nên chứng nhân cho quá khứ và nguồn mạch khôn ngoan cho các người trẻ và cho tương lai.

Ngược lại, có những nền văn hoá khác, nhất là do hậu quả của sự phát triển kỹ nghệ và đô thị một cách vô trật tự, đã đưa và còn tiếp tục đưa những người cao niên vào những hình thức sống ngoài lề không thể chấp nhận được, là nguyên nhân gây ra những đau khổ chua cay cho họ, và làm cho biết bao gia đình bị nghèo nàn đi về mặt tinh thần.

Hoạt động mục vụ của Hội Thánh cần phải khuyến khích mỗi người biết khám phá và coi trọng vai trò của những người già trong cộng đồng dân sự và Hội Thánh, và cách riêng trong gia đình. Thật ra, cuộc sống của những người già giúp chúng ta thấy rõ bậc thang các giá trị nhân bản, nó cho thấy sự tiếp nối các thế hệ và là một bằng chứng tuyệt diệu về sự tùy thuộc lẫn nhau trong Dân Thiên Chúa. Những người cao niên thường có đặc sủng để lấp đầy những hố phân cách giữa các thế hệ trước khi những hố sâu ấy được đào ra: biết bao trẻ em đã gặp được sự thông cảm và tình thương trong đôi mắt, trong những lời nói và những âu yếm của những lời sách thánh này : “Triều thiên của ông bà chính là con cháu của họ” (Ga 17,6)[79].

 

II. PHỤC VỤ CHO SỰ SỐNG

1. Việc truyền sinh

Những người cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa Tạo Hoá

28. Việc Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh Ngài và như họa ảnh Ngài là triều thiên đem lại sự trọn hảo cho công việc của tay Ngài: Ngài mời gọi họ dự phần đặc biệt vào tình yêu cũng như quyền năng của Ngài là Đấng Tạo Hoá và là Cha, bằng việc cho họ được cộng tác cách tự do và có trách nhiệm để lưu truyền hồng ân sự sống con người: “Thiên Chúa đã chúc lành cho họ và phán bảo họ: Hãy sinh sôi nẩy nở, nên đầy dẫy trên mặt đất và hãy bá chủ nó[80].

Chính vì thế mà mục tiêu căn bản của gia đình là phục vụ cho sự sống, là thực hiện trong lịch sử lời chúc lành của Thiên Chúa lúc khởi nguyên, thực hiện bằng việc thông truyền hình ảnh Thiên Chúa từ người này sang người khác trong hành động truyền sinh[81].

Việc có con là kết quả và là dấu chỉ của tình yêu vợ chồng, là lời chứng sống động cho sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa đôi bạn : “Việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia đình phát xuất từ việc thể hiện ấy, đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm saün sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo Hoá và Cứu Chuộc, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của hôn nhân. Nhờ đời sống lứa đôi, Ngài làm cho gia đình của chính Ngài ngày càng mở rộng và phong phú hơn”[82].

Sự phong nhiêu của tình yêu vợ chồng không giản lược vào nguyên việc sinh ra con cái ngay cả khi việc này được hiểu theo nghĩa hết sức nhân bản của nó. Sự phong nhiêu được nới rộng và làm giàu bằng tất cả mọi kết quả của đời sống luân lý thiêng liêng và siêu nhiên mà người cha và người mẹ đều được mời gọi trao ban cho con cái họ, và qua chúng, cho Hội Thánh và thế giới.

Giáo lý và quy luật của Hội Thánh bao giờ cũng vừa cũ vừa mới

29. Chính vì tình yêu của đôi bạn, là một sự tham dự đặc thù vào mầu nhiệm sự sống và tình yêu của chính Thiên Chúa, mà Hội Thánh biết rõ rằng mình đã lãnh nhận sứ mạng đặc biệt phải giữ gìn và bảo vệ phẩm giá cao cả của hôn nhân và trách nhiệm hệ trọng của việc thông truyền sự sống con người.

Như thế, trung thành với truyền thống sống động của cộng đồng Hội Thánh suốt dòng lịch sử, Công Đồng Va-ti-ca-nô II và quyền giáo huấn của vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phao-lô VI, đặc biệt đã được trình bày trong thông điệp Sự Sống Con Người, cả hai đã truyền lại cho thời đại chúng ta lời loan báo thực sự có tính cách tiên tri, quả quyết và nêu lên một lần nữa thật rõ ràng giáo lý và quy luật của Hội Thánh về hôn nhân và việc truyền sinh, một giáo lý và quy luật bao giờ cũng vừa cũ vừa mới.

Bởi thế, trong cuộc họp vừa qua, các nghị phụ THĐGM đã tuyên bố rõ ràng như sau : “Thượng Hội Đồng Giám Mục, hiệp nhất trong đức tin và Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô xác nhận mạnh mẽ những gì đã được nêu ra trong Công đồng Va-ti-ca-nô II (×. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng số 50) và sau đó trong thông điệp Sự Sống Con Người, mà cách riêng là xác nhận rằng tình yêu vợ chồng phải là tình yêu hoàn toàn nhân bản được dành riêng cho đôi bạn và mở ra đón nhận sự sống” (Thông điệp, số 11, ×. 9 và 12)[83].

Hội Thánh đứng về phía bảo vệ sự sống

30. Giáo lý của Hội Thánh ngày nay bị đặt vào trong một hoàn cảnh xã hội và văn hoá đang khiến nó trở thành khó hiểu hơn, nhưng cũng thôi thúc hơn và không thể thay thế được để cổ võ điều thiện hảo đích thực cho người nam và người nữ.

Tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà con người hiện nay liên lỉ gia tăng để chế ngự thiên nhiên, không những làm cho người ta thêm hy vọng tạo được một nhân loại mới và tốt đẹp hơn nhưng cũng làm cho con người lo thêm về tương lai. Một số người tự hỏi phải chăng sống là một điều tốt hay phải chăng đừng sinh ra lại còn tốt hơn : họ tự hỏi có nên đưa thêm vào cuộc sống những con người khác nữa, những con người mà có thể mai đây sẽ nguyền rủa sự hiện hữu của mình giữa một thế giới tàn bạo với những khủng khiếp không thể thấy trước được. Có những người tưởng mình là những kẻ thụ hưởng duy nhất của các tiện nghi kỹ thuật, nên loại trừ kẻ khác ra khỏi sự hưởng thụ đó bằng cách áp đặt những phương thế ngừa thai hay những cách thực hành khác còn tệ hại hơn. Có những người khác nữa, vì bị giam hãm trong một não trạng hưởng thụ và chỉ có một mối bận tâm duy nhất là gia tăng liên lỉ của cải vật chất, nên cuối cùng đi tới chỗ không hiểu được sự phong phú tinh thần của sự sống mới và do đó, chối từ sự phong phú ấy. Lý do cuối cùng của những não trạng như thế là trong tâm hồn con người đã vắng bóng Thiên Chúa, mà chỉ có tình thương của Ngài mới mạnh mẽ hơn tất cả những sự sợ hãi có thể có trên thế giới và mới có sức chiến thắng những sợ hãi đó.

Chính vì vậy mà phát sinh một não trạng chống lại sự sống, đang xuất hiện trong nhiều vấn đề hiện nay, chẳng hạn, cứ thử nghĩ đến sự sợ hãi phát xuất từ một số bản nghiên cứu của những nhà môi sinh học và tương lai luận về vấn đề dân số, những nghiên cứu đôi khi phóng đại quá đáng về nguy cơ việc gia tăng dân số đang đè nặng trên phẩm chất sự sống.

Nhưng Hội Thánh tin tưởng mạnh mẽ rằng, sự sống con người, dù có yếu ớt và đầy đau khổ, vẫn luôn luôn là một hồng ân tuyệt vời của Thiên Chúa tốt lành. Chống lại sự bi quan và ích kỷ đang che mờ thế giới Hội Thánh đứng về phe sự sống, và trong mỗi sự sống con người Hội Thánh biết khám phá nét cao đẹp của tiếng “thưa vâng”, của tiếng “amen” là Đức Ki-tô[84]. Đối ngược với tiếng “không” đang tràn ngập và làm cho thế giới ảm đạm, Hội Thánh đưa ta tiếng “thưa vâng”, sống động bênh vực cho con người và thế giới chống lại những kẻ đe dọa sự sống và làm hại sự sống.

Hội Thánh được mời gọi phải biểu lộ một lần nữa, với một niềm xác tín sống động và vững chắc nhất, cho mọi người thấy ý muốn của Hội Thánh là cổ võ sự sống con người bằng mọi phương thế và bênh vực nó chống lại mọi đe dọa, dù sự sống ấy đang ở trong bất cứ điều kiện và giai đoạn phát triển nào.

Hội Thánh lên án như là một xúc phạm nặng nề đối với phẩm giá con người và đối với sự công bằng, tất cả các hoạt động của những chính phủ hay những công quyền khác nhằm giới hạn một cách nào đó sự tự do của đôi bạn trong các quyết định của họ về con cái. Bởi thế, mọi vũ lực mà các quyền bính dùng để bắt buộc ngừa thai, và bắt buộc cả đến việc làm tuyệt đường sinh hay phá thai cố ý, đều phải bị lên án cách tuyệt đối và phải hết sức từ bỏ. Đồng thời phải nhấn mạnh rằng thật là một bất công trầm trọng khi trong những tương quan quốc tế, việc viện trợ kinh tế để thăng tiến các dân tộc lại đòi điều kiện phải có những chương trình ngừa thai, làm tuyệt đường sinh và phá thai cố ý[85].

Để ý định của Thiên Chúa được thể hiện ngày một trọn vẹn hơn

31. Chắc chắn Hội Thánh cũng ý thức về nhiều vấn đề rất phức tạp đang đè nặng trên các đôi bạn ở nhiều nước trong trách vụ truyền sinh một cách có trách nhiệm. Hội Thánh cũng nhìn nhận vấn đề trầm trọng về gia tăng dân số như hiện có tại nhiều nơi trên thế giới, cùng với những hậu quả tinh thần kèm theo đó.

Tuy nhiên Hội Thánh quả quyết rằng, việc nhận định sâu xa mọi khía cạnh của vấn đề ấy chỉ có thể xác định thêm một lần nữa và một cách mạnh mẽ hơn nữa, tầm quan trọng của giáo lý đích thực về điều hoà sinh sản như đã được trình bày trong Công Đồng Va-ti-ca-nô II và trong Thông điệp Sự Sống Con Người.

Bởi thế, cùng với các nghị phụ Thượng Hội Đồng, tôi cảm thấy có bổn phận phải gởi đến các nhà thần học lời kêu gọi khẩn thiết, xin họ hiệp sức lại để cộng tác với quyền giáo huấn Hội Thánh, mà nỗ lực hết sức để ngày càng làm sáng tỏ thêm những nền tảng Kinh Thánh, những lý do luân lý và những lý lẽ nhân bản nâng đỡ cho giáo lý ấy. Trong khuôn khổ một khảo luận có trật tự, giáo lý của Hội Thánh về vấn đề quan trọng ấy sẽ có thể thật sự đi đến được với tất cả mọi người thiện chí, và như thế, làm cho người ta ngày càng hiểu được giáo lý đó rõ ràng hơn và sâu xa hơn : nhờ đó ý định của Thiên Chúa có thể được thực hiện ngày càng trọn vẹn hơn để cứu rỗi con người và làm vinh danh Đấng Tạo Hoá.

Trên phương diện ấy, các thần học gia, được gợi hứng do một sự gắn bó đầy xác tín với quyền giáo huấn là sự hướng dẫn đích thực duy nhất cho dân Chúa, càng cần phối hợp nỗ lực một cách cấp bách hơn, một sự cấp bách đến từ liên hệ sâu xa giữa giáo lý công giáo về điểm này và cái nhìn về con người do Hội Thánh đề nghị: những nghi ngờ và những sai lầm trong lãnh vực hôn nhân và gia đình kéo theo việc làm lu mờ trầm trọng chân lý toàn vẹn về con người trong tình trạng văn hoá thường rất hỗn độn và lắm mâu thuẫn như hiện nay. Sự soi sáng và đào sâu mà người ta đang kêu gọi các nhà thần học đem lại để chu toàn trách vụ chuyên biệt của họ, quả thật có một giá trị vô song và là một việc phục vụ cho gia đình và cho nhân loại thật độc đáo và có công biết bao.

Trong cái nhìn toàn vẹn về con người và về ơn gọi của nó

32. Trong khung cảnh một nền văn hoá đang làm méo mó trầm trọng hoặc thậm chí đang làm mất đi ý nghĩa chân thật của tính dục con người, bằng cách tách rời tính dục ấy ra khỏi mối liên hệ thiết yếu của nó với nhân vị, Hội Thánh thấy rằng mình có sứ mạng cấp bách và không thể thay thế được là phải trình bày tính dục như một giá trị và như một sự dấn thân của mọi ngôi vị, được Thiên Chúa dựng nên là nam là nữ, theo hình ảnh của Ngài.

Trong viễn tượng ấy, Công đồng Va-ti-ca-nô II đã quả quyết rõ ràng rằng: “Khi cần hoà hợp tính vợ chồng với việc truyền sinh có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào sự chân thành của ý hướng và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính của nhân vị và của các hành động nơi nhân vị; những tiêu chuẩn ấy sẽ tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực; đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng”[86].

Chính vì khởi từ “cái nhìn toàn vẹn về con người và về ơn gọi của nó, ơn gọi không những có tính cách tự nhiên và trần thế nhưng còn là siêu nhiên và vĩnh cửu”[87] mà Đức Phao-lô VI đã quả quyết rằng giáo lý của Hội Thánh “được xây dựng trên mối liên hệ bất khả phân ly giữa sự kết hợp và truyền sinh, như là Thiên chúa đã muốn và con người không thể tự ý bẻ gãy”[88] và để kết luận, ngài lại quả quyết rằng phải loại bỏ, như một điều tự nó là xấu, mọi hành động được đề ra như mục đích hay như phương tiện để làm cho việc truyền sinh không thể có được, dù là hành động trước hành vi vợ chồng, hoặc đang khi hành vi này diễn tiến hoặc trong khi các hiệu quả tự nhiên của hành vi ấy đang phát triển”[89].

Khi đôi bạn bằng cách dùng các phương thế chống thụ thai, tách rời hai ý nghĩa mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong hữu thể người nam và người nữ cũng như trong tác động đầy năng lực hiệp thông tính dục của họ, họ đã coi mình là “trọng tài” cho ý định của Thiên Chúa, họ “xoay trở” và hạ giá tính dục của con người và cùng với tính dục hạ giá cả ngôi vị riêng của họ và của bạn họ vì làm suy thoái giá trị của việc trao hiến “trọn vẹn” cho nhau. Như thế, thay vì là cách biểu lộ tự nhiên diễn tả được sự trao hiến trọn vẹn cho nhau giữa vợ chồng, việc chống thụ thai là một kiểu biểu lộ mâu thuẫn ngược hẳn lại, theo đó không còn là tự hiến cho người kia một cách trọn vẹn; từ đó không những có sự chủ tâm khước từ không chịu mở ngõ cho sự sống, mà còn làm sai lệch sự thật bên trong của tình yêu vợ chồng, được mời gọi phải là một sự trao ban toàn thể ngôi vị.

Trái lại, khi đôi bạn bằng cách thuận theo những thời kỳ không thụ thai, tôn trọng mối dây bất khả phân ly giữa hai mặt kết hợp và truyền sinh của tính dục con người, họ đã coi mình là những “người thừa hành” ý định của Thiên Chúa và họ sử dụng tính dục như những “kẻ hưởng dùng”, theo tác động đầy năng lực từ nguyên thuỷ của việc trao hiến “trọn vẹn” chứ không hạ giá hay làm sai lạc[90]. Theo kinh nghiệm của bao nhiêu cặp vợ chồng và dựa vào những dữ kiện của các khoa học nhân bản khác nhau, suy tư thần học có thể nhận ra – và được mời gọi đào sâu thêm – sự khác biệt nhân học và đồng thời là sự khác biệt luân lý có saün giữa việc chống thụ thai và việc thuận theo sự tiết dục định kỳ: đó là một sự khác biệt còn quan trọng và sâu xa hơn người ta tưởng, và xét cho cùng, nó bao hàm hai quan niệm về ngôi vị và về tính dục con người không thể hoà đồng với nhau được.

Việc chọn theo những nhịp tự nhiên bao gồm sự chấp nhận thời gian của ngôi vị ở đây là chu kỳ của người nữ, và cũng là chấp nhận sự đối thoại, sự kính trọng lẫn nhau, tinh thần trách nhiệm chung, sự tự chủ. Đón nhận thời gian và sự đối thoại là nhìn nhận tính cách vừa tinh thần vừa thể xác của sự hiệp thông vợ chồng, và cũng là sống tình yêu ngôi vị theo như sự đòi hỏi phải trung thành của họ. Trong bối cảnh ấy, đôi bạn kinh nghiệm được sự kiện này là sự hiệp thông vợ chồng được phong phú hoá do các giá trị của việc âu yếm và yêu thương đang tạo nên bản chất sâu xa của tính dục con người, cả đến trong chiều kích thể lý của nó. Như thế tính dục được kính trọng và đề cao trong chiều kích nhân bản thực sự và trọn vẹn của nó, nhưng không bao giờ được “sử dụng” như một “đồ vật”, vì nếu coi như một đồ vật, nó sẽ làm tan rã sự thống nhất ngôi vị của linh hồn và thể xác, và làm phương hại đến công việc tạo thành của Thiên Chúa trong những liên hệ thâm sâu nhất nối kết bản tính với ngôi vị.

Hội Thánh là Mẹ và là Thầy cho những người phối ngẫu đang gặp khó khăn

33. Cả trong lãnh vực luân lý hôn nhân, Hội Thánh vẫn là Mẹ và là Thầy Dạy, và Hội Thánh hành động như thế.

Là Thầy Dạy, Hội Thánh không mỏi mệt trong việc loan truyền quy tắc luân lý nhằm hướng dẫn sự truyền sinh có trách nhiệm. Hội thánh không phải là tác giả hay trọng tài của một quy tắc như thế. Vâng theo sự thật là Đức Ki-tô, mà hình ảnh Người đang phản chiếu trong bản tính và phẩm giá của ngôi vị con người, Hội Thánh diễn giải quy tắc luân lý và nêu nó lên cho mọi người thiện chí, mà không che dấu những đòi hỏi của tinh thần triệt để và lý tưởng hoàn thiện.

Là Mẹ, Hội Thánh gần gũi với biết bao cặp vợ chồng đang gặp khó khăn trong lãnh vực quan trọng này của đời sống luân lý: Hội Thánh biết rõ tình cảnh của họ, thường rất đau đớn và nhiều khi còn thêm trầm trọng vì đủ thứ khó khăn cá nhân và xã hội. Hội Thánh biết rằng rất nhiều đôi bạn đang gặp những khó khăn như thế, cả trong việc thực hành cụ thể lẫn trong việc hiểu biết các giá trị hàm chứa trong nguyên tắc luân lý.

Tuy nhiên cũng một Hội Thánh duy nhất đó vừa là Thầy Dạy vừa là Mẹ. Hội Thánh vì thế không ngớt kêu gọi và khích lệ mọi người giải quyết các khó khăn hiện nay của hôn nhân mà không bao giờ làm sai lạc hay phương hại tới sự thật. Thật vậy, Hội Thánh xác tín rằng không thể có mâu thuẫn thật sự giữa luật Thiên Chúa về việc truyền sinh với luật Thiên Chúa đòi phải tạo thuận lợi cho một tình yêu vợ chồng đích thực[91]. Vì thế, khoa sư phạm cụ thể của Hội Thánh phải luôn luôn gắn liền với giáo lý của Hội Thánh và không bao giờ tách lìa khỏi giáo lý này. Với cùng một sự xác tín như của vị tiền nhiệm tôi, tôi xin lặp lại: “Không bỏ bớt điều gì trong giáo lý cứu độ của Đức Ki-tô, đó là hình thức đức ái trổi vượt đối với các linh hồn”[92].

Đàng khác khoa sư phạm của Hội Thánh chỉ tỏ ra được tính chất thực tế và sự khôn ngoan của nó khi biết cố gắng một cách mạnh dạn và can đảm để tạo nên và duy trì mọi điều kiện nhân bản – về tâm lý, luân lý và tinh thần – vốn không thể thiếu nếu muốn hiểu và sống được giá trị cũng như nguyên tắc luân lý.

Trong số các điều kiện, hẳn nhiên cần phải nhấn mạnh sự bền bỉ và kiên nhẫn, sự khiêm nhường và tâm hồn mạnh mẽ, lòng tín thác như con thơ vào Thiên Chúa và vào ơn Ngài, việc siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và Hoà giải[93]. Nhờ đó, được tăng sức, đôi bạn Ki-tô hữu có thể giữ được ý thức sống động về ảnh hưởng độc đáo mà ơn bí tích hôn phối tác động trên mọi khía cạnh cụ thể trong đời sống hôn nhân của họ, và cả trên tính dục của họ theo ý định của Thiên Chúa và nhờ dấu chỉ của tình yêu đang kết hợp Đức Ki-tô với Hội Thánh Ngài, là căn nguyên làm cho Hội Thánh phát sinh nhiều con cái.

Nhưng giữa các điều kiện cần thiết cũng phải kể đến “xác thể tính” và những tiết nhịp có thể thụ thai của nó. Theo nghĩa đó, cần phải làm tất cả những gì có thể làm được để mọi đôi bạn nhất là các vợ chồng trẻ đều đạt được một sự hiểu biết như thế, nhờ sự thông tin và giáo dục rõ ràng, kịp thời và nghiêm chỉnh, do những cặp vợ chồng, những y sĩ và những người chuyên môn phụ trách. Sự hiểu biết đó phải đưa đến chỗ giáo dục để biết kiềm chế: nhất là sự cần thiết phải có đức khiết tịnh và một sự giáo dục thường xuyên theo hướng ấy. Theo nhãn quan Ki-tô Giáo, đức khiết tịnh tuyệt nhiên không có nghĩa là phủ nhận hay miệt thị tính dục con người, nhưng đúng hơn nó là một năng lực tinh thần biết bảo vệ tình yêu khỏi những nguy hiểm của sự ích kỷ và của tính bạo động, và đưa tình yêu đến mức thể hiện trọn vẹn.

Đức Phao-lô VI, với một trực giác giàu khôn ngoan và đầy tình yêu, đã không làm gì khác hơn là đem kinh nghiệm của biết bao cặp vợ chồng diễn tả thành lời nói, khi ngài viết trong thông điệp của Ngài: “Việc dùng lý trí và ý chí tự do để làm chủ bản năng lẽ tất nhiên đòi phải có một sự khổ chế, vì chỉ có thể những biểu lộ tình yêu trong đời sống vợ chồng mới có thể điều hoà trong khuôn khổ, nhất là trong việc giữ sự tiết dục định kỳ. Những kỷ luật ấy, kỷ luật riêng của sự thanh khiết giữa đôi bạn không những không làm hại gì cho tình yêu vợ chồng mà còn đem lại cho tình yêu ấy một giá trị nhân bản rất cao. Kỷ luật ấy đòi phải luôn luôn cố gắng, nhưng nhờ ảnh hưởng tốt đẹp của nó, vợ chồng phát triển được toàn vẹn nhân cách của mình, và được làm giàu thêm bằng các giá trị tinh thần: nó đem lại cho đời sống gia đình những hoa quả về sự trong sáng và bình an, và giúp giải quyết các vấn đề khác; nó tạo thuận lợi cho người ta chú ý đến bạn mình, nó giúp cho vợ chồng tránh được tính ích kỷ là kẻ thù của tình yêu chân chính, và giúp họ đào sâu ý thức trách nhiệm để chu toàn các bổn phận của mình. Nhờ đó bậc cha mẹ sẽ có được khả năng ảnh hưởng sâu xa hơn và hữu hiệu hơn trong việc giáo dục con cái”[94].

Hành trình luân lý của đôi bạn

34. Có được một quan niệm đứng đắn về trật tự luân lý, về các giá trị và nguyên tắc của nó, bao giờ cũng là một điều rất quan trọng; và càng quan trọng hơn nữa khi các khó khăn trong việc thực hiện những điều ấy càng nhiều hơn và trầm trọng hơn.

Vì trật tự luân lý bày tỏ và nêu lên ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá, nên không thể nào có tính cách phi ngôi vị và cũng không thể là nguyên nhân gây cái chết cho con người. Ngược lại nó đáp ứng những đòi hỏi ghi khắc thật sâu thẳm trong con người đã được Thiên Chúa tạo dựng. Nó có mục đích phục vụ trọn vẹn cho nhân tính của con người, với một tình yêu tế nhị và đòi hỏi, tình yêu mà Thiên Chúa đã dùng để dựng nên và gìn giữ mọi tạo vật và hướng dẫn tạo vật đến hạnh phúc.

Nhưng, được mời gọi sống một cách có trách nhiệm ý định đầy khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa, con người lại là một hữu thể được đặt trong lịch sử. Ngày qua ngày, con người tự xây dựng lấy mình với rất nhiều chọn lựa tự do của nó. Như thế, nó hiểu biết, yêu mến và chu toàn sự thiện luân lý bằng cách theo sát các giai đoạn tăng trưởng.

Trong khung cảnh đời sống luân lý của họ, đôi bạn được mời gọi tiến bước không mỏi mệt, với sự nâng đỡ của khát vọng chân thành và hữu hiệu muốn hiểu bết hơn về những giá trị đã được luật Thiên Chúa đảm bảo và cổ võ, và với ý chí muốn cho các giá trị ấy được đưa vào trong các chọn lựa cụ thể của họ một cách thẳng thắn và quảng đại. Tuy nhiên họ không thể coi luật đó như chỉ thuần là một lý tưởng phải đạt đến trong tương lai, nhưng họ phải nhìn luật đó như là một mệnh lệnh của Đức Ki-tô Đấng đang truyền cho họ phải nghiêm chỉnh vượt qua các trở ngại. “Bởi thế, điều mà người ta thường gọi là “luật tiệm tiến” hay đường tiến từng bậc, không thể nào được đồng hoá với sự “chia luật thành từng bậc”, dường như trong luật Thiên Chúa có những cấp bậc và những hình thức luật buộc khác nhau, tùy theo người và theo những tình cảnh khác nhau. Theo ý định của Thiên Chúa, tất cả mọi đôi bạn đều được mời gọi sống thánh thiện trong hôn nhân, và ơn gọi này được thực hiện trong mức độ mà con người xét như ngôi vị có khả năng đáp trả lại luật buộc của Thiên Chúa, nhờ được sinh động bởi lòng tín thác bình an vào ơn sủng Thiên Chúa và vào ý muốn của Ngài”[95]. Cũng thế, khoa sư phạm của Hội Thánh có bổn phận phải làm sao để trước hết, các đôi bạn nhìn nhận rõ ràng giáo lý của thông điệp Sự Sống Con Người, như là nguyên tắc thực hành tính dục, đồng thời thật lòng quan tâm tạo những điều kiện cần thiết để tuân giữ những nguyên tắc ấy.

Như THĐGM đã nhấn mạnh, khoa sư phạm này bao gồm trọn cả đời sống. Như thế, mối bận tâm về truyền sinh cần được hội nhập vào trong toàn thể sứ mạng đời sống Ki-tô hữu, một đời sống mà nếu không có thập giá thì không thể nào đạt tới sự phục sinh. Trong bối cảnh ấy, người ta hiểu được rằng không thể nào loại bỏ sự hy sinh trong đời sống gia đình, nhưng trái lại, phải thật lòng chấp nhận nó, ngõ hầu tình yêu vợ chồng được đào sâu hơn và trở nên nguồn mạch cho sự vui tươi thân mật.

Con đường chung cho mọi người như thế đòi buộc sự suy nghĩ, sự thông tin và giáo dục tương xứng nơi các linh mục, tu sĩ và những giáo dân dấn thân cho mục vụ gia đình. Như thế, họ có thể giúp các đôi bạn trên con đường nhân bản và thiêng liêng. Con đường này bao gồm ý thức về tội lỗi, sự chân thành dấn thân tuân giữ luật luân lý, tác vụ hoà giải. Cũng cần nhớ luôn rằng trong tình thân mật vợ chồng, có các ý muốn của hai ngôi vị, nhưng phải làm sao để các ý muốn ấy được xếp đặt và suy nghĩ hoà hợp với nhau. Điều nầy đòi hỏi phải có sự kiên nhẫn, thông cảm và thời gian. Đặc biệt trong lãnh vực này, các linh mục cần có sự thống nhất trong những phán đoán luân lý và mục vụ. Linh mục cần phải tìm tòi kỹ lưỡng để thật sự có được sự thống nhất ấy, ngõ hầu các tín hữu khỏi phải đau khổ vì bị bối rối lương tâm[96].

Con đường của các đôi bạn sẽ được trở nên dễ dàng trong mức độ, một khi đã đầy lòng quí chuộng giáo lý của Hội Thánh, họ đầy lòng tin tưởng vào ân sủng Đức Ki-tô, cũng như được sự trợ giúp và đồng hành của các vị chủ chăn và toàn thể cộng đồng Hội Thánh, họ biết khám phá và cảm nghiệm được giá trị giải phóng và nâng cao của tình yêu chân chính, mà Tin Mừng đem lại và lệnh truyền của Chúa nêu lên.

Khơi dậy những xác tín và cống hiến một sự giúp đỡ cụ thể

35. Trước vấn đề phải làm sao để điều hoà sinh sản một cách chân chính, cộng đồng Hội Thánh ngày nay cần phải cố gắng để khơi dậy những xác tín và cống hiến một sự trợ giúp cụ thể cho những ai muốn sống việc làm cha làm mẹ một cách thật sự có trách nhiệm.

Trong lãnh vực này, Hội Thánh vui mừng vì những kết quả mà các nghiên cứu khoa học đã đạt được để nhận biết thời kỳ dễ thụ thai của phụ nữ cách chính xác hơn. Hội Thánh thúc đẩy để những nghiên cứu ấy được phát triển một cách sâu xa và quyết liệt hơn nữa. Nhưng đồng thời Hội Thánh cũng thấy còn phải tha thiết van xin tinh thần trách nhiệm của tất cả những ai – các y sĩ, chuyên viên, cố vấn gia đình, các nhà giáo dục và các cặp vợ chồng – đang có thể giúp một cách hữu hiệu cho các đôi bạn, để những người này sống tình yêu của mình trong sự kính trọng các mục tiêu và cơ cấu của hành vi vợ chồng diễn tả tình yêu ấy. Điều đó có nghĩa là cần có những cố gắng rộng rãi hơn quyết liệt hơn và có hệ thống hơn nữa để làm cho người ta hiểu biết, quý chuộng và thực hành những phương pháp tự nhiên giúp điều hoà sinh sản[97].

Thật là một lời chứng quí hoá có thể có được và phải có được do các đôi bạn, khi họ biết cố gắng tiết dục định kỳ để đạt được một tinh thần trách nhiệm cá nhân chín chắn hơn trước tình yêu và sự sống. Như Đức Phao-lô VI đã viết: “Thiên Chúa đã trao phó cho chính các đôi bạn, trách vụ làm cho người ta thấy được sự thánh thiện và dịu dàng của lề luật đang nối kết mối tình đôi bạn yêu thương nhau với việc họ cộng tác vào tình yêu của Thiên Chúa, là tác giả của sự sống con người”[98].

2. Việc giáo dục

Quyền và bổn phận giáo dục của cha mẹ

36. Bổn phận giáo dục bắt nguồn từ trong ơn gọi đầu tiên của đôi bạn là dự phần vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa: khi sinh ra một ngôi vị mới trong tình yêu và do tình yêu, một ngôi vị mang sẵn nơi mình ơn gọi phải lớn lên và phát triển, bậc cha mẹ cũng từ đó mà lãnh nhận bổn phận phải giúp đỡ hữu hiệu cho ngôi vị ấy được sống một đời sống nhân bản trọn vẹn. Như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã nhắc lại: “Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được. Thật vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện của con cái họ trong đời sống cá nhân và xã hội được dễ dàng. Do đó gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội mà không một đoàn thể nào khác có thể vượt qua được”[99].

Vì cha mẹ đã sinh ra con cái nên quyền và bổn phận giáo dục là một điều nằm trong yếu tính của họ; vì tương quan giữa họ với con cái là một tình yêu không thể thay thế được, nên quyền và bổn phận giáo dục của họ có tính cách độc đáo và cơ bản so với bổn phận giáo dục của những người khác, đó cũng là một cái gì không thể thay thế và không thể chuyển nhượng được, cho nên cũng không thể khoán trắng cho người khác hay bị người khác cưỡng đoạt.

Ngoài những đặc điểm ấy, người ta cũng không thể quên rằng yếu tố gốc rễ nhất, có tính cách định tính cho bổn phận giáo dục của cha mẹ, chính là tình phụ tử và tình mẫu tử, tình yêu này được hoàn thành trong công cuộc giáo dục khi nó bổ túc và hoàn thiện trọn vẹn công việc phục vụ sự sống của họ. Như một nguồn mạch, tình yêu thương của cha mẹ trở thành linh hồn và là nguyên tắc gợi hứng và hướng dẫn tất cả hành động giáo dục cụ thể, bằng cách phong phú hoá nó với những giá trị như sự dịu dàng, kiên trì, nhân hậu, phục vụ vô vị lợi, tinh thần hy sinh, là những bông hoa quí báu nhất của tình yêu.

Giáo dục theo chiều hướng các giá trị chính yếu của đời người

37. Dù phải đương đầu với những khó khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn to lớn trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha mẹ cần phải tin tưởng và can đảm giáo dục con cái họ theo những giá trị chính yếu của đời người. Trẻ em phải lớn lên trong một sự tự do chân chính trước các của cải vật chất, biết chọn một nếp sống giản dị và khắc khổ, vì xác tín mạnh mẽ rằng: “giá trị của con người là do cái mình làm, hơn là do cái mình có”[100].

Trong một xã hội đã bị lung lay và phân hoá do những căng thẳng và xung khắc vì sự đối đầu khốc liệt giữa các chủ nghĩa cá nhân và ích kỷ đủ loại, trẻ em cần phải có được ý thức về sự công bằng đích thực, vì chỉ có sự công bằng ấy mới đưa đến sự kính trọng phẩm giá ngôi vị của từng người. Hơn thế nữa, chúng ta phải có ý thức về tình yêu đích thực, tình yêu dệt bằng mối quan tâm chân thành và việc phục vụ vô vị lợi đối với kẻ khác và đặc biệt là đối với những người nghèo nhất và những người cần được giúp đỡ nhất. Gia đình là trường học đầu tiên, trường học căn bản về đời sống xã hội; như một cộng đồng yêu thương, gia đình nhận ra rằng tự hiến mình là qui luật hướng dẫn gia đình và làm cho gia đình tăng trưởng. Sự hiến mình đang làm cho tương quan giữa đôi bạn với nhau được sinh động chính là kiểu mẫu và nguyên tắc cho sự hiến mình cần có giữa anh chị em trong nhà và giữa những thế hệ khác nhau đang cùng sống trong gia đình. Sự hiệp thông và chia sẻ được thể hiện mỗi ngày tại gia đình, trong những lúc vui mừng cũng như khó khăn, chính là khoa sư phạm cụ thể nhất và hữu hiệu nhất để làm cho trẻ em có thể hội nhập vào trong khung cảnh lớn hơn, tức là xã hội, một cách tích cực, có trách nhiệm và kết quả.

Việc giáo dục tình yêu như sự tự hiến còn giúp cha mẹ có được những tiền đề cần thiết để cống hiến cho con cái họ một sự giáo dục tính dục rõ ràng và tế nhị. Trước một văn hoá đang biến phần lớn tính dục con người thành chuyện tầm thường, cả trong cách diễn giải lẫn trong cách sống quá thu hẹp và nghèo nàn, cũng như chỉ liên kết tính dục với thể xác và với lạc thú ích kỷ, việc phục vụ giáo dục của cha mẹ càng phải cương quyết nhắm đến một nền văn hoá tính dục là một sự phong phú của toàn thể ngôi vị. Thật vậy, tính dục là một sự phong phú của toàn thể ngôi vị – thể xác, tình cảm, linh hồn – và biểu lộ ý nghĩa thâm sâu của nó bằng cách đưa ngôi vị ấy đến chỗ tự hiến mình trong tình yêu.

Việc giáo dục tính dục – là quyền lợi và bổn phận căn bản của cha mẹ – phải luôn luôn được thực hiện dưới sự hướng dẫn chu đáo của cha mẹ, tại gia đình cũng như ở các trung tâm giáo dục được cha mẹ chọn lựa và kiểm soát. Hội Thánh nhắc lại định luật hỗ trợ mà trường học cần phải tuân theo khi cộng tác vào việc giáo dục tính dục, là phải đặt mình trong tinh thần của bậc làm cha làm mẹ.

Trong bối cảnh ấy, không thể nào chối bỏ việc giáo dục đức khiết tịnh, là nhân đức làm phát triển sự trưởng thành đích thực của ngôi vị, làm cho ngôi vị có khả năng kính trọng và nâng cao ý nghĩa hôn nhân của thân xác. Hơn nữa, cha mẹ Ki-tô hữu cần dành một sự chú ý và chăm sóc đặc biệt để nhận ra những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa muốn mời gọi họ giáo dục sự trinh khiết, như một hình thức tuyệt vời của sự tự hiến làm nên chính ý nghĩa cho tính dục con người.

Vì có những liên hệ chặt chẽ giữa chiều kích tính dục của ngôi vị với các giá trị luân lý, nên vai trò của việc giáo dục là hướng dẫn trẻ em đến việc hiểu biết và quí chuộng các nguyên tắc luân lý như những bảo đảm cần thiết và quí giá cho một sự trưởng thành cá nhân có trách nhiệm trong lãnh vực tính dục con người.

Chính vì thế Hội Thánh cực lực chống lại một số hình thức thông tin về tính dục không để ý gì đến các quy tắc luân lý, mà lại thường rất được phổ biến ngày nay, một sự thông tin chẳng khác gì một bài dẫn nhập vào kinh nghiệm lạc thú, và đẩy người trẻ, lắm khi ngay ở tuổi còn rất non dại, đến chỗ đánh mất sự tươi sáng và mở đường cho tật xấu.

Sứ mạng giáo dục và bí tích hôn nhân

38. Chẳng những bắt nguồn từ việc dự phần vào cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, sứ mạng giáo dục của các cha mẹ Ki-tô hữu còn được bắt nguồn một cách mới mẻ và chuyên biệt nơi bí tích Hôn Phối, là bí tích thánh hiến họ để lo việc giáo dục Ki-tô giáo đích thực cho con cái và do đó bí tích ấy cũng mời gọi họ dự phần vào chính quyền bính và tình yêu của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô Mục Tử, cũng như vào tình mẫu tử của Hội Thánh. Nó còn làm cho họ được giàu thêm các ơn khôn ngoan, lo liệu và sức mạnh cùng tất cả những ơn khác của Thánh Thần, ngõ hầu có thể giúp cho con cái họ được lớn lên về mặt nhân bản và Ki-tô giáo.

Nhờ Bí tích Hôn nhân, sứ mạng giáo dục được nâng lên thành phẩm giá và ơn gọi của một “thừa tác vụ” đích thực trong Hội Thánh để phục vụ việc xây dựng các chi thể của Hội Thánh. Thừa tác vụ giáo dục của các cha mẹ Ki-tô hữu thật lớn lao và thật đẹp, đến nỗi thánh Tô-ma không ngần ngại so sánh nó với thừa tác vụ của các linh mục: “Có những người truyền bá và nuôi dưỡng sự sống thiêng liêng, và điều này được thực hiện do bí tích Hôn Nhân, trong đó người nam và người nữ kết hợp với nhau để sinh ra con cái và giáo dục cho chúng biết thờ phượng Thiên Chúa”[101].

Ý thức sắc bén và sáng suốt về sứ mạng mà bí tích Hôn Phối trao ban cho họ, các cha mẹ Ki-tô hữu sẽ hiến thân cho công cuộc giáo dục con cái, với một sự trong sáng và đồng thời với ý thức về trách nhiệm của họ trước mặt Thiên Chúa, Đấng đang kêu gọi họ và giao cho họ việc xây dựng Hội Thánh nơi con cái họ. Như thế, gia đình những người đã được rửa tội, được Lời Chúa và bí tích qui tụ như là Hội Thánh tại gia, cũng đồng thời trở thành mẹ và thầy dạy, như Hội Thánh toàn cầu.

Kinh nghiệm đầu tiên về Hội Thánh

39. Sứ mạng giáo dục đòi hỏi cha mẹ Ki-tô hữu phải đem lại cho con cái tất cả những gì cần thiết để dần dần giáo dục cho chúng một nhân cách theo quan điểm Ki-tô giáo và Hội Thánh. Họ sẽ lấy lại những định hướng giáo dục đã nhắc tới trên kia, bằng cách lo sao để chỉ cho các con thấy ý nghĩa sâu xa của những điều ấy, ý nghĩa mà đức tin cũng như lòng yêu mến Đức Giê-su Ki-tô sẽ có thể đưa chúng đến. Ngoài ra, trong khi họ bận tâm củng cố ân sủng Thiên Chúa đã ban trong linh hồn con cái, cha mẹ Ki-tô hữu sẽ được nâng đỡ nhờ ý thức rằng Chúa đang ký thác cho họ sự tăng trưởng của một người con Thiên Chúa, một người em của Đức Ki-tô, một đền thờ của Chúa Thánh Thần và một chi thể của Hội Thánh.

Công Đồng Va-ti-ca-nô II xác định nội dung của việc giáo dục Ki-tô giáo như sau: “Việc giáo dục này không những chỉ giúp nhân vị được trưởng thành…nhưng còn nhằm giúp những người rửa tội trong khi họ được hướng dẫn để dần dần hiểu biết mầu nhiệm cứu rỗi, càng ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng Thiên Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (×. Ga 4,23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ cũng như được huấn luyện để biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Ep 4,22-24), và nhờ vậy, họ đạt tới con người toàn thiện, chín chắn, đạt tới sự sung mãn của Đức Ki-tô (×. Ep 4,13), góp phần làm cho Nhiệm Thể được tăng trưởng. Hơn nữa, vì ý thức được ơn gọi của mình, chính họ phải tập quen làm chứng về niềm cậy trông nơi họ (×. 1 Pr 3,15) đồng thời phải giúp vào việc biến đổi thế giới theo tinh thần Ki-tô giáo”[102]. Khi lấy lại và khai triển các nét lớn trong giáo huấn của Cộng đồng, THĐGM đã trình bày sứ mạng giáo dục của gia đình Ki-tô hữu như một thừa tác vụ đích thực, nhờ thừa tác vụ ấy Tin Mừng được thông truyền và phổ biến, đến nỗi xét trong toàn bộ, đời sống gia đình trở thành con đường đức tin, và một cách nào đó, trở thành sự khai tâm Ki-tô giáo và là trường học đời sống, dạy cho ta noi gương Đức Ki-tô. Trong một gia đình ý thức được về ơn Chúa ban như vậy, thì đúng như Đức Phao-lô VI đã viết: “Mọi phần tử đều loan báo Tin Mừng và đều được loan báo Tin Mừng”[103].

Nhờ kết quả của thừa tác vụ giáo dục, qua chứng từ đời sống, cha mẹ là những người đầu tiên loan báo Tin Mừng cho con cái. Hơn nữa, khi cùng cầu nguyện với chúng, khi cùng với chúng lao mình vào việc đọc Lời Chúa, và khi làm cho chúng sống thân mật trong thân thể Đức Ki-tô – cả nơi bí tích Thánh Thể và nơi Hội Thánh – bằng việc khai tâm Ki-tô giáo, họ trở nên cha mẹ theo nghĩa trọn vẹn, nghĩa là không những họ sinh ra chúng theo sự sống phần xác mà còn theo cả sự sống tuôn trào từ thập giá và sự phục sinh của Đức Ki-tô, khi chúng được tái sinh trong Thần Khí.

Để giúp cha mẹ Ki-tô hữu chu toàn được tác vụ giáo dục của họ cách thích hợp, các nghị phụ THĐGM mong ước rằng một cuốn giáo lý dùng cho gia đình sẽ được soạn thảo với một bản văn thích nghi trong sáng, ngắn gọn và dùng được cho mọi người. THĐGM tha thiết mời gọi các Hội Đồng Giám Mục hãy làm việc để soạn thảo cuốn giáo lý ấy.

Tương quan với các cấp giáo dục khác

40. Gia đình là cộng đồng giáo dục đầu tiên, nhưng không phải là cộng đồng độc nhất hoặc lẻ loi : chính vì con người có chiều kích cộng đồng, cả về phía dân sự lẫn phía Hội Thánh, nên cần phải có và cần phải làm dấy lên một công cuộc giáo dục rộng lớn và phức tạp hơn, do sự cộng tác có tổ chức của những cấp giáo dục khác nhau thực hiện. Tất cả những cơ chế này đều cần thiết, mặc dù mỗi cơ chế chỉ có thể và phải can thiệp theo thẩm quyền của mình và mang lại sự đóng góp riêng[104]. Như vậy trách nhiệm giáo dục của gia đình Ki-tô hữu chiếm một chỗ rất quan trọng trong công cuộc mục vụ toàn diện: điều ấy giả thiết phải có một hình thức cộng tác mới giữa bậc cha mẹ và các cộng đồng Ki-tô hữu, giữa các nhóm giáo dục khác nhau và các chủ chăn. Và như thế, trong việc canh tân trường công giáo phải đặc biệt chú ý đến cả các cha mẹ học sinh lẫn việc đào tạo một cộng đồng giáo dục hoàn hảo.

Phải tuyệt đối bảo đảm cho cha mẹ được quyền chọn một nền giáo dục phù hợp với đức tin của họ.

Hội Thánh và quốc gia có bổn phận đem lại cho các gia đình sự trợ giúp cần thiết để họ có thể thực hành các nhiệm vụ giáo dục của họ cách thích hợp. Trong mục đích ấy, cả Hội Thánh và quốc gia đều phải tạo nên và cổ võ những cơ chế và những hoạt động mà các gia đình đang chờ đợi một cách chính đáng. Sự giúp đỡ ấy sẽ phải làm thế nào để bổ túc những thiếu sót của các gia đình. Và như vậy, tất cả những ai đang đứng đầu các trường học, đều không bao giờ được quên rằng, cha mẹ đã được chính Thiên Chúa đặt làm những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu cho con cái của họ, và đó là một quyền tuyệt đối không thể chuyển nhượng.

Nhưng cùng với quyền lợi của họ, cha mẹ có trách nhiệm nặng nề phải làm tất cả những gì họ có thể làm để giữ được các tương quan thân ái và có giá trị xây dựng với các nhà giáo dục và những người phụ trách các trường học.

Nếu trong các trường người ta dạy những ý thức hệ trái ngược hẳn với đức tin Ki-tô giáo, thì gia đình, liên kết với các gia đình khác – nếu được, qua trung gian của các hiệp hội gia đình – phải làm hết sức mình và thật khôn khéo để giúp cho các bạn trẻ khỏi lạc xa đức tin. Trong những điều kiện như thế, gia đình cần nhận được những trợ giúp đặc biệt từ phía những vị chăn dắt các linh hồn, và các vị này không thể quên rằng cha mẹ có quyền ký thác con cái họ cho cộng đồng Hội Thánh và đây cũng là một quyền không thể chuyển nhượng.

Việc phục vụ sự sống bằng nhiều hình thức

41. Tình yêu phong nhiêu của vợ chồng được diễn tả trong việc phục vụ sự sống bằng nhiều hình thức, mà sự truyền sinh và giáo dục là những dấu chỉ hữu hình nhất, đồng thời cũng là những dấu chỉ chuyên biệt và không thể thay thế được. Nhưng trong thực tế, mọi hành vi yêu thương đích thực đối với con người đều làm chứng cho sự phong nhiêu tinh thần của gia đình và hoàn thiện nó, vì hành vi ấy đang tuân theo sức năng động sâu xa từ bên trong của tình yêu xét như là sự hiến mình cho người khác.

Những cặp vợ chồng đang phải son sẻ có thể theo một cách thế thật đặc biệt biến viễn tượng ấy thành viễn tượng riêng của mình, một viễn tượng thật phong phú và đòi hỏi đối với tất cả mọi người.

Các gia đình Ki-tô hữu đang biết lấy đức tin mà nhìn nhận mọi người đều là con cùng một Cha trên trời, sẽ mở lòng ra quảng đại đón nhận những đứa con của các gia đình khác, đem lại cho chúng sự nâng đỡ và tình yêu mà các phần tử trong gia đình duy nhất của các con cái Thiên Chúa đều đáng được. Như thế cha mẹ Ki-tô hữu có thể toả sáng tình yêu của họ vượt khỏi các liên hệ máu mủ, để đào sâu các liên hệ phát xuất từ tinh thần và đang phát triển trong việc họ giúp đỡ cụ thể cho những đứa con của các gia đình khác, đang thiếu thốn cả đến những nhu cầu sơ đẳng nhất.

Các gia đình Ki-tô hữu còn có thể mở rộng hơn để saün sàng đón nhận và chịu trách nhiệm trông nom những trẻ em mất cha mẹ hoặc bị cha mẹ bỏ rơi. Các trẻ em này, khi tìm lại được một bầu không khí gia đình ấm áp, sẽ có thể kinh nghiệm được tình thương phụ tử chu đáo của Thiên Chúa, qua chứng tích của các cha mẹ Ki-tô hữu, và như thế chúng có thể lớn lên trong sự tươi sáng và tin tưởng vào đời sống; về phần mình, toàn thể gia đình đều sẽ được phong phú hoá thêm do những giá trị tinh thần chứa đựng trong một tình huynh đệ mở rộng.

Sự phong nhiêu của gia đình phải được đánh dấu bằng một “khả năng sáng tạo” không ngừng: đó chính là hoa quả kỳ diệu của Thần Khí Thiên Chúa đang làm cho đôi mắt của trái tim mở thật lớn để khám phá ra những nhu cầu và những đau khổ mới trong xã hội chúng ta và chính Thần Khí đang ban sức mạnh cho ta được lãnh nhận lấy chúng và đem lại cho chúng lời giải đáp thoả đáng. Trong bối cảnh ấy, các gia đình có thể thấy trước mắt mình có cả một địa bàn hành động thật bao la. Quả thế, ngày nay có một hiện tượng những người già, những bệnh nhân, những người tàn tật, những người nghiện ma tuý, những kẻ mãn hạn tù v…v….đang phải sống ngoài lề cuộc sống xã hội và văn hoá.

Như thế những chân trời của tình phụ tử và mẫu tử Ki-tô giáo đang mở rộng thật đáng kể: sự phong nhiêu tinh thần trong tình yêu của họ như thể bị thách đố do những chuyện khẩn cấp ấy và bao nhiêu chuyện khẩn cấp khác nữa trong thời đại chúng ta. Cùng với các gia đình và qua họ, Chúa vẫn đang tiếp tục “thương xót” đám đông.

 

III. THAM DỰ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

Gia đình, tế bào đầu tiên và sống động của xã hội

42. Bởi vì “Đấng Tạo hoá đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người”, nên gia đình trở thành “tế bào đầu tiên và sống động của xã hội”[105].

Gia đình có những liên hệ chặt chẽ và sống động xã hội vì nó làm thành nền tảng cho xã hội và không ngừng tiếp sức cho xã hội bằng việc phục vụ sự sống: chính giữa lòng gia đình đã sinh ra các công dân, và chính trong gia đình mà các công dân ấy lần đầu tiên thực tập các nhân đức xã hội, là linh hồn cho sinh hoạt và sự phát triển xã hội.

Như thế, vì bản chất và ơn gọi của nó, thay vì đóng khung trên chính mình, gia đình rộng mở đến những gia đình khác và đến xã hội, và chu toàn vai trò xã hội của mình.

Đời sống gia đình : kinh nghiệm hiệp thông và chia sẻ

43. Chính kinh nghiệm về sự hiệp thông và chia sẻ phải là đặc điểm cho đời sống thường nhật của gia đình, và tạo nên phần thiết yếu và căn bản mà gia đình đóng góp được cho xã hội.

Các tương quan giữa những phần tử trong cộng đồng gia đình được phát triển dưới sự thúc đẩy và hướng dẫn của luật “cho không” bằng cách kính trọng và vun trồng nơi mọi người cũng như nơi mỗi người, ý thức về phẩm giá con người như nguồn giá trị duy nhất, cụ thể hoá trong sự tiếp đón nồng nhiệt, gặp gỡ và đối thoại, quảng đại saün sàng phục vụ vô vị lợi và tương trợ sâu xa…

Như vậy, phát huy sự hiệp thông đích thực giữa những ngôi vị có trách nhiệm trong gia đình trở thành một việc thực tập căn bản và không thể thay thế được cho đời sống xã hội, một gương mẫu và là một khích lệ cho các tương quan cộng đồng mở rộng, được đánh dấu bằng các đức tính: kính trọng, công bằng, ý thức đối thoại, tình yêu.

Bằng cách ấy, như các nghị phụ THĐGM đã nhắc lại, gia đình làm nên cái nôi và là phương tiện hữu hiệu nhất để nhân bản hoá và ngôi vị hoá xã hội: chính gia đình hoạt động cách độc đáo và sâu xa cho công cuộc kiến tạo thế giới, giúp đem lại được một đời sống thực sự nhân đạo, cách riêng là bảo tồn và truyền đạt các nhân đức và các “giá trị”. Như Công Đồng Va-ti-ca-nô II nói : gia đình là “nơi mà nhiều thế hệ gặp gỡ và giúp đỡ nhau trở nên khôn ngoan đầy đủ hơn cũng như giúp nhau hoà hợp những quyền lợi cá nhân với những đòi hỏi khác của cuộc sống xã hội”[106].

Chính vì thế, đứng trước một xã hội càng ngày càng có nguy cơ làm cho con người mất nhân vị và trở thành vô danh tức là một xã hội phi nhân và có sức phi nhân hoá với những hậu quả tiêu cực dưới biết bao hình thức “chạy trốn” – như uống rượu, dùng ma tuý, hoặc cả đến nạn khủng bố – ngày nay gia đình vẫn còn làm chủ và chiếu toả những năng lực phi thường có thể kéo con người ra khỏi sự vô danh, thức tỉnh con người ý thức lại phẩm giá của mình, mặc lại cho con người một nhân tính sâu xa, và tích cực đưa dẫn con người với sự duy nhất và độc đáo của nó vào trong mạch sống xã hội.

Vai trò xã hội và chính trị

44. Vai trò xã hội của gia đình chắc chắn không thể giới hạn vào việc truyền sinh và giáo dục, cho dù hai công việc này là hình thức đầu tiên không thể thay thế được để diễn tả vai trò ấy.

Gia đình, dù biệt lập hay kết thành hiệp hội, đều có thể và phải dấn thân cho nhiều công cuộc phục vụ xã hội, cách riêng là lo cho những người nghèo và trong mọi trường hợp, lo cho những người và những tình cảnh mà các tổ chức từ thiện và cứu tế công cộng không thể lo hết được.

Sự đóng góp xã hội của gia đình có cái độc đáo riêng mà càng ngày người ta càng thấy rõ và càng phải tích cực cổ võ nhiều hơn, nhất là khi con cái bắt đầu lớn dần, để làm cho tất cả mọi thành phần trong gia đình đều tham gia hết sức có thể[107].

Về điểm này, trong xã hội chúng ta cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng lớn của lòng hiếu khách, dưới mọi hình thức của nó hoặc chỉ đơn giản là để mở rộng cửa nhà mình, và hơn nữa, mở rộng lòng mình trước những nhu cầu của anh chị em chúng ta, hoặc còn đi đến chỗ dấn thân cụ thể để bảo đảm cho mỗi gia đình có được nơi ăn chốn ở cần thiết như một môi trường tự nhiên để bảo vệ và làm cho gia đình được phát triển. Và trên tất cả, gia đình Ki-tô hữu được mời gọi lắng nghe lời khuyến dụ của thánh Tông Đồ: “Hãy ân cần cho khách trọ nhà”[108], và do đó, theo chân Đức Ki-tô và với tình bác ái của Ngài, họ còn được mời gọi hãy tiếp rước những anh chị đang gặp cảnh thiếu thốn: “Kẻ nào cho một người trong những kẻ bé mọn này uống một bát nước lã mà thôi, vì danh nghĩa là môn đệ của Thầy, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”[109].

Vai trò xã hội của gia đình còn được mời gọi diễn tả dưới hình thức, can thiệp chính trị: chính các gia đình là những kẻ đầu tiên phải làm sao để các luật lệ và cơ chế của nhà nước không những đừng làm tổn thương các quyền lợi và bổn phận của gia đình, nhưng còn nâng đỡ và bảo vệ chúng một cách tích cực. Về điểm này, gia đình cần có một ý thức càng lúc càng mạnh mẽ rằng, mình là những người đi đầu của điều mệnh danh là”chính sách gia đình”, và mình phải lãnh lấy trách nhiệm biến đổi xã hội; nếu không chính gia đình sẽ là nạn nhân đầu tiên của những điều xấu vì đã thụ động và lãnh đạm đứng nhìn. Lời Công Đồng Va-ti-ca-nô II mời gọi vượt lên trên thứ luân lý cá nhân chủ nghĩa cũng là mời gọi các gia đình với tư cách là gia đình[110].

Xã hội phục vụ gia đình

45. Tương quan chặt chẽ giữa gia đình và xã hội một đàng đòi hỏi gia đình phải mở rộng và tham gia vào xã hội cũng như tham gia vào việc phát triển xã hội, đàng khác lại đòi xã hội không được thiếu sót trong bổn phâïn nền tảng của nó là tôn trọng và thăng tiến gia đình.

Chắc chắn gia đình và xã hội có những vai trò bổ sung cho nhau trong việc bảo vệ và thăng tiến công ích cho hết mọi người và cho con người toàn diện. Nhưng xã hội, và đúng hơn nữa là quốc gia, phải nhận rằng gia đình là “một xã hội được hưởng một quyền lợi riêng biệt và ưu tiên”[111], do đó trong những gì liên hệ tới tương quan giữa họ và gia đình, họ có nghĩa vụ trọng yếu phải theo đúng nguyên tắc hỗ trợ gia đình.

Theo nguyên tắc ấy, quốc gia không được tước mất những trách nhiệm mà gia đình có thể tự mình chu toàn lấy cách tốt đẹp, hoặc một mình hoặc bằng cách tự ý liên kết với những gia đình khác; trái lại quốc gia phải hết sức tạo điều kiện thuận lợi và khơi động những sáng kiến có trách nhiệm của gia đình. Xác tín được rằng, thiện ích qua gia đình đối với cộng đồng dân sự là một giá trị khẩn thiết mà người ta không thể từ bỏ, quyền bính công cộng phải hết sức xả thân để cung ứng cho các gia đình mọi sự trợ giúp – về kinh tế, xã hội, giáo dục, chính trị, văn hoá – mà họ cần có để hoàn thành các nghĩa vụ của họ một cách thật sự nhân bản.

Hiến chương về quyền gia đình

46. Hành động hỗ tương để nâng đỡ và phát triển lẫn nhau giữa gia đình và xã hội là một lý tưởng thường bị các sự kiện thực tế đối ngược hẳn lại, lắm khi thật trầm trọng, theo đó người ta chỉ thấy có sự chia cách, có khi còn là đối nghịch giữa gia đình và xã hội.

Quả thế, như THĐGM vẫn hằng lưu ý, tình cảnh của rất nhiều gia đình, thuộc nhiều nước khác nhau thật đáng đặt thành vấn đề, ngay cả khi tình cảnh ấy đúng ra không đến nỗi xấu: ngược với công lý, các luật pháp và cơ chế không nhìn nhận những quyền bất khả xâm phạm của gia đình và ngay cả của nhân vị, và thay vì tự đặt mình phục vụ các gia đình, xã hội lại tấn công gia đình một cách tàn bạo các giá trị, và các yêu cầu của gia đình. Như thế, trong khi theo ý định của Thiên Chúa, gia đình là tế bào căn bản của xã hội, làm chủ những quyền lợi và bổn phận có trước các quyền lợi và bổn phận của quốc gia hay bất cứ một cộng đồng nào khác, thì nó lại đang là nạn nhân của xã hội, của sự trì trệ và chậm trễ không chịu can thiệp, và hơn nữa của những bất công rõ rệt trong xã hội.

Chính vì thế Hội Thánh công khai và mạnh mẽ đứng ra bảo vệ các quyền của gia đình chống lại những lạm dụng không thể dung thứ của xã hội và của nhà nước. Về phần các nghị phụ THĐGM, trong những quyền lợi của gia đình, các Ngài đề cập đến những quyền sau đây :

  • Quyền được hiện hữu và được triển nở trong tư thế của gia đình, nghĩa là tất cả mọi người và cách riêng là những người nghèo đều được lập gia đình và duy trì gia đình mình bằng những phương tiện thích hợp.
  • Quyền thi hành sứ mạng của mình trong tất cả những gì liên hệ tới việc truyền sinh và giáo dục con cái.
  • Quyền được sống thân mật trong cuộc sống hôn nhân cũng như gia đình.
  • Quyền có sự bền vững trong liên hệ vợ chồng và trong cơ chế hôn nhân.
  • Quyền tin và tuyên xưng lòng tin của mình cũng như truyền bá lòng tin ấy.
  • Quyền giáo dục con cái đúng với những truyền thống riêng của gia đình, đúng với những giá trị tôn giáo và văn hoá của nó, nhờ những dụng cụ, những phương tiện và những cơ chế cần thiết.
  • Quyền được hưởng sự an ninh thể lý, xã hội, chính trị, kinh tế, nhất là đối với những người nghèo và những người đau yếu.
  • Quyền có được nhà ở thích hợp với một đời sống gia đình lành mạnh.
  • Quyền được phát biểu và đại diện trước các quyền bính công cộng, kinh tế, xã hội và văn hoá, cũng như trước cơ quan trực thuộc, hoặc một cách trực tiếp hoặc qua trung gian các hiệp hội.
  • Quyền thiết lập những hiệp hội với những gia đình khác và những cơ chế khác, để chu toàn sứ mạng của mình một cách thích hợp và với đầy đủ khả năng.
  • Quyền bảo vệ các trẻ vị thành niên bằng những cơ chế và những luật lệ thích hợp để chống lại ma tuý, phim ảnh khiêu dâm, nạn uống rượu…
  • Quyền có những giải trí lành mạnh, nhằm hậu thuẫn cho các giá trị gia đình.
  • Quyền của những người già được sống và được chết cách xứng đáng.
  • Quyền di dân toàn gia đình để mưu tìm những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn[112].

Toà Thánh tiếp nhận lời yêu cầu minh nhiên của THĐGM, và sẽ để tâm đào sâu những gợi ý đó, soạn ra một “hiến chương những quyền lợi của gia đình” để nêu ra cho các cấp liên quan tới vấn đề này và trình lên cho các thẩm quyền liên hệ.

Ân sủng và trách nhiệm của gia đình Ki-tô hữu

47. Vai trò xã hội độc đáo của mọi gia đình cũng là vai trò xã hội của gia đình Ki-tô hữu, nhưng theo một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt hơn, vì gia đình này được Bí tích Hôn Phối thiết lập. Khi đảm nhận thực tại nhân loại của tình yêu vợ chồng trong mọi chiều kích của nó, Bí tích Hôn Phối làm cho đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu có khả năng sống ơn gọi giáo dân – và đó là trách nhiệm của họ – và do đó có khả năng “tìm kiếm Nước Thiên Chúa cách chính xác qua việc quản trị các thực tại trần thế mà họ đang xếp đặt theo ý Thiên Chúa”[113].

Vai trò xã hội và chính trị là một phần trong sứ mạng vương đế, tức là sứ mạng phục vụ, mà các vợ chồng Ki-tô hữu được dự phần nhờ Bí tích Hôn Phối, khi họ vừa nhận lấy một lệnh truyền mà họ không thể trốn tránh, vừa nhận lấy một ân sủng có sức nâng đỡ và sinh động cuộc đời họ.

Như thế gia đình Ki-tô hữu được mời gọi làm chứng cho mọi người thấy sự tận tâm quảng đại và vô vị lợi của mình đối với những vấn đề xã hội, mà ưu tiên là lo cho những người nghèo và những người bị bỏ rơi. Chính vì thế, khi bước theo Chúa trong một tình yêu thương đặc biệt đối với tất cả mọi người nghèo, gia đình Ki-tô hữu phải lưu tâm riêng đến những ai đói khát, túng thiếu, già cả, những ai bị đau ốm, nghiện ngập hoặc không có gia đình.

Tiến tới một trật tự quốc tế mới

48. Đứng trước chiều kích toàn cầu đang là đặc điểm của những vấn đề xã hội khác nhau ngày nay, gia đình thấy rằng trong những gì liên hệ đến sự phát triển xã hội, vai trò của gia đình được mở rộng ra một cách hoàn toàn mới mẻ: đó là phải cộng tác để thực hiện một trật tự quốc tế mới, vì chỉ có qua sự liên đới toàn cầu người ta mới có thể nhắm tới và giải quyết được những vấn đề khổng lồ và bi thảm về công bình trên thế giới, về tự do của các dân tộc, về hoà bình của nhân loại.

Các gia đình Ki-tô hữu đã ăn rễ sâu trong đức tin và đức cậy chung của mọi người và được sinh động nhờ đức ái, nên sự hiệp thông tinh thần của họ kết thành một năng lực bên trong từ đó sự công bình hoà giải, huynh đệ và hoà bình giữa mọi người được phát sinh, lan rộng và tăng trưởng. Như một Hội Thánh “nhỏ”, gia đình Ki-tô hữu được mời gọi theo hình ảnh của Hội Thánh “lớn”, để làm một dấu chỉ hiệp nhất cho thế giới và để theo chiều hướng ấy mà thực hiện, vai trò tiên tri, làm chứng cho vương quốc và cho hoà bình của Đức Ki-tô mà cả thế giới đang tiến tới.

Điều đó, các gia đình Ki-tô hữu sẽ có thể thực hiện được qua việc phục vụ giáo dục của họ, nghĩa là khi họ cống hiến cho con cái một mẫu mực đời sống được xây dựng trên những giá trị: sự thật, tự do, công bình và tình yêu, cũng như khi họ dấn thân một cách tích cực và có trách nhiệm để lo cho xã hội và các cơ chế của nó được thật sự tăng trưởng về mặt nhân bản, hoặc hơn nữa khi họ dùng những cách thế khác nhau để nâng đỡ các hiệp hội cơ bản nhất là phục vụ các vấn đề của trật tự quốc tế.

IV. THAM DỰ VÀO CUỘC SỐNG VÀ VÀO SỨ MẠNG CỦA HỘI THÁNH

Gia đình trong mầu nhiệm Hội Thánh

49. Giữa các trách nhiệm căn bản của gia đình Ki-tô hữu, có một trách nhiệm có thể nói là có tính cách Hội Thánh, vì trách nhiệm này đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử, bằng cách dự phần vào cuộc sống và sứ mạng của Hội Thánh.

Để hiểu rõ việc tham dự ấy hệ tại ở đâu, bao gồm những gì và có đặc điểm nào, ta cần tìm hiểu những liên hệ rất nhiều và sâu xa nối kết Hội Thánh với gia đình Ki-tô hữu và làm cho gia đình này trở thành một “Hội Thánh thu nhỏ” (Ecclesia domestica)[114], đến nỗi, theo cách của nó, gia đình là một hình ảnh sống động và là một biểu hiện lịch sử của chính mầu nhiệm Hội Thánh.

Trước hết chính Mẹ Hội Thánh sinh ra, giáo dục, xây dựng gia đình Ki-tô hữu, bằng cách thực hiện cho nó sứ mạng mà Hội Thánh đã nhận được từ nơi Chúa mình. Khi loan báo Lời Chúa, Hội Thánh mặc khải cho gia đình Ki-tô hữu chân tính của nó, nói khác đi, cho biết gia đình là gì và phải trở nên thế nào theo ý định của Thiên Chúa. Khi cử hành bí tích, Hội Thánh làm phong phú và củng cố gia đình Ki-tô với ơn của Đức Ki-tô để thánh hoá nó mà tôn vinh Cha. Khi canh tân lại lời công bố giới răn mới về đức ái, Hội Thánh làm sinh động và hướng dẫn gia đình Ki-tô hữu vào việc phục vụ tình yêu, để giúp nó bắt chước và sống lại chính tình yêu hiến mình và hy sinh mà Chúa Giê-su đã dành cho toàn thể nhân loại.

Đến lượt mình, gia đình Ki-tô hữu cũng hoà nhập vào trong mầu nhiệm Hội Thánh đến độ được dự phần vào sứ mạng cứu rỗi đặc biệt của Hội Thánh theo cách riêng của mình. Nhờ ơn Bí tích Hôn Phối “trong bậc sống và trong lãnh vực của họ, đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu cũng có được ơn riêng dành cho họ trong lòng dân Thiên Chúa”[115]. Do đó, không những họ “nhận được” tình yêu của Đức Ki-tô để trở nên một cộng đồng “được cứu rỗi”, mà còn được mời gọi “truyền đạt” cho anh chị em của họ chính tình yêu của Đức Ki-tô, để như thế họ trở nên một cộng đồng, “cứu rỗi” người khác. Đến nỗi, tuy vẫn là hoa quả và dấu chỉ của sự phong nhiêu siêu nhiên của Hội Thánh, gia đình Ki-tô hữu còn là biểu tượng, chứng tích và san sẻ thiên chức làm mẹ của Hội Thánh[116].

Một trách nhiệm có tính cách hội thánh riêng biệt và độc đáo

50. Gia đình Ki-tô hữu được mời gọi góp phần tích cực và có trách nhiệm vào sứ mạng của Hội Thánh với một tư thế riêng biệt và độc đáo, bằng cách tự đặt mình phục vụ Hội Thánh và xã hội cả từ trong yếu tính lẫn trong hành động của mình, với tư cách là một cộng đồng thân mật của sự sống và tình yêu.

Nếu gia đình Ki-tô hữu là một cộng đồng mà các liên hệ của nó đều đã được Đức Ki-tô canh tân nhờ đức tin, và các bí tích, thì việc nó tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh phải được thực hiện một cách cộng đồng; vợ chồng phải phục vụ Hội Thánh và thế giới với tư cách là đôi bạn, cũng như cha mẹ và con cái phải phục vụ Hội Thánh và thế giới với tư cách là gia đình. Họ phải chung “một tấm lòng và một linh hồn”[117] trong đức tin, trong tinh thần tông đồ chung đang sinh động họ cũng như qua việc cộng tác đang đưa họ dấn thân vào việc phục vụ cộng đồng Hội Thánh và cộng đồng dân sự.

Ngoài ra, gia đình Ki-tô hữu xây dựng Nước Thiên Chúa trong lịch sử qua các thực tại thường nhật liên hệ tới điều kiện sống của họ và là đặc điểm của điều sống ấy: từ đó chính ngay trong tình yêu hôn nhân và gia đình – được sống trong những giá trị phong phú phi thường và với những đòi hỏi của một tình yêu toàn diện, chuyên nhất, trung thành và phong nhiêu[118] – mà gia đình Ki-tô hữu diễn tả và thực hiện, phần tham dự của họ vào sứ mạng tiên tri, tư tế và vương đế của Đức Giê-su Ki-tô và của Hội Thánh Người. Như thế, tình yêu và sự sống kết thành tâm điểm cho sứ mạng cứu độ của gia đình Ki-tô hữu trong Hội Thánh và vì Hội Thánh.

Công đồng Va-ti-ca-nô II nhắc lại điều ấy khi viết: “Các gia đình hãy quảng đại san sẻ cho nhau những sự phong phú tinh thần. Như thế, vì xuất phát từ hôn nhân là hình ảnh của giao ước tình yêu nối kết Đức Ki-tô với Hội Thánh đồng thời, vì dự phần vào giao ước ấy, gia đình Ki-tô hữu làm cho mọi người thấy sự hiện diện sống động của Đấng Cứu Thế trong thế giới và bản chất đích thực của Hội Thánh, qua tình yêu vợ chồng, qua sự quảng đại chấp nhận sinh sản con cái, qua sự hiệp nhất và trung tín của gia đình cũng như qua sự hợp tác thân ái giữa mọi thành phần trong gia đình”[119].

Sau khi đã xác định nền tảng cho phép các gia đình Ki-tô hữu tham dự vào sứ mạng của Hội Thánh như thế, việc quan trọng bây giờ là đưa ra ánh sáng những gì hàm chứa trong sự tham dự ấy, theo ba sự qui chiếu, mà thật ra chỉ là một, tức là qui chiếu vào Đức Giê-su Ki-tô, trong tư cách là tiên tri, là tư tế và là vua, bằng cách trình bày gia đình Ki-tô hữu như là :

1. Cộng đồng tin và loan báo Tin Mừng. 2. Cộng đồng đối thoại với Thiên Chúa. 3. Cộng đồng phục vụ con người.

 

1. Gia đình Ki-tô hữu, cộng đồng tin và rao giảng Tin Mừng

Đức tin khám phá và thán phục ý định của Thiên Chúa về gia đình

51. Bởi vì gia đình Ki-tô hữu dự phần vào sự sống và sứ mạng của Hội Thánh, một Hội Thánh đang kiên trì lắng nghe Lời Thiên Chúa với tâm tình tôn giáo và đang công bố Lời ấy với lòng tin cậy mãnh liệt[120], nên gia đình ấy sống vai trò tiên tri của mình bằng cách đón nhận và loan báo Lời Chúa; như thế gia đình ngày càng trở nên một cộng đồng tin và rao giảng Tin Mừng.

Sự tuân phục của đức tin cũng đòi hỏi cả đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu[121]: họ được mời gọi đón nhận Lời của Chúa là Đấng mặc khải cho họ cái mới mẻ kỳ diệu – nói cách khác là “Tin Mừng” – trong đời sống hôn nhân và gia đình của họ, đời sống đã được Đức Ki-tô làm cho nên thánh và có sức thánh hoá. Quả vậy, chỉ trong đức tin họ mới có thể, với một niềm sung sướng biết ơn, khám phá và thán phục phẩm giá của hôn nhân và gia đình mà Thiên Chúa đã nâng cao, bằng cách lấy đó làm dấu chỉ và môi trường của giao ước yêu thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh là Hiền Thê của Người.

Như thế, ngay việc chuẩn bị hôn nhân đã có tính chất của một hành trình đức tin; quả vậy, đó là một cơ chế đặc biệt giúp cho những người đính hôn khám phá lại và đào sâu đức tin đã lãnh nhận trong phép rửa tội và được nuôi dưỡng nhờ việc giáo dục Ki-tô giáo. Bằng cách ấy, họ công nhận và đón nhận một cách tự do ơn gọi sống theo gương Đức Ki-tô và phục vụ Nước Thiên Chúa trong chính bậc sống hôn nhân của mình.

Giây phút quyết liệt mà đôi bạn trong tư thế là đôi bạn bày tỏ đức tin là lúc họ cử hành Bí tích Hôn Nhân; do bản chất sâu xa của nó, việc cử hành này là một sự công bố trong Hội Thánh về Tin Mừng của tình yêu hôn nhân: nó là Lời Chúa “mặc khải” và “hoàn tất” dự phóng đầy khôn ngoan và yêu thương mà Thiên Chúa đã có đối với đôi bạn khi dẫn họ tới chỗ tham dự một cách nhiệm mầu nhưng thực sự vào chính tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Nếu việc cử hành Bí tích Hôn nhân tự nó là việc công bố Lời Chúa, thì tất cả những người đang chủ động và cử hành bí tích ấy, với những danh hiệu khác nhau, đều phải biến đó thành một việc “tuyên xưng đức tin” trong lòng Hội Thánh và cùng với Hội Thánh, tức là cộng đồng các tín hữu.

Việc tuyên xưng đức tin này đòi hỏi phải được kéo dài suốt cuộc đời của đôi bạn và gia đình. Quả vậy, Thiên Chúa đã kêu gọi đôi bạn “vào” hôn nhân, Ngài còn tiếp tục kêu gọi họ “trong” hôn nhân[122]. Trong và qua các sự kiện, các vấn đề, các khó khăn, các biến cố của cuộc sống thường nhật, Thiên Chúa đến với họ và nêu lên cho họ những “đòi hỏi” cụ thể để dự phần vào tình yêu của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh, những đòi hỏi sát với tình cảnh đặc biệt – về gia đình, xã hội và Hội Thánh mà trong đó họ đang sống.

Khám phá ý định của Thiên Chúa và tuân phục ý định ấy là hai việc phải được thực hiện trong cùng một lúc trong cộng đồng hôn nhân và gia đình, qua kinh nghiệm nhân bản về tình yêu giữa đôi bạn cũng như giữa cha mẹ và con cái, khi tình yêu ấy được sống trong Thần Khí Đức Ki-tô.

Vì thế, cũng như trong Hội Thánh lớn, Hội Thánh nhỏ tại gia cần được Tin mừng hoá liên tục và sâu đâïm: từ đó mới sinh ra bổn phận phải giáo dục gia đình liên tục trong đức tin.

Thừa tác vụ phúc âm hoá của gia đình ki-tô hữu

52. Tùy mức độ gia đình Ki-tô hữu đón nhận Tin Mừng và trưởng thành trong đức tin, mà nó trở nên một cộng đồng Phúc âm hoá. Chúng ta hãy nghe lại lời của Đức Phao-lô VI : “… Cũng như Hội Thánh, gia đình có nghĩa vụ tạo môi trường cho Tin Mừng được truyền đạt tới và từ đó Tin Mừng được lan toả ra. Vậy trong một gia đình ý thức về sứ mạng này, mọi phần tử của gia đình đều Phúc âm hoá và đều được Tin mừng hoá. Cha mẹ chẳng những truyền thụ Tin Mừng cho con cái mà còn có thể nhận lại chính Tin Mừng ấy đã được sống sâu sắc từ phía con cái. Và một gia đình như thế sẽ có sức Tin mừng hoá nhiều gia đình khác và cả môi trường chung quanh”[123].

Như THĐGM đã lặp lại theo lời kêu gọi của tôi ở Puebla, tương lai việc Tin mừng hoá tùy thuộc phần lớn nơi Hội Thánh tại gia[124]. Sứ mạng tông đồ ấy của gia đình bắt nguồn từ trong bí tích Thánh tẩy và họ đã nhận được nơi bí tích Hôn Phối một sức đẩy mới để truyền đạt đức tin, để thánh hoá và biến đổi xã hội hiện tại theo ý định của Thiên Chúa.

Gia đình Ki-tô hữu, nhất là ngày nay, đặc biệt được mời gọi làm chứng cho giao ước phục sinh của Đức Ki-tô nhờ việc kiên trì toả sáng niềm vui của tình yêu và sự chắc chắn của lòng trông cậy, mà gia đình phải lưu tâm tới: “Gia đình Ki-tô hữu lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một cuộc sống hạnh phúc”[125].

Trong nhiều hoàn cảnh cụ thể ngày nay, việc dạy giáo lý ở gia đình thật cấp thiết đến mức tuyệt đối, như Hội Thánh đã ghi nhận nhiều chỗ: “Ở những nơi luật lệ chống tôn giáo chủ ý cản trở việc giáo dục đức tin, ở những nơi tình trạng vô tín ngưỡng hỗn độn hay chủ nghĩa thế tục lan tràn khiến trên thực tế, không thể nào có được sự tăng trưởng tôn giáo, thì thứ Hội Thánh này, tức là gia đình, là môi trường đôïc nhất còn lại trong đó trẻ em và thanh niên có thể nhận được một khoa giáo lý chân chính”[126].

Một việc phục vụ có tính cách Hội Thánh

53. Thừa tác vụ Tin mừng hoá của bậc cha mẹ Ki-tô hữu có tính cách độc đáo và không thể thay thế được. Nó mang những đặc tính riêng biệt của đời sống gia đình như phải có, nghĩa là một đời sống được dệt bằng tình yêu, sự giản dị, sự dấn thân cụ thể và những việc làm chứng thường ngày”[127].

Gia đình phải đào tạo cho con cái bước vào đời sống, giúp cho mỗi người con biết chu toàn trọn vẹn bổn phận của mình tùy theo ơn gọi đã nhận được từ Thiên Chúa. Quả thế, nhờ rộng mở đến các giá trị siêu việt, vui vẻ phục vụ tha nhân, chu toàn các nghĩa vụ của mình một cách quảng đại và trung thành, cũng như luôn luôn ý thức về sự tham dự vào mầu nhiệm thập giá vinh quang của Đức Ki-tô, gia đình trở thành chủng viện đầu tiên và tuyệt hảo cho ơn gọi sống đời tận hiến vì Nước Thiên Chúa.

Thừa tác vụ Tin mừng hoá và dạy giáo lý của cha mẹ, phải theo sát con cái suốt đời chúng, cả trong tuổi thiếu niên và tuổi thanh niên, là tuổi mà thường thường con cái hay đứng lên phản kháng hoặc thẳng thừng từ chối đức tin Ki-tô giáo mà chúng đã nhận trong những năm đầu tiên của cuộc đời. Cũng như trong Hội Thánh, công việc Tin mừng hoá không bao giờ được thực hiện mà không gây đau khổ cho vị tông đồ, thì cũng thế trong gia đình Ki-tô hữu, cha mẹ phải rất can đảm và hết sức đương đầu với những khó khăn mà đôi khi thừa tác vụ Tin mừng hoá gặp phải nơi chính con cái của họ.

Người ta không được quên rằng việc phục vụ mà đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu chu toàn vì lợi ích của Tin Mừng, thiết yếu là một việc phục vụ có tính cách Hội Thánh, hay đúng hơn, nằm trong khuôn khổ của toàn thể Hội Thánh, là cộng đồng đã được Tin Mừng hoá và đang có sức mạnh Tin Mừng hoá. Vì là một thừa tác vụ đã bắt nguồn từ trong sứ mạng độc nhất của Hội Thánh, và phát xuất từ sứ mạng ấy, đồng thời vì được xếp đặt để xây dựng Thân thể duy nhất của Đức Ki-tô[128], nên thừa tác vụ Tin mừng hoá và dạy giáo lý của Hội-Thánh-tại-gia phải luôn được kết hiệp mật thiết và hoà nhịp một cách có ý thức với tất cả những dịch vụ khác về Tin mừng hoá, và dạy giáo lý đang có và đang hoạt động trong cộng đồng Hội Thánh, ở giáo phận hoặc ở giáo xứ.

Rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo

54. Tính cách đại đồng không ranh giới là chân trời riêng của việc Tin mừng hoá đang được sức mạnh thừa sai sinh động từ bên trong. Quả thế, đó là sự đáp trả mệnh lệnh tỏ tường, không úp mở của Đức Ki-tô: “Hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”[129].

Cả đức tin và sứ mạng Tin mừng hoá của gia đình Ki-tô hữu cũng có cái hơi thở thừa sai công giáo như thế. Khi bí tích hôn phối lấy lại và nêu lên một lần nữa bổn phận đã ăn rễ từ trong bí tích Rửa Tội và Thêm Sức là phải bảo vệ và truyền bá đức tin[130], bí tích ấy biến đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu thành chứng nhân của Đức Ki-tô “cho đến tận cùng trái đất”[131], thành những vị “thừa sai” đích thực của tình yêu và sự sống.

Ngay từ bên trong gia đình cũng đã có thể chu toàn được một hình thức hoạt động thừa sai nào đó. Như khi một phần tử nào đó trong gia đình không có đức tin hoặc không sống phù hợp với đức tin. Lúc đó những phần tử khác trong gia đình phải đem lại cho người ấy một chứng tích sống động về đức tin của họ, để có thể thúc đẩy và nâng đỡ người ấy trên con đường tiến tới chỗ gắn bó trọn vẹn với Đức Ki-tô Cứu Thế[132].

Được tinh thần thừa sai linh động ngay từ bên trong, Hội Thánh tại gia được mời gọi để trở nên một dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của Đức Ki-tô cũng như của tình yêu Người dành cho “những kẻ ở xa”, cho gia đình chưa tin và cả cho những gia đình Ki-tô hữu không còn sống phù hợp với đức tin đã lãnh nhận. Hội Thánh tại gia được mời gọi “dùng gương sáng và lời chứng” để soi sáng cho “những người đang tìm kiếm chân lý”[133].

Cũng như trong buổi bình minh của Ki-tô giáo, Aquila và Priscilla đã xuất hiện như một đôi vợ chồng thừa sai[134], ngày nay Hội Thánh làm chứng được sự mới mẻ và sinh hoa kết trái liên tục của mình, nhờ sự góp mặt của những đôi bạn và gia đình Ki-tô hữu, ít ra là trong một thời gian nào đó, đã đi tới các miền truyền giáo để loan báo Tin Mừng bằng cách phục vụ con người với tình yêu của Đức Giê-su Ki-tô.

Các gia đình Ki-tô hữu còn góp một phần đặc thù cho công cuộc truyền giáo của Hội Thánh, bằng cách vun trồng các ơn gọi thừa sai nơi các con trai, con gái của họ[135], và tổng quát hơn, bằng công việc “dạy cho con cái ngay từ khi còn thơ ấu biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người”[136].

2. Gia đình Ki-tô hữu, cộng đồng đối thoại với Thiên Chúa

Đền thờ tại gia của Hội Thánh

55. Việc loan báo Tin Mừng và việc đón nhận Tin Mừng trong đức tin đạt được tầm mức viên mãn trong việc cử hành bí tích. Là cộng đồng tin và rao giảng Tin Mừng, Hội Thánh cũng còn là một dân tư tế, nghĩa là được mặc lấy phẩm giá của Đức Ki-tô là Thượng Tế của Tân Ước vĩnh cửu và được dự phần vào quyền năng của Ngài[137].

Cả gia đình Ki-tô hữu cũng được hoà nhập vào Hội Thánh, dân tư tế. Do bí tích Hôn Phối, trong đó nó được bén rễ và từ đó mà nó được lập nên, gia đình Ki-tô hữu được liên lỉ sinh động nhờ Chúa Giê-su, được Ngài mời gọi và lôi cuốn vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa bằng các phương tiện của đời sống bí tích, của việc dâng hiến đời mình và của kinh nguyện.

Đó là vai trò tư tế mà gia đình Ki-tô hữu có thể và phải chu toàn trong sự kết hiệp mật thiết với toàn thể Hội Thánh, qua những thực tại hằng ngày của đời sống hôn nhân và gia đình; bằng cách ấy, gia đình Ki-tô hữu được mời gọi tự thánh hoá và thánh hoá cộng đồng Hội Thánh và thế giới.

Hôn nhân, bí tích thánh hoá lẫn nhau và là hành vi phụng tự

56. Bí tích Hôn Nhân lấy lại và chuyên biệt hoá ơn thánh hoá của bí tích Rửa tội, nên nó đúng là một nguồn mạch đặc biệt và một phương tiện độc đáo cho đôi bạn và gia đình Ki-tô hữu được thánh hoá. Nhờ vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô mà một lần nữa, tình yêu vợ chồng được thanh tẩy và thánh hoá : “Nhờ một sự phú ban đặc biệt cả ân sủng và tình bác ái, tình yêu này đã được Chúa đoái thương chữa trị, hoàn thiện và nâng cao”[138].

Ơn Đức Giê-su Ki-tô ban trong lúc cử hành bí tích Hôn Nhân không bị khô cạn, nhưng vẫn theo sát đôi bạn trong suốt cả đời sống họ. Công Đồng Va-ti-ca-nô II nhắc lại tỏ tường điều ấy khi nói rằng Đức Giê-su Ki-tô “còn ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Ngài đã yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh … Bởi đó, đôi bạn Ki-tô hữu được củng cố và như được thánh hiến bằng một bí tích riêng, để chu toàn xứng đáng các bổn phận trong bậc sống của họ; khi chu toàn sứ mạng hôn nhân và gia đình của họ với sức mạnh của bí tích này, họ được đổ tràn tinh thần của Đức Ki-tô, nhờ đó tất cả đời sống của họ thấm nhuần đức tin, đức cậy, đức mến và càng ngày họ càng tiến tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hoá lẫn nhau; và bởi đó, họ cùng nhau góp phần tôn vinh Thiên Chúa”[139].

Ơn gọi nên thánh chung của mọi người cũng nhắm đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu: đối với họ, ơn gọi này được nêu rõ bởi sự cử hành bí tích Hôn phối và được phô diễn cách cụ thể trong thực tế riêng của cuộc sống hôn nhân và gia đình[140]. Chính trong cuộc sống ấy mà ân sủng được phát sinh và ta nhận thấy sự đòi hỏi phải có một linh đạo hôn nhân và gia đình thật đích thực và sâu xa; linh đạo này được gợi hứng từ các chủ đề về sáng tạo, giao ước, thập giá, phục sinh và dấu chỉ bí tích là những chủ đề mà THĐGM đã trở đi trở lại nhiều lần.

Cũng như tất cả mọi bí tích đều “có mục đích thánh hoá con người, xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô, và sau cùng là thờ phượng Thiên Chúa”[141], bí tích Hôn nhân tự nó cũng là một hành vi phụng vụ để tôn vinh Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su và trong Hội Thánh. Khi cử hành bí tích ấy, đôi bạn Ki-tô hữu, bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với Thiên Chúa vì ơn huệ cao cả Ngài đã ban cho họ để trong cuộc sống hôn nhân và gia đình của họ, họ có thể sống lại chính tình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người và của Chúa Giê-su đối với Hội Thánh là Hiền Thê Ngài.

Cũng như do bí tích Hôn phối mà đôi bạn nhận được sự thánh thiện và nghĩa vụ mỗi ngày phải sống sự thánh thiện đã nhận được đó, thì cũng do bí tích ấy họ được ơn và có nghĩa vụ luân lý phải biến đổi toàn thể đời sống họ thành một hy lễ thiêng liêng triền miên[142]. Những lời sau đây của Công Đồng cũng được áp dụng cho các đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu, cách riêng là trong lãnh vực các thực tại trần gian và thế tục là đặc điểm cuộc sống của họ: “Như thế, giáo dân cung hiến cho Thiên Chúa chính thế giới này nhờ biết phụng thờ Ngài khắp nơi bằng đời sống thánh thiện của họ”[143].

Hôn Nhân và Thánh Thể

57. Bổn phận nên thánh dành cho gia đình Ki-tô hữu bắt nguồn sâu xa từ bí tích Rửa Tội và được diễn tả cách trọn vẹn nhất trong bí tích Thánh Thể là bí tích mà hôn nhân Ki-tô giáo gắn liền một cách mật thiết. Công đồng Va-ti-ca-nô II đã muốn nhắc lại tương quan đặc biệt giữa Thánh Thể và hôn nhân khi đòi hỏi rằng “bình thường bí tích Hôn Nhân phải được cử hành trong thánh lễ”[144]: nếu người ta muốn hiểu và sống sâu đậm các ân sủng và trách nhiệm của hôn nhân và gia đình Ki-tô hữu, thì tuyệt đối cần phải khám phá và đào sâu tương quan ấy.

Bí tích Thánh Thể chính là nguồn mạch của hôn nhân Ki-tô giáo. Quả thế, hy lễ Thánh Thể diễn lại giao ước tình yêu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh, vì giao ước ấy đã được ký kết bằng máu của Người trên thập giá[145]. Chính trong hy lễ của Giao ước mới và vĩnh cửu ấy mà các đôi bạn Ki-tô hữu tìm được nguồn mạch tuôn trào làm cho giao ước hôn nhân của họ được khuôn đúc từ bên trong và được sinh động bền bỉ. Vì là sự diễn lại hy lễ tình yêu của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh, phép Thánh Thể là nguồn mạch đức ái. Nơi ân huệ Thánh Thể là bí tích của Đức Ái, gia đình Ki-tô hữu gặp được nền tảng và linh hồn cho sự hiệp thông và cho sứ mạng của nó: Bánh Thánh Thể làm cho những phần tử khác nhau của cộng đồng gia đình trở nên một thân thể duy nhất, một hình ảnh diễn tả và một sự tham dự vào Thân mình “bị phó nộp” và vào Máu “đã đổ ra” của Đức Ki-tô sẽ trở nên một nguồn mạch bất tận cho gia đình Ki-tô hữu đến múc lấy năng lực cho hoạt động thừa sai và tông đồ.

Bí tích hoán cải và giao hoà

58. Việc đón nhận lời mời gọi hoán cải của Tin Mừng là việc của mọi Ki-tô hữu, vì nhiều khi họ đã bất trung với sự “mới mẻ” của phép Rửa Tội là bí tích đã biến đổi họ thành “thánh”. Việc đón nhận ấy là một yếu tố then chốt và thường xuyên trong bổn phận nên thánh dành cho gia đình Ki-tô hữu. Chính gia đình Ki-tô hữu không phải bao giờ cũng sống phù hợp với luật ân sủng và sự thánh thiện do bí tích Rửa Tội đem lại và bí tích Hôn Phối đã tái công bố.

Sự hối hận và tha thứ thường xuyên cho nhau trong gia đình Ki-tô hữu, đưa đến khoảnh khắc đặc biệt nơi bí tích thống hối Ki-tô giáo. Khi nói về các đôi bạn, Đức Phao-lô VI đã viết trong Thông điệp Sự Sống Con Người: “Nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng trên họ, ước gì họ đừng nản lòng, nhưng với một sự bền đỗ khiêm tốn ước gì họ hãy chạy đến với lòng nhân từ của Thiên Chúa vẫn luôn luôn tuôn đổ dồi dào trong bí tích thống hối”[146].

Việc cử hành bí tích này có được một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống gia đình: qua đức tin, đôi bạn và mọi thành phần trong gia đình khám phá được rằng, tội lỗi chống lại giao ước với Thiên Chúa cũng như giao ước giữa đôi bạn và sự hiệp thông gia đình; giờ đây họ được đưa đến gặp gỡ Thiên Chúa “giàu lòng nhân từ”[147], là Đấng tái lập và hoàn thiện giao ước hôn nhân và sự hiệp thông trong gia đình khi Ngài ban cho ta tình yêu của Ngài, một tình yêu mạnh hơn tội lỗi[148].

Kinh nguyện gia đình

59. Hội Thánh cầu nguyện và giáo dục gia đình Ki-tô giáo trong lối sống phù hợp quảng đại với ơn và vai trò tư tế đã nhận được nơi Đức Ki-tô Thượng Tế. Trong thực tế, đối với đôi bạn và gia đình, chức tư tế mà bí tích Rửa Tội đem lại cho các tín hữu và được họ sống trong hôn-nhân-bí-tích, trở thành một ơn gọi và một sứ mạng tư tế mà nhờ đó cuộc sống hằng ngày của họ được biến thành “hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa qua sự trung gian của Đức Ki-tô”[149]: đó là điều phát xuất không những do việc cử hành Thánh Thể và các bí tích khác cũng như do việc hiến dâng chính mình cho vinh quang Thiên Chúa, mà còn do đời sống cầu nguyện, do việc đối thoại nguyện cầu với Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô và trong Thánh Thần.

Kinh nguyện gia đình có những đặc tính riêng. Đó là kinh nguyện chung: vợ chồng cùng cầu nguyện với nhau, cha mẹ và con cái cùng cầu nguyện với nhau. Sự hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa quả vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông mà các bí tích Rửa Tội và Hôn Phối đã đem lại. Các gia đình Ki-tô hữu có thể áp dụng được cho mình một cách đặc biệt những lời hứa hiện diện của Đức Giê-su: “Quả thật, Ta bảo các con: nếu dưới đất, hai người trong các con đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho. Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ”[150].

Kinh nguyện gia đình có nội dung độc đáo là chính cuộc sống gia đình. Qua những cảnh huống khác nhau, cuộc sống này được diễn giải như một ơn gọi từ Thiên Chúa mà đến và được thực hiện như một câu trả lời hiếu thảo cho tiếng gọi ấy: vui mừng và cực nhọc, hy vọng và u buồn, ngày sinh và ngày kỷ niệm chu niên, kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ, những chuyến xa nhà và trở về, những chọn lựa quan trọng và quyết liệt, cái chết của những người thân yêu … đều là những dấu hiệu về sự hiện diện ưu ái của Thiên Chúa trong cuộc sống gia đình; những biến cố ấy cũng phải trở thành những lúc thuận tiện cho lời tạ ơn, khẩn nguyện, cho sự tin tưởng phó thác của gia đình trong bàn tay Cha chung trên trời. Đàng khác, phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Ki-tô hữu, xét như Hội Thánh tại gia, chỉ có thể được sống với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn.

Những nhà giáo dục đức tin

60. Trên căn bản phẩm giá và sứ mạng của họ, các cha mẹ Ki-tô hữu có bổn phận đặc biệt phải giáo dục cho con cái họ biết cầu nguyện, phải đưa chúng tới chỗ dần dần khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa và đối thoại cá nhân với Ngài : “Nhất là gia đình Ki-tô giáo đã nhận được những ân sủng, và đòi hỏi phong phú của bí tích Hôn phối, nên ở đó ngay từ nhỏ, trẻ em phải được dạy dỗ để nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân, theo như đức tin chúng đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa Tội”[151].

Gương sống cụ thể, chứng tá sống động của cha mẹ, là yếu tố căn bản và không thể thay thế được trong việc giáo dục cầu nguyện: chỉ khi nào cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái, chu toàn chức vụ tư tế vương giả của họ, họ mới vào sâu được trong lòng con cái và để lại đó những dấu vết mà các biến cố cuộc sống về sau sẽ không thể xoá nhoà được. Chúng ta hãy nghe lại lời kêu gọi mà Đức Phao-lô VI đã ngỏ lời với cha mẹ: “Hỡi các bà mẹ, chị em có dạy cho các con nhỏ của mình những lời kinh của người Ki-tô hữu không? Chị em có cộng tác với các linh mục để chuẩn bị cho chúng lãnh nhận các bí tích của thời niên thiếu: xưng tội, rước lễ, thêm sức không? Nếu chúng đau ốm, chị em có tập cho chúng quen nghĩ tới những sự đau khổ của Đức Ki-tô, quen kêu cầu sự giúp đỡ của Đức Mẹ Đồng Trinh và các thánh không? Chị em có lần hạt chung với chúng ở gia đình không ? Còn anh em hỡi những người cha, anh em có biết cầu nguyện chung với con cái, với cộng đồng gia đình, ít là thỉnh thoảng không? Gương sống của anh em qua sự ngay thẳng trong tư tưởng và hành động, được hỗ trợ bằng ít nhiều kinh nguyện chung, quả là một bài học sống, một hành vi thờ phượng đáng tuyên dương. Như thế anh em đang đem bình an vào trong tổ ấm gia đình anh em : “Bình an cho nhà này”. Đừng quên rằng làm như thế là anh em đang xây dựng Hội Thánh.”[152]

Kinh nguyện phụng vụ và kinh nguyện riêng

61. Như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã tái xác nhận thật rõ giữa kinh nguyện của Hội Thánh và kinh nguyện của mỗi tín hữu có một tương quan sâu xa và sống thực[153]. Quả vậy, trong Hội Thánh tại gia, mục đích quan trọng của kinh nguyện là bước dẫn nhập tự nhiên cho trẻ em bước vào kinh nguyện phụng vụ của toàn thể Hội Thánh, vừa chuẩn bị chúng đi vào kinh nguyện phụng vụ vừa mở rộng vòng kinh nguyện này vào trong lãnh vực đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Do đó cần phải làm sao để tất cả mọi thành phần trong gia đình Ki-tô hữu đều dần dần tham dự vào bí tích Thánh Thể, nhất là ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng, cũng như tham dự vào các bí tích khác, cách riêng là bí tích khai tâm Ki-tô giáo cho trẻ em. Các chỉ dẫn của Công Đồng đã mở ra cho gia đình một cơ hội mới, là kể gia đình vào số những tập thể được mời gọi cùng đọc chung kinh Thần vụ[154]. Gia đình Ki-tô hữu cũng sẽ lo cử hành các mùa và các lễ phụng vụ ngay tại nhà mình, bằng cách thế thích hợp với các thành phần hiện diện. Để cho việc phụng tự cử hành ở nhà thờ được chuẩn bị và kéo dài ngay tại nhà mình, gia đình Ki-tô hữu cần đến việc cầu nguyện riêng, với rất nhiều hình thức khác nhau, một sự khác nhau vừa nói lên được sự phong phú phi thường của kinh nguyện Ki-tô hữu do Chúa Thánh Thần linh động, vừa đáp ứng những đòi hỏi khác biệt và những tình huống cụ thể của những người đang quay về với Chúa. Ngoài kinh nguyện sáng tối, các gia đình cũng được tha thiết khuyên bảo và cũng là điều phù hợp với những chỉ dẫn của các nghị phụ THĐGM, nên đọc và suy niệm Lời Chúa, chuẩn bị cho các bí tích, tôn sùng và tận hiến cho Trái Tim Chúa Giê-su, sùng kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a với những hình thức khác nhau, cầu nguyện khi ăn cơm và thực hành các việc đạo đức bình dân.

Trong sự tôn trọng tự do của con cái Thiên Chúa, Hội Thánh đã đề nghị và vẫn còn tiếp tục đề nghị cho các tín hữu một số thực hành đạo đức, với một lòng khẩn khoản đặc biệt. Trong số các thực hành này phải kể đến việc lần chuỗi Môi Khôi: “Tôi muốn nối tiếp ý hướng của các vị tiền nhiệm của tôi để nói lên một lời khuyên bảo tha thiết là hãy lần chuỗi trong gia đình…Chắc chắn tràng chuỗi kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a phải được coi như một trong những “kinh nguyện chung” tuyệt hảo và hữu hiệu nhất mà Hội Thánh mời gọi mọi người trong gia đình Ki-tô hữu đọc với nhau. Tôi vui sướng tưởng nghĩ và tha thiết hy vọng rằng, khi gia đình sum họp để cầu nguyện, việc lần chuỗi Môi Khôi sẽ là một hình thức được quí chuộng và thực hành thường xuyên”[155]. Như thế, khi được diễn tả bằng các tương quan chân thành với Đức Trinh Nữ và bằng việc noi theo cung cách sống thiêng liêng của Ngài, lòng tôn sùng Đức Mẹ đích thực chính là một phương tiện đặc biệt để nuôi dưỡng sự hiệp thông tình yêu trong gia đình và để phát triển linh đạo hôn nhân và gia đình. Mẹ của Đức Ki-tô và của Hội Thánh, một cách đặc biệt cũng là Mẹ của các gia đình Ki-tô hữu là những Hội Thánh tại gia.

Kinh nguyện và đời sống

62. Không bao giờ được quên rằng kinh nguyện là phần thiết yếu của đời sống Ki-tô hữu; khi được vun xới một cách toàn diện và như một thực tại trung tâm, có thể nói rằng kinh nguyện nằm trong “nhân tính” của chúng ta: là “sự diễn tả đầu tiên về sự thật bên trong của con người, là điều kiện đầu tiên cho sự tự do đích thực của tâm trí”[156].

Vì thế kinh nguyện không hề biểu hiện một sự chạy trốn các trách nhiệm thường ngày, nhưng chính là sức đẩy mãnh liệt đưa gia đình Ki-tô hữu đến chỗ đảm nhận trách nhiệm trở nên tế bào đầu tiên và căn bản của xã hội nhân loại, và chu toàn đầy đủ các trách nhiệm ấy. Theo nghĩa đó, việc tham dự hữu hiệu vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh trong thế giới, sẽ tỷ lệ theo việc cầu nguyện trung thành và sâu đậm mà nhờ đó gia đình Ki-tô hữu kết hợp với cây nho sai trái là Đức Ki-tô, Vị Chúa Tể[157].

Do việc kết hợp sống động với Đức Ki-tô, được nuôi dưỡng bằng phụng vụ, bằng việc hiến dâng chính mình và bằng kinh nguyện, mà phát sinh sự phong nhiêu của gia đình Ki-tô hữu trong thừa tác vụ đặc biệt nhằm sự thăng tiến nhân bản, và qua đó, hẳn đã góp phần vào việc biến đổi thế giới[158].

3. Gia đình Ki-tô hữu, cộng đoàn phục vụ con người

Lệnh truyền mới của tình yêu

63. Hội Thánh, là dân tộc ngôn sứ, tư tế và vương đế, có sứ mạng hướng mọi người tới chỗ đón nhận Lời Chúa trong đức tin, rồi cử hành và công bố đức tin ấy trong các bí tích và kinh nguyện, và sau cùng diễn tả đức tin ấy qua những thực tại cụ thể của đời sống phù hợp với ân huệ và lệnh truyền mới về tình yêu.

Đời sống Ki-tô hữu tìm được luật lệ cho mình, không phải nơi một bộ luật thành văn, nhưng là trong hành động đích thân của Chúa Thánh Thần là Đấng đang tác sinh và hướng dẫn người Ki-tô hữu, nghĩa là trong “Luật của Thần Khí, Đấng ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su”[159]: “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, qua Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta”[160].

Điều ấy cũng có giá trị cho cả đôi bạn và gia đình Ki-tô hữu: kim chỉ nam và qui luật của họ là Thần Khí Đức Giê-su, đã được đổ xuống trong lòng họ nhờ việc cử hành bí tích Hôn phối. Tiếp nối với phép rửa trong nước và Thần Khí, bí tích hôn nhân nêu lên một lần nữa luật tình yêu của Tin Mừng và nhờ ơn Thần Khí, nó khắc sâu luật ấy vào lòng đôi bạn Ki-tô hữu: tình yêu của họ được thanh tẩy và cứu độ, là một hoa quả của Thần Khí, Đấng đang tác động trong lòng các tín hữu và đồng thời đang tự bộc lộ như lệnh truyền căn bản cho đời sống luân lý, một đời sống đang được đặt ra trước sự tự do hữu trách của họ.

Như vậy gia đình Ki-tô hữu được luật mới của Thánh Thần sinh động, hướng dẫn và được mời gọi sống “thừa tác vụ” vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trong sự hiệp thông mật thiết với Hội Thánh là dân tộc vương đế. Cũng như Đức Ki-tô thực thi vương quyền của Người bằng cách đem thân phục vụ con người[161], Ki-tô hữu cũng tìm được ý nghĩa đích thực của việc dự phần vào vương quyền của Chúa mình bằng cách chia sẻ tinh thần và thái độ phục vụ con người của chính Chúa: “Đức Ki-tô cũng thông ban cho các môn đệ quyền bính ấy để họ được hưởng sự tự do vương giả và chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng một đời sống từ bỏ và thánh thiện (×. Rm 6,12), hơn nữa để khi phụng sự Đức Ki-tô nơi tha nhân, họ có thể khiêm nhường và kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến với Đức Vua, Đấng mà phụng sự Người lại là thống trị. Thực tế, Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở rộng nước Ngài, nước của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, tình yêu và hoà bình; trong nước này, chính tạo vật cũng được giải thoát khỏi thân phận làm nô lệ sự hư đốn, để được hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa (×. Rm 8,21)”[162].

Nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi anh chị em

64. Được lệnh truyền mới của tình yêu sinh động và nâng đỡ, gia đình Ki-tô hữu tiếp đón, kính trọng, phục vụ mọi người, luôn luôn nhìn mọi người trong phẩm giá của họ như những ngôi vị và như con cái Thiên Chúa.

Điều đó phải làm, trước hết là giữa đôi bạn và gia đình để sinh ích cho chính họ, nhờ việc dấn thân hằng ngày nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị, một cộng đồng được thiết lập và nuôi dưỡng bằng sự hiệp thông các tâm hồn. Tiếp đó, việc xử sự như thế phải được phát triển trong phạm vi rộng lớn của cộng đồng Hội Thánh nơi gia đình Ki-tô hữu được hội nhập: qua lòng bác ái của gia đình, Hội Thánh có thể và phải mặc lấy một chiều kích gia đình hơn, bằng cách cập nhật một cách thế tương quan nhân bản và huynh đệ hơn.

Lòng bác ái vượt quá vòng huynh đệ cùng đức tin bởi vì “mọi người đều là anh em tôi”, lòng bác ái biết nhận ra nơi mỗi một con người, khuôn mặt của Đức Ki-tô, và là một người anh em mình phải yêu mến và phục vụ, nhất là khi họ nghèo túng, yếu đuối, đau khổ hay bị đối xử bất công.

Để cho việc phục vụ con người được gia đình sống đúng theo Tin Mừng, cần phải mau mắn thực hiện điều Công đồng Va-ti-ca-nô II đã nói: “Để thực thi bác ái mà không sợ một chỉ trích nào và để thấy rõ được là bác ái đích thực, cần phải nhìn thấy nơi tha nhân hình ảnh của Thiên Chúa, vì họ đã được dựng nên theo hình ảnh Ngài, cũng như nhìn thấy nơi họ chính Đức Ki-tô Chúa chúng ta, vì khi ta cho người nghèo điều gì cũng chính là cho Người điều ấy”[163].

Ngay khi xây dựng Hội Thánh trong lòng bác ái, gia đình Ki-tô hữu đem thân phục vụ con người và thế giới, bằng cách thực sự thực hiện việc “thăng tiến nhân bản” mà những khía cạnh khác biệt đã được tổng hợp lại trong sứ điệp của THĐGM gọi các gia đình: “Một nhiệm vụ khác của gia đình là đào tạo những con người biết yêu thương và là sống tình yêu trong mọi tương quan với người khác, bằng cách gia đình sẽ không tự khép kín nhưng mở rộng ra cho cộng đồng, hướng tới cộng đồng nhờ ý thức về công lý và nhờ sự quan tâm lo cho người khác, cũng nhờ bổn phận trong trách nhiệm riêng của gia đình đối với toàn thể xã hội”[164].

PHẦN THỨ TƯ

MỤC VỤ GIA ĐÌNHCÁC GIAI ĐOẠN, CÁC CƠ CẤU,NHỮNG NGƯỜI HỮU TRÁCH VÀ CÁC HOÀN CẢNH

————————————————————-

 

I. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Hội Thánh đồng hành với gia đình Ki-tô hữu

65. Như tất cả mọi thực tại sinh động, gia đình cũng được mời gọi phải phát triển và tăng trưởng. Sau khi trải qua sự chuẩn bị của thời kỳ đính hôn và việc cử hành bí tích hôn phối, đôi bạn bắt đầu bước đường hằng ngày tiến tới việc thực hiện tuần tự các giá trị và bổn phận của hôn nhân.

Dưới ánh sáng đức tin và nhờ đức cậy, gia đình Ki-tô hữu, hiệp thông với Hội Thánh, cũng dự phần vào kinh nghiệm của cuộc lữ hành trần thế hướng về việc mặc khải trọn vẹn và hiện thực Nước Thiên Chúa.

Vì thế, cần nhấn mạnh một lần nữa việc Hội Thánh phải cấp bách can thiệp mục vụ để nâng đỡ gia đình. Cần phải cố gắng hết sức để ngành mục vụ gia đình được củng cố và phát triển, trở thành một ngành thật ưu tiên, vì chắc chắn trong tương lai, việc loan báo Tin Mừng phần lớn tùy thuộc nơi Hội Thánh tại gia đình[165].

Bận tâm mục vụ của Hội Thánh không phải chỉ giới hạn vào các gia đình Ki-tô hữu gần nhất, nhưng bằng cách mở rộng chân trời theo tầm trái tim của Đức Ki-tô, Hội Thánh sẽ tỏ ra còn tích cực hơn đối với toàn thể các gia đình nói chung và cách riêng là các gia đình đang sống trong những tình cảnh khó khăn và ngoại lệ. Đối với tất cả mọi gia đình ấy, Hội Thánh sẽ là một lời nói của sự thật, của nhân hậu, của cảm thông, của hy vọng, của sự chia sẻ sâu xa với những khó khăn lắm khi bi đát của họ: Hội Thánh muốn cống hiến cho tất cả mọi gia đình một sự giúp đỡ vô vị lợi để họ có thể đến gần với mẫu gia đình mà Đấng Tạo Hoá đã muốn ngay từ “khởi đầu” và Đức Ki-tô đã canh tân bằng ân sủng cứu chuộc của Người.

Việc chuẩn bị

66. Vào thời chúng ta, việc chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào hôn nhân và đời sống gia đình càng cần thiết hơn bao giờ hết. Ở một số nước, các gia đình, theo những tập tục cổ truyền vẫn còn giữ được vai trò truyền đạt cho các bạn trẻ những giá trị liên hệ tới đời sống hôn nhân và gia đình, bằng một hệ thống giáo đục hay khai tâm tiệm tiến. Nhưng những thay đổi dồn dập trong lòng hầu hết các xã hội tân tiến đòi hỏi không những chỉ gia đình mà cả xã hội và Hội Thánh đều phải dấn thân vào nỗ lực chuẩn bị tương xứng, để các bạn trẻ có thể cáng đáng các trách nhiệm trong tương lại. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong đời sống gia đình mà ngày nay người ta than phiền, đã xuất phát từ sự kiện, đó là trong những hoàn cảnh mới, các bạn trẻ không còn nhận ra được phẩm trật đúng đắn của các giá trị và vì không còn những tiêu chuẩn chắc chắn để xử thế, họ không còn biết làm sao để đương đầu và giải quyết các khó khăn mới. Kinh nghiệm cho thấy được rằng, các bạn trẻ được chuẩn bị chu đáo cho đời sống gia đình, cách chung sẽ thành công hơn các bạn khác.

Điều đó còn đúng hơn nữa cho hôn nhân Ki-tô giáo, vốn có ảnh hưởng rất rộng đối với sự thánh thiện của biết bao người nam người nữ. Vì thế Hội Thánh phải cổ võ những chương trình chuẩn bị hôn nhân phong phú và hữu hiệu, để hết sức loại trừ những khó khăn mà trong đó biết bao gia đình đang phải chiến đấu, và hơn nữa, để tích cực dẫn đưa các cuộc hôn nhân đến chỗ thành công và trưởng thành trọn vẹn.

Việc chuẩn bị hôn nhân phải được xem xét và thực hiện theo một tiến trình tuần tự và liên tục. Nó gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị liền trước bí tích.

Việc chuẩn bị xa bắt đầu từ thời thơ ấu, khoa sư phạm khôn ngoan của gia đình phải nhằm đưa trẻ em tới chỗ khám phá ra rằng mình được phú ban một tâm lý vừa phong phú vừa phức tạp, được phú ban một nhân cách đặc thù, với những sức mạnh cũng như những yếu đuối riêng của mình. Đây là giai đoạn mà trong đó người ta dần dân ghi khắc cho các em lòng quí chuộng đối với mọi giá trị nhân bản đích thực, trong các tương quan liên vị cũng như các tương quan xã hội, với những gì hàm chứa trong đó để đào tạo tính tình, để biết tự chủ và biết sử dụng đúng đắn các xu hướng riêng của mình, để biết cách nhận xét và gặp gỡ những người khác phái, và những chuyện khác như thế. Ngoài ra, đặc biệt đối với các Ki-tô hữu, còn phải có một sự đào tạo vững chắc về đời sống thiêng liêng và giáo lý, để hiểu được rằng hôn nhân là một ơn gọi và là một sứ mạng đích thực, nhưng vẫn không loại trừ khả năng tận hiến cho Thiên Chúa trong ơn gọi linh mục hoặc tu sĩ.

Tiếp theo, việc chuẩn bị gần sẽ dựa trên nền tảng ấy và là một công cuộc lâu dài : bắt đầu từ lứa tuổi thích hợp và với một việc dạy giáo lý tương xứng, tương tự phần nào như hành trình dự tòng, công việc này sẽ gồm việc chuẩn bị chuyên biệt về các bí tích, như để giúp các bạn trẻ tái khám phá các bí tích. Việc canh tân giáo lý theo chiều hướng đó cho tất cả những ai đang chuẩn bị hôn nhân Ki-tô giáo là một điều hết sức cần thiết, để bí tích sẽ được cử hành và được sống với những dự kiện luân lý và thiêng liêng thích hợp. Đến lúc thích hợp và tùy theo những đòi hỏi cụ thể khác nhau, việc đào tạo tôn giáo cho những người đính hôn sẽ phải được bổ túc bằng một sự chuẩn bị cho đời sống lứa đôi: khi trình bày hôn nhân như một tương quan liên vị phải được phát triển liên tục giữa người nam và người nữ, người ta phải khuyến khích họ đào sâu những vấn đề về tính dục hôn nhân và về vai trò cha mẹ có ý thức trách nhiệm, cùng với những hiểu biết cốt yếu gắn liền với các vấn đề ấy trong lãnh vực sinh lý và y học, và đưa họ tới chỗ làm quen với những phương pháp tốt để giáo dục con cái, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có được những yếu tố cơ bản cho một nếp sống gia đình ổn định (việc làm chắc chắn, đủ điều kiện tài chánh, biết điều hành sáng suốt, có khái niệm về kinh tế gia đình v…v…)

Sau cùng, cũng sẽ không được coi thường việc chuẩn bị cho công cuộc tông đồ gia đình, cho tình huynh đệ và sự cộng tác với các gia đình khác, cho việc tích cực hội nhập vào các nhóm, các hiệp hội, các phong trào và các sáng kiến có mục đích đem lại thiện ích nhân bản và Ki-tô giáo cho gia đình.

Việc chuẩn bị liền trước cuộc cử hành bí tích phải diễn ra trong nhiều tháng và nhất là trong những tuần cuối trước lễ cưới để nhờ đó có thể đem lại được một ý nghĩa mới, một nội dung mới và một hình thức mới cho việc quen gọi là điều tra hôn phối mà giáo luật đòi buộc. Một việc chuẩn bị như thế vốn cần thiết cho tất cả mọi trường hợp, lại càng khẩn cấp hơn cho những đôi hôn phối còn gặp nhiều thiếu sót và khó khăn về mặt giáo lý và thực hành Ki-tô giáo.

Trong số các yếu tố phải truyền đạt trong tiến trình đức tin này, tựa như ở thời kỳ dự tòng, cũng phải có việc đào sâu về mầu nhiệm Chúa Ki-tô và Hội Thánh, về ý nghĩa của ân sủng và của trách nhiệm gắn liền với hôn nhân Ki-tô giáo, đó là chưa kể tới việc chuẩn bị để tham dự tích cực vào nghi lễ phụng vụ hôn phối.

Gia đình Ki-tô hữu và toàn thể cộng đồng Hội Thánh phải cảm thấy mình có trách nhiệm trong các bước khác nhau của việc chuẩn bị hôn nhân, mà chúng ta chỉ mới phác qua những nét lớn. Ước mong rằng các Hội Đồng Giám Mục lưu tâm tới các sáng kiến thích hợp để giúp các vợ chồng tương lai biết ý thức hơn rằng, việc chọn lựa của họ hệ trọng biết bao, cũng như để giúp cho các vị chủ chăn biết bảo đảm cho những người ấy có được những dự kiện cần thiết; và với sự lưu tâm đó, các Hội Đồng Giám Mục sẽ xả thân làm việc, để sớm công bố được “Tập Chỉ Nam mục vụ gia đình”. Trong cuốn chỉ nam này, trước hết, sẽ phải xác định những yếu tố cần thiết không thể thiếu được về nội dung, về thời lượng, và về phương pháp của các “khoá chuẩn bị”, tạo quân bình cho những khía cạnh khác nhau có liên hệ tới hôn nhân – như giáo lý, sư phạm, luật pháp, y học – và xếp đặt thế nào để giúp cho những người sắp lập gia đình, không những chỉ được đào sâu thêm về hiểu biết, mà còn cảm thấy được thúc đẩy để hội nhập một cách tích cực vào trong cộng đồng Hội Thánh.

Mặc dù không được để cho tính cách cần thiết và bắt buộc của việc chuẩn bị liền trước lễ cưới bị coi như – điều này sẽ xảy ra nếu người ta chước miễn việc chuẩn bị ấy cách quá dễ dàng – nhưng việc chuẩn bị ấy phải luôn được nêu ra và thực hiện cách nào đó, để chẳng may mà bị bỏ sót cũng không tạo nên cản trở cho việc cử hành lễ cưới.

Việc cử hành

67. Hôn nhân Ki-tô giáo đòi hỏi phải theo luật cử hành phụng vu,ï để diễn tả tính cách xã hội và cộng đồng, nơi bản chất Hội Thánh và bí tích của khế ước hôn nhân giữa hai người đã rửa tội.

Xét như một hành vi bí tích để thánh hoá, việc cử hành hôn phối, được đưa vào trong phụng vụ – tột đỉnh mọi hành động của Hội Thánh, và là nguồn mạch sức thánh hoá của Hội Thánh[166] – việc cử hành ấy tự nó phải thành sự, xứng đáng và sinh hiệu quả. Về ứng dụng mục vụ, một phạm vi rộng lớn được mở ra, để đáp ứng trọn vẹn những đòi hỏi phát xuất từ bản chất của khế ước hôn nhân vốn được nâng lên hàng bí tích, và để trung thành tuân giữ kỷ luật của Hội Thánh về những gì liên hệ tới tự do ưng thuận, ngăn trở hôn phối, hình thức giáo luật và ngay cả nghi thức cử hành. Nghi thức này phải đơn giản và xứng đáng, hoàn thành theo đúng các qui tắc mà thẩm quyền Hội Thánh đã đề xướng; đàng khác, thẩm quyền này – tùy những trường hợp cụ thể về thời gian, về nơi chốn, về sự phù hợp với những qui tắc đã được Tông toà thiết lập[167] – mới được phép tùy nghi đưa vào việc cử hành, những yếu tố riêng của từng văn hoá, để diễn tả rõ hơn ý nghĩa nhân bản và tôn giáo sâu xa của khế ước hôn nhân, miễn là những yếu tố ấy không có gì lạc xa đức tin và luân lý Ki-tô giáo.

Xét như dấu chỉ, việc cử hành phụng vụ phải diễn ra thế nào để ngay cả trong thực tế bên ngoài của nó, có thể kết thành một sự công bố Lời Chúa và một sự tuyên xưng đức tin của cộng đồng các tín hữu. Ở đây, cố gắng mục vụ sẽ nhắm tới việc sử dụng “Phụng vụ Lời Chúa” cách thông minh và mẫn tiệp, cũng như lưu ý tới việc giáo dục đức tin cho những người đang tham dự việc cử hành, nhất là cho đôi vợ chồng tương lai.

Xét như hành vi bí tích của Hội Thánh, việc cử hành phụng vụ hôn phối phải lôi cuốn được cả cộng đồng Ki-tô hữu, với sự tham dự trọn vẹn, tích cực và có trách nhiệm của mọi người đang hiện diện, tùy theo chỗ đứng và vai trò của mình : đôi bạn, linh mục, các nhân chứng, cha mẹ, bạn hữu, các tín hữu khác, nói tắt là mọi thành phần của một cộng đoàn đang biểu lộ và sống mầu nhiệm Đức Ki-tô và của Hội Thánh Ngài.

Về việc cử hành hôn nhân Ki-tô giáo trong khung cảnh các văn hoá hay các truyền thống tổ tiên, cần theo đúng những nguyên tắc đã nêu trên.

Cử hành bí tích hôn phối và Phúc Âm hoá những người đã rửa tội nhưng chưa có lòng tin

68. Chính vì trong việc cử hành hôn phối, cần phải đặc biệt chú ý đến các dự kiện luân lý và thiêng liêng của đôi bạn, cách riêng về đức tin của họ, nên ở đây cần phải đề cập đến một khó khăn, không phải là họa hiếm, mà các chủ chăn trong Hội Thánh có thể gặp phải trong bối cảnh xã hội tục hoá của chúng ta.

Thực vậy, lòng tin của những người thỉnh cầu Hội Thánh chúc lành cho hôn nhân của họ,ï có thể ở nhiều mức độ khác nhau, cho nên các chủ chăn có bổn phận trước hết phải giúp họ khám phá lại đức tin, nuôi dưỡng đức tin và đưa đức tin đến chỗ trưởng thành. Các vị còn phải hiểu những lý do tại sao Hội Thánh chấp nhận cử hành cả cho những người chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng.

Trong tất cả các bí tích, bí tích Hôn Phối có đặc điểm này: nó là bí tích của một thực tại đã có saün trong trật tự của việc tạo dựng, nó là khế ước hôn nhân đã được Đấng Tạo Hoá thiết lập “từ lúc khởi đầu”. Do đó quyết định của người nam và người nữ muốn kết hôn theo dự án Thiên Chúa, quyết định dùng lời cam kết hôn nhân không thể rút lại để dấn thân trọn đời cho một tình yêu bất khả phân ly và cho một sự trung thành vô điều kiện, quyết định ấy thực sự – dù chưa được hiểu biết hoàn toàn – bao gồm một thái độ vâng phục sâu xa ý muốn Thiên Chúa, một thái độ không thể có nếu không có ân sủng. Như thế, họ đã bước vào hành trình đích thực của ơn cứu độ mà việc cử hành bí tích cũng như những chuẩn bị trước đó, có thể bổ túc cho hành trình ấy và đưa tới đích, miễn là ý hướng của họ thật sự ngay chính.

Đàng khác, quả thật, một vài nơi, những người đính hôn thỉnh cầu cử hành lễ cưới ở nhà thờ vì những nguyên do xã hội hơn là tôn giáo thực sự. Điều đó không đáng ngạc nhiên. Quả thế, hôn nhân không phải là một biến cố chỉ liên hệ tới những người kết hôn. Tự bản chất, nó còn là một sự kiện xã hội nối kết đôi bạn trước mặt xã hội. Từ lâu, việc cử hành hôn phối là một ngày lễ liên kết các gia đình và bạn hữu. Vì thế, thật dễ hiểu có các nguyên do xã hội cũng như các nguyên do cá nhân, đưa đến chuyện thỉnh cầu cử hành hôn phối tại thánh đường.

Tuy thế, đừng quên rằng những người đính hôn ấy, nhờ bí tích Rửa Tội, đã thực sự được hội nhập vào Giao ước hôn lễ của Đức Ki-tô với Hội Thánh, và họ đã đón nhận dự án Thiên Chúa về hôn nhân với một ý hướng ngay thẳng, do đó, một cách mặc nhiên họ đã đồng ý với điều mà Hội Thánh muốn khi cử hành hôn phối. Vì thế, nguyên trong việc thỉnh cầu cử hành hôn lễ gồm có những nguyên cớ xã hội mà các chủ chăn khước từ, thì điều ấy không biện minh được. Sau nữa, như Công đồng Va-ti-ca-nô II đã dạy, các bí tích nuôi dưỡng và củng cố đức tin qua các lời đọc và các yếu tố của nghi thức[168]: đức tin mà những người đính hôn đã dấn thân theo, nhờ ý hướng ngay thẳng mà ân sủng Đức Ki-tô hẳn không thiếu để nâng đỡ.

Bỏ qua những nhận xét ấy vì muốn tạo ra những tiêu chuẩn khác dựa trên mức độ đức tin của những người đính hôn để cho phép hay không cho phép cử hành hôn phối ở nhà thờ, điều đó có thể đưa đến những nguy cơ trầm trọng: trước hết là nguy cơ có những phê phán thiếu cân nhắc hoặc kỳ thị; rồi nguy cơ tạo ra những sự nghi ngờ về tính cách thành sự của nhiều cuộc hôn nhân đã cử hành, và như thế, không phải là không gây thiệt hại nặng nề cho các cộng đồng Ki-tô hữu, rồi còn gây nên những âu lo không chính đáng cho lương tâm các đôi bạn. Người ta cũng sẽ rơi vào mối nguy phủ nhận hoặc hoài nghi tính cách bí tích của rất nhiều cuộc hôn nhân nơi những anh em không hiệp thông trọn vẹn với Hội Thánh.

Ngược lại, nếu sau khi đã cố gắng hết cách mà các người đính hôn vẫn công khai và rõ ràng phủ nhận những điều Hội Thánh muốn thực hiện khi cử hành hôn nhân cho những người đã rửa tội, thì vị chủ chăn các linh hồn không được chấp nhận cử hành hôn lễ cho họ. Dù bất đắc dĩ, vị này phải nêu rõ sự việc và làm cho những người trong cuộc hiểu rằng công việc xảy ra như vậy không phải vì Hội Thánh nhưng vì chính họ đã ngăn cản việc cử hành mà họ đã xin.

Một lần nữa, nhu cầu loan báo Tin Mừng và dạy giáo lý trước cũng như sau lễ cưới, là điều thật cấp bách, và phải được toàn thể cộng đồng Ki-tô hữu ra tay thực hiện, để có thể giúp cho mọi người nam nữ kết bạn cử hành bí tích Hôn Phối không những thành sự nhưng còn sinh hoa kết trái.

Mục vụ sau lễ cưới

69. Trong cụ thể, ưu tư mục vụ dành cho những gia đình hợp lệ, làm cho mọi thành phần cộng đồng Hội Thánh địa phương dấn thân giúp đỡ đôi bạn khám phá và sống ơn gọi cũng như sứ mạng mới của mình. Để gia đình ngày càng trở nên một cộng đồng yêu thương đích thực, phải làm cho mọi phần tử đều được giúp đỡ và được đào tạo, để chu toàn trách nhiệm của mình trước những vấn đề mới, để phục vụ lẫn nhau cũng như để dự phần vào đời sống gia đình.

Điều ấy càng đúng với các gia đình trẻ trong bối cảnh những giá trị và trách nhiệm mới, đặc biệt trong những năm đầu của hôn nhân, với nhiều khó khăn bất ngờ chẳng hạn phải thích nghi với cuộc sống chung hay khi sinh sản con cái. Các vợ chồng trẻ nên biết đón nhận cách chân tình và tận dụng một cách thông minh sự giúp đỡ kín đáo, tế nhị và quảng đại của những cặp vợ chồng khác đã trải qua một thời gian kinh nghiệm hôn nhân và gia đình. Như thế, nhờ sự hiện diện và tương trợ trong lòng cộng đồng Hội Thánh – đại gia đình làm thành bởi các gia đình Ki-tô hữu – mà có được sự trao đổi hổ tương giữa tất cả các gia đình, trong đó mỗi gia đình đóng góp kinh nghiệm nhân bản cũng như tặng phẩm đức tin và ân sủng để phục vụ các gia đình khác. Được sinh động bởi một tinh thần tông đồ đích thực, mối tương trợ giữa các gia đình chính là một trong những phương thế giản dị nhất, hữu hiệu nhất và vừa tầm với mọi người để làm thấm nhập, lan truyền các giá trị Ki-tô giáo, là điểm khởi hành và cũng là đích điểm của mọi công tác mục vụ. Bằng cách ấy, các gia đình trẻ không tự giới hạn vào việc lãnh nhận, nhưng đến lượt họ, nhờ được giúp đỡ, họ lại trở nên nguồn mạch làm phong phú các gia đình thành lập trước họ, qua chứng từ đời sống và sự đóng góp tích cực.

Trong việc mục vụ với các gia đình trẻ, Hội Thánh phải quan tâm giáo dục cho họ biết sống tình yêu vợ chồng cách hữu trách, trong tương quan với các đòi hỏi về hiệp thông và phục vụ sự sống, cũng như dạy cho họ biết hoà hợp tình thân mật của tổ ấm gia đình với trách nhiệm quảng đại chung của mọi người trong việc xây dựng Hội Thánh và xã hội nhân loại. Khi có con cái, đôi bạn trở thành một gia đình theo nghĩa tròn đầy và chuyên biệt, lúc đó Hội Thánh vẫn còn phải gần gũi hai cha mẹ để giúp đỡ họ đón nhận con cái và yêu mến chúng như ân huệ sự sống được lãnh nhận từ Thiên Chúa, vui vẻ chấp nhận vất vả để phục vụ cho chúng lớn lên về mặt nhân bản và Ki-tô giáo.

 

II. NHỮNG CƠ CẤU CỦA MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Hoạt động mục vụ luôn là cách diễn tả năng động về thực tại Hội Thánh trong sứ mạng cứu độ. Mục vụ gia đình – một hình thức mục vụ đặc thù và chuyên biệt – tìm thấy nơi chính Hội Thánh, nguyên tắc hoạt động và khuôn mẫu trách nhiệm, qua các cơ cấu và các nhân viên của Hội Thánh.

Cộng đồng Hội Thánh và cách riêng giáo xứ

70. Là cộng đồng được cứu độ và đem lại ơn cứu độ, ở đây Hội Thánh phải được nhìn trong chiều kích kép: toàn cầu và địa phương. Chiều kích địa phương diễn tả và thể hiện trong cộng đồng giáo phận, được phân chia theo hoàn cảnh mục vụ, thành những cộng đồng nhỏ hơn, đặc biệt là giáo xứ với một tầm quan trọng riêng.

Mối hiệp thông với Hội Thánh toàn cầu, chẳng những không gây phương hại cho giá trị và sự độc đáo của các Hội Thánh địa phương, mà còn bảo đảm và phát triển nữa. Quả vậy, các Hội Thánh địa phương vẫn là những tác nhân trực tiếp nhất và hữu hiệu nhất để thể hiện mục vụ gia đình. Theo nghĩa đó, mỗi Hội Thánh địa phương và nói rõ hơn, mỗi cộng đồng giáo xứ, phải ý thức mạnh mẽ về ân sủng và trách nhiệm đã nhận được từ Chúa để cổ võ mục vụ gia đình. Mọi chương trình mục vụ được tổ chức, ở mọi cấp độ, không bao giờ được lướt bỏ mục vụ gia đình.

Từ quan điểm trách nhiệm như thế, ta sẽ hiểu được tầm quan trọng của việc chuẩn bị tương xứng cho tất cả những ai sẽ dấn thân một cách chuyên biệt vào loại công việc tông đồ này. Các linh mục, tu sĩ và nữ tu, ngay từ thời gian được huấn luyện, phải được định hướng và đào tạo tiệm tiến thích ứng với những trách vụ của họ sau này. Giữa rất nhiều sáng kiến, tôi sung sướng nhắc đến việc thành lập mới đây tại Rô-ma, bên cạnh trường Đại học Giáo Hoàng Latran, một Viện cao đẳng dành để nghiên cứu các vấn đề gia đình. Trong một vài giáo phận, những viện nghiên cứu loại này cũng đã được thành lập; các Giám mục phải làm sao để đông đảo linh mục tham dự những khoá chuyên môn tại các viện ấy trước khi đảm trách các giáo xứ. Ngoài ra, theo chu kỳ, còn phải tổ chức những khoá đào tạo tại các viện cao đẳng thần học và mục vụ. Những sáng kiến như thế phải được khuyến khích, nâng đỡ, gia tăng và hẳn nhiên rộng mở cho giáo dân với phần đóng góp nghiệp vụ của họ trong việc giúp đỡ các gia đình (về y khoa, luật pháp, tâm lý, xã hội, giáo dục).

Gia đình

71. Nhưng trong lãnh vực này, phải nhìn nhận vị trí đặc biệt dành cho sứ mạng các đôi vợ chồng và các gia đình, nhờ ân sủng từ bí tích họ đã lãnh nhận. Sứ mạng này nhằm xây dựng Hội Thánh và Nước Chúa trong lịch sử. Muốn được thế, phải ngoan ngoãn tuân phục Chúa Ki-tô. Quả vậy, qua hôn nhân được nâng lên hàng bí tích của những người đã được rửa tội, Người trao cho các đôi bạn Ki-tô hữu một sứ mạng tông đồ riêng biệt, để sai phái họ như những người thợ trong vườn nho của Người, và một cách đặc biệt, trong cánh đồng gia đình.

Trong hoạt động ấy, các đôi bạn Ki-tô hữu hành động trong tinh thần hiệp thông và cộng tác với các phần tử khác của Hội Thánh, những người này cũng đang hoạt động vì ích lợi của các gia đình, bằng cách làm cho các ơn và các tác vụ của họ được phát sinh hoa quả. Họ chu toàn việc tông đồ này trước hết trong gia đình riêng của họ, bằng cách làm chứng qua một đời sống đúng theo luật Chúa dưới mọi khía cạnh, bằng việc đào tạo về mặt giáo lý Ki-tô giáo cho con cái, giúp chúng trưởng thành trong đức tin, giáo dục đức khiết tịnh, chuẩn bị cho chúng vào đời, săn sóc để chúng tránh những nguy hiểm về ý thức hệ và luân lý mà chúng đang bị đe dọa, giúp chúng hội nhập cách tiệm tiến và hữu trách vào cộng đồng Hội Thánh và cộng đồng dân sự, giúp đỡ và góp ý cho chúng trong khi chọn lựa ơn gọi, giúp đỡ lẫn nhau giữa các phần tử trong gia đình để cùng được lớn lên về mặt nhân bản và Ki-tô giáo và nhiều điều khác nữa. Ngoài ra, việc tông đồ gia đình còn được triển nở dưới hình thức những công tác bác ái về tinh thần cũng như vật chất đối với các gia đình khác, cũng như đối với những người đau ốm, già cả, tàn tật, mồ côi, goá bụa, những người chồng, những người vợ bị bỏ rơi, những người mẹ độc thân và những người mẹ trong tình huống khó khăn, đang bị cám dỗ loại bỏ đứa con còn trong bào thai, v.v…

Các Hiệp Hội gia đình nhằm phục vụ các gia đình

72. Cũng trong khuôn khổ Hội Thánh, là chủ thể chịu trách nhiệm về mục vụ gia đình, còn phải nhắm đến những nhóm tín hữu khác nhau, trong đóù mầu nhiệm Hội Thánh Đức Ki-tô được biểu lộ và sống ở một mức độ nào đó. Một điều quan trọng nữa là phải biết đến và coi trọng các cộng đồng Hội Thánh, các nhóm và rất nhiều phong trào đang dấn thân vào mục vụ gia đình theo những cách thế khác biệt và với những danh hiệu và mức độ khác nhau, để ý rằng mỗi tổ chức đều có những đặc điểm, mục tiêu, cách kết nạp và phương pháp riêng.

Vì lý do đó, THĐGM đã chính thức nhìn nhận sự đóng góp ích lợi của những hiệp hội có tính cách tu đức, đào tạo hay làm việc tông đồ như thế. Vai trò của những hiệp hội này là làm dấy lên nơi các tín hữu một ý thức bén nhạy về sự liên đới, là tạo điều kiện thuận lợi cho một nếp sống được gợi hứng do Tin Mừng và do đức tin của Hội Thánh, là đào tạo cho lương tâm của mọi người biết theo giá trị Ki-tô giáo chứ không theo các tiêu chuẩn của ý kiến đám đông, là khuyến khích các công cuộc bác ái đang hướng về việc giúp đỡ lẫn nhau hay hướng về người khác với một tinh thần cởi mở có sức làm cho các gia đình Ki-tô hữu trở thành thật sự là nguồn sáng đích thực và là men lành mạnh cho các gia đình khác.

Rất đáng ước mong rằng, với một ý thức mạnh mẽ về công ích, các gia đình Ki-tô hữu cũng tích cực dấn thân ở mọi mức độ, vào những hiệp hội khác không thuộc Hội Thánh. Một số trong các hiệp hội này nhằm bảo vệ, thông truyền và cứu vãn các giá trị luân lý, văn hoá đích thực của dân tộc mà họ là thành phần, nhằm phát triển ngôi vị con người, bảo vệ các bà mẹ và trẻ em về mặt y khoa, pháp luật và xã hội, thăng tiến chính đáng các phụ nữ, gia tăng tình liên đới tương trợ, hiểu biết những vấn đề gắn liền với việc điều hoà sinh sản có trách nhiệm theo những phương pháp tự nhiên phù hợp với phẩm giá con người và giáo lý của Hội Thánh. Một số hiệp hội khác lại nhằm kiến tạo một thế giới công bình và nhân bản hơn, cổ võ những luật pháp công bình tạo thuận lợi cho một trật tự xã hội thích hợp có sự kính trọng trọn vẹn phẩm giá cũng như mọi quyền tự do chính đáng của cá nhân và của gia đình, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế, hoặc nhằm cọâng tác với học đường và các tổ chức bổ túc cho việc giáo dục trẻ em, và nhiều hiệp hội khác.

 

III. NHỮNG VỊ ĐẢM TRÁCH MỤC VỤ GIA ĐÌNH

Ngoài chính gia đình – vừa là đối tượng vừa là chủ thể trước hết của mục vụ gia đình – còn phải nhắc đến những người hữu trách chính yếu khác trong ngành mục vụ đặc biệt này.

Các Giám Mục và các Linh Mục

73. Người chịu trách nhiệm đầu tiên về mục vụ gia đình trong giáo phận chính là Giám mục. Như một người cha và chủ chăn ngài phải đặc biệt lo lắng cho ngành này, chắc chắn là ngành ưu tiên của mục vụ. Ngài phải hiến cho ngành này tất cả sự chú trọng, bận tâm, thời giờ, nhân sự và tại lực: nhưng hơn hết, đích thân ngài phải đem lại một điểm tựa cho các gia đình và cho tất cả những người đang giúp ngài, trong công việc mục vụ gia đình, thuộc những cơ cấu khác nhau của giáo phận. Cách riêng ngài phải tha thiết quan tâm để giáo phận ngày càng thực sự là một “gia đình giáo phận”, làm mẫu mực và nguồn hy vọng cho nhiều gia đình đang là thành phần của giáo phận. Việc thành lập uỷ ban giáo hoàng về gia đình đã được cứu xét trong bối cảnh ấy: nó được thành lập để làm dấu hiệu về tầm quan trọng tôi muốn dành cho ngành mục vụ gia đình trên thế giới, đồng thời cũng là một dụng cụ hữu hiệu để giúp thăng tiến mục vụ ấy ở tất cả mọi cấp độ.

Các Giám mục được giúp đỡ cách đặc biệt do các linh mục mà trách nhiệm của họ – như THĐGM đã chính thức nhấn mạnh – tạo thành một phần cốt yếu trong tác vụ của Hội Thánh đối với hôn nhân và gia đình. Cũng phải nói thế về các phó tế khi họ được trao nhiệm vụ về ngành mục vụ này.

Trách nhiệm của các vị ấy không những mở rộng trên các vấn đề luân lý và phụng vụ, nhưng còn cả trên các vấn đề cá nhân và xã hội. Các vị phải nâng đỡ gia đình trong các khó khăn và đau khổ của nó, bằng cách đứng bên cạnh các phần tử của gia đình, giúp họ biết nhìn cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Không phải dư thừa để ghi nhận rằng, khi thi hành sứ mạng ấy với nhận định thích hợp và tinh thần tông đồ thực sự, thừa tác viên Hội Thánh múc được ở đó, một sự khích lệ và những năng lực mới cho chính ơn gọi của mình cũng như chính việc thi hành tác vụ của mình.

Được chuẩn bị thích đáng và nghiêm chỉnh cho việc tông đồ này, linh mục và phó tế bao giờ cũng phải xử sự, đối với các gia đình, như là người cha, người anh, chủ chăn và thầy dạy bằng cách giúp họ với sự trợ giúp của ân sủng và soi sáng cho họ với ánh sáng của sự thật. Giáo huấn và lời khuyên của các vị phải luôn luôn am hợp trọn vẹn với quyền giáo huấn chính thức của Hội Thánh, làm sao để giúp cho dân Thiên Chúa tự tạo được một cảm thức chính xác về đức tin và áp dụng vào cuộc sống cụ thể. Sự trung thành với quyền giáo huấn như thế cũng sẽ giúp cho các linh mục có thể chăm lo gìn giữ được sự thống nhất trong những cách phán đoán của họ, để tín hữu khỏi bối rối lương tâm.

Trong Hội Thánh, chủ chăn và giáo dân đều dự phần vào sứ mạng ngôn sứ của Đức Ki-tô; giáo dân qua lời nói và đời sống Ki-tô hữu để làm chứng đức tin; chủ chăn nhận định trong chứng từ ấy điều gì biểu lộ đức tin đích thực và điều gì ít phù hợp với ánh sáng đức tin; gia đình, xét như cộng đồng Ki-tô hữu, tham dự và làm chứng đức tin theo cách của nó. Như vậy, có sự đối thoại giữa các chủ chăn và các gia đình. Các thần học gia và chuyên gia về những vấn đề gia đình có thể tạo thuận lợi lớn hơn cho cuộc đối thoại ấy, bằng cách trình bày thật chính xác nội dung của quyền giáo huấn Hội Thánh và nội dung của kinh nghiệm đời sống gia đình. Theo hướng ấy, giáo huấn sẽ được hiểu rõ hơn và con đường giúp cho việc phát triển tiệm tiến của quyền giáo huấn cũng trở nên dễ dàng hơn. Tuy thế thật hữu ích khi nhắc lại rằng, trong học thuyết đức tin – cả trong những vấn đề về gia đình – qui tắc buộc phải theo là qui tắc của quyền giáo huấn phẩm trật. Mối thông hảo giữa các thần học gia, các chuyên viên gia đình, với quyền giáo huấn sẽ giúp ích không ít cho việc thấu triệt đức tin và cũng như việc đề cao sự đa dạng hợp lý trong giới hạn đức tin ấy.

Nam Nữ Tu Sĩ

74. Nam nữ tu sĩ, và những người tận hiến nói chung, có thể góp phần vào công tác tông đồ gia đình. Họ diễn tả trước tiên, căn bản và độc đáo trong việc tận hiến cho Thiên Chúa: nhờ sự tận hiến ấy, “họ gợi ra trước mắt mọi Ki-tô hữu.sự kết hợp lạ lùng mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ tỏ hiện trọn vẹn mai hậu: đó là Hội Thánh nhận Đức Ki-tô làm lang quân độc nhất”[169]; sự tận hiến ấy làm cho họ trở nên những chứng nhân của đức ái phổ quát, qua đức khiết tịnh vì Nước Trời, họ càng trở nên saün sàng hơn để hiến mình cho việc phục vụ Thiên Chúa và công cuộc tông đồ.

Như thế nam nữ tu sĩ, thành viên các Tu Hội Đời và các Hội trọn lành khác, với danh nghĩa cá nhân hay tập đoàn, cũng đều có khả năng đem lại một sự phục vụ nào đó cho các gia đình, đặc biệt đối quan tâm tới các trẻ em, nhất là những trẻ em bị bỏ rơi, không được chấp nhận, mồ côi, nghèo khổ hay tàn tật; và họ có thể làm điều đó bằng cách thăm viếng các gia đình và săn sóc bệnh nhân; tạo những tương quan đầy kính trọng và bác ái với những gia đình thiếu vắng, đang gặp khó khăn hoặc phân tán; trình bày giáo huấn và đưa ra những lời khuyên để chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào hôn nhân, và giúp cho các đôi bạn trong vấn đề truyền sinh thật sự có trách nhiệm; giúp đỡ các gia đình mở cửa đón nhận người khác một cách giản dị và chân tình, để các gia đình có thể gặp được ở đó cảm thức về Thiên Chúa, sự ham thích cầu nguyện và hồi tâm, tấm gương cụ thể về một đời sống trong tình bác ái và niềm vui huynh đệ giữa các thành phần trong đại gia đình Thiên Chúa.

Đối với quý vị hữu trách các Tu hội tận hiến, tôi còn muốn thêm một lời khuyên nữa: dù thật tình tôn trọng đoàn sủng riêng biệt và nguyên thuỷ, mỗi hội hãy tha thiết xem việc tông đồ đối với các gia đình như một trong những trách nhiệm ưu tiên, cấp bách trong hoàn cảnh hiện nay.

Những giáo dân chuyên môn

75. Các giáo dân chuyên môn (y sĩ, luật gia, tâm lý gia, các trợ tá xã hội, các cố vấn v.v.) có thể hỗ trợ các gia đình với tính cách cá nhân, hoặc trong công tác của những hiệp hội hay các tổ chức khác nhau, để góp phần soi sáng, cố vấn, định hướng và nâng đỡ. Cũng có thể áp dụng cho họ những lời huấn dụ tôi đã có dịp nói với Liên đoàn các cố vẫn gia đình theo tinh thần Ki-tô giáo: “Việc dấn thân của quý vị thật đáng được gọi là sứ mạng, vì những mục tiêu mà quý vị theo đuổi thật cao cả và các kết quả phát xuất từ đó có tính cách quyết định cho lợi ích của xã hội cũng như của chính cộng đồng Ki-tô hữu… Hiệu quả của tất cả những gì mà quý vị làm được để nâng đỡ các gia đình, sẽ vượt khỏi lãnh vực riêng của gia đình, để đạt đến cả những người khác và ảnh hưởng trên xã hội. Tương lai của thế giới và của Hội Thánh đi qua các gia đình”[170].

Những người sử dụng và nhân viên truyền thông xã hội

76. Tôi cũng còn phải dành một lời nói riêng cho phạm vi thật quan trọng này trong cuộc sống hiện đại. Thật rõ rằng, những phương tiện truyền thông xã hội “thường tác động sâu xa trên tình cảm và trí tuệ, luân lý lẫn tôn giáo của những người sử dụng”, nhất các người trẻ[171]. Chúng có thể tạo một ảnh hường hữu ích cho đời sống và những thói quen của gia đình cũng như cho việc giáo dục trẻ em, nhưng đồng thời chúng cũng giấu ẩn “những cạm bẫy và nguy hiểm mà người ta không thể coi thường”[172],và chúng cũng có thể trở nên phương tiện – đôi khi thật đáng tiếc được vận dụng một cách khéo léo và có hệ thống như vẫn xảy ra trong nhiều nước trên thế giới – để chuyên chở những ý thức hệ phá hoại hay những nhãn quan lệch lạc về cuộc sống, gia đình, tôn giáo, luân lý, khinh thường phẩm giá và định mệnh con người.

Nguy hiểm còn rõ hơn nữa khi “lối sống hiện nay, cách riêng tại các nước kỹ nghệ, thường lôi kéo các gia đình đến chỗ thoái thác trách nhiệm giáo dục con cái, viện cớ có những tiện ích giải trí (có sẵn ở gia đình qua truyền hình và một số sách báo) để trôi qua hết thì giờ và sinh hoạt nhi đồng, thiếu niên”[173]. Do đó chúng ta có “bổn phận” phải ra sức bảo vệ giới trẻ thoát những cuộc “tấn công” của các phương tiện truyền thông đại chúng, bằng cách sử dụng các phương tiện giải trí lành mạnh, hữu ích và mô phạm về thể lý, luân lý và thiêng liêng, “để gia tăng giá trị cho thời giờ rảnh rỗi của giới trẻ cũng như định hướng năng lực cho họ”[174].

Ngoài ra, vì các phương tiện truyền thông xã hội – cũng như học đường và môi sinh – thường gây ảnh hưởng đáng kể trong việc đào tạo con cái, cho nên với tư cách là những người sử dụng các phương tiện ấy, các cha mẹ cần giữ vai trò chủ động trong việc sử dụng cách điều độ, có phê phán, phản tỉnh và khôn ngoan, hầu định mức ảnh hưởng của chúng trên con cái, cũng như giữ vai trò chủ động trong việc can thiệp nhằm giáo dục cho lương tâm của con cái có được những phán đoán trong sáng và khách quan, để chúng có thể chấp nhận hay từ chối một chương trình nào đó trong những chương trình được trình diễn”[175].

Với cố gắng tương tự cha mẹ sẽ tìm cách gây ảnh hưởng trên chính việc chọn lựa và chuẩn bị các chương trình, bằng cách có những sáng kiến thích hợp để liên lạc với những người có trách nhiệm thuộc các cấp khác nhau trong việc sản xuất và phát hành, để bảo đảm không vì quyền lợi bất chấp những giá trị nhân bản nền tảng, là một phần công ích xã hội đích thực, và hơn nữa để người ta đừng cố tình gây thiệt hại cho các giá trị ấy, ngược lại, sẽ phổ biến những chương trình thích hợp trình bày các vấn đề gia đình, trong ánh sáng trung thực của chúng, và cách giải đáp thoả đáng cho các vấn đề ấy. Về vấn đề này, vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phao-lô VI đã viết: “Các nhà sản xuất phải nhận biết và tôn trọng những đòi hỏi của gia đình. Điều đó giả thiết đôi khi họ phải rất can đảm và lúc nào cũng phải ý thức trách nhiệm rất cao. Thật vậy, họ phải tự ngăn cấm mình về… tất cả những gì có thể làm tổn thương đến gia đình trong sự hiện hữu, bền vững, quân bình và hạnh phúc; vì mọi điều phương hại đến các giá trị căn bản của gia đình – dù là tự do luyến ái hay những sự bạo hành, biện hộ cho sự ly dị hay những thái độ chống xã hội của người trẻ – đều là một sự phương hại cho thiện ích đích thực của con người[176].

Và trong một dịp tương tự, chính tôi cũng đã nhấn mạnh rằng, các gia đình “phải có thể tin cậy thật tình vào thiện chí, sự ngay thẳng và ý thức trách nhiệm của những người chuyên nghề truyền thông đại chúng: từ các nhà xuất bản, văn sĩ, nhà sản xuất, đạo diễn, tác giả kịch bản, đến các thông tín viên, bình luận gia, diễn viên”[177]. Vì thế Hội Thánh cũng có bổn phận phải không ngừng dành mọi quan tâm cho các hạng nhân viên ấy, đồng thời khuyến khích và nâng đỡ những người công giáo cảm thấy mình được kêu gọi và có khả năng để dấn thân vào các ngành tế nhị này.

 

IV. MỤC VỤ GIA ĐÌNH TRONG NHỮNG HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN

Những hoàn cảnh đặc thù

77. Còn phải quảng đại, thông minh, khôn khéo, theo gương vị Mục Tử nhân lành, khi dấn thân làm mục vụ cho các gia đình đang đối đầu với những khó khăn thật sự, thường ngoài ý muốn và do những đòi hỏi đủ loại.

Về điểm này, đặc biệt cần chú ý đến một số gia đình đặc thù không chỉ cần trợ giúp nhưng còn cần một hành động hiệu quả trên dư luận quần chúng và nhất là trên cơ cấu văn hoá, kinh tế, luật pháp nhằm loại bỏ tối đa những nguyên cớ sâu xa gây khó khăn cho họ.

Chẳng hạn như gia đình di dân tìm việc làm, gia đình những người bị bó buộc phải vắng mặt lâu ngày, như quân nhân, thuỷ thủ, du mục đủ loại, gia đình tù nhân, những người tị nạn hay bị lưu đầy; những gia đình giữa đô thị mà thực tế lại sống bên lề; các gia đình không nhà cửa; các gia đình không đầy đủ, chỉ có cha hoặc chỉ có mẹ; những gia đình có con bị tàn tật hay nghiện ma tuý; những gia đình có người nghiện rượu; những gia đình bị tách khỏi môi trường văn hoá và xã hội của họ, hay có nguy cơ mất môi trường ấy; những gia đình bị kỳ thị vì chính trị hay vì những lẽ khác; những gia đình bị xâu xé vì ý thức hệ; những gia đình không thể dễ dàng tiếp xúc với giáo xứ; những gia đình bị bạo hành hay bị ngược đãi vì đức tin; những gia đình vị thành niên; những người già cả không hiếm khi phải sống trong cô đơn và thiếu những phương tiện cần thiết để sinh sống.

Gia đình những người di cư, đặc biệt, thợ thuyền và nông dân, phải tìm cho mình được một quê hương ở khắp nơi trong Hội Thánh. Đó là bổn phận nằm trong bản chất Hội Thánh, vì Hội Thánh là dấu chỉ hiệp nhất trong đa dạng tính. Những người di cư phải được các linh mục tận tình giúp đỡ về nghi lễ, văn hoá và ngôn ngữ. Hội Thánh có bổn phận kêu gọi lương tâm tất cả những ai đang cầm quyền trong đời sống xã hội, kinh tế, và chính trị, để thợ thuyền tìm được việc làm trong miền đất quê hương của họ, nhận được đồng lương xứng đáng, gia đình được sớm đoàn tụ, căn tính văn hoá của họ được thừa nhận, được đối xử bình đẳng với các gia đình khác và để con cái họ có thể được hưởng sự huấn nghiệp và được hành nghề, cũng như có thể có được mảnh đất cần thiết để làm việc và sinh sống.

Một vấn đề nan giải là vấn đề các gia đình bị xâu xé trên bình diện ý thức hệ. Những trường hợp này đòi phải có lưu tâm mục vụ đặc thù. Trước hết, một cách kín đáo, cần giữ sự tiếp xúc riêng với những gia đình như thế. Các tín hữu phải được củng cố trong đức tin và nâng đỡ trong đời sống Ki-tô hữu của họ. Mặc dù phía còn trung thành với đạo Công Giáo không thể nhượng bộ, nhưng cần phải luôn giữ được sự đối thoại sống động với phía bên kia. Cần tăng thêm nhiều những sự biểu lộ yêu thương, kính trọng, trong niềm hy vọng sẽ giữ được sự hiệp nhất bền chặt. Điều ấy cũng tùy thuộc nhiều ở tương quan giữa cha mẹ và con cái. Các ý thức hệ xa lạ với đức tin, cuối cùng, có thể khích động các phần tử tín hữu trong gia đình phải lớn lên trong đức tin và trong chứng tá tình yêu của họ.

Những lúc khó khăn khác gia đình cần đến sự giúp đỡ của cộng đoàn Hội Thánh và của các chủ chăn có thể là: khi con cái đến tuổi dậy thì, dao động, phản kháng và đôi khi gây rối loạn; khi chúng lập gia đình, tách khỏi cha mẹ; khi không được thông cảm hay thiếu tình thương của những người thân yêu nhất; khi bị người phối ngẫu bỏ rơi hay khi người ấy chết, phải rơi vào kinh nghiệm đau thương của cảnh goá bụa; khi có một người trong gia đình chết, làm cho nòng cốt nguyên thuỷ của gia đình bị cắt bớt và bị biến dạng sâu xa.

Cũng thế, Hội Thánh không thể coi thường giai đoạn về già, với tất cả những tích cực và tiêu cực của nó: có thể là một sự đào sâu tình vợ chồng ngày càng thanh khiết và là kết quả của một đời trung thành lâu dài không gián đoạn; một sự saün sàng phục vụ người khác, dưới một thể thức mới mẻ, với lòng tốt và sự khôn ngoan chất chứa cũng như với những năng lực còn lại; nhưng cũng có một sự cô đơn đè nặng, thường về tâm lý và tình cảm hơn về thể lý, vì bị con cái hoặc những người khác trong họ hàng bỏ rơi hay không được họ lưu tâm đủ, rồi nỗi khổ tâm vì bệnh tật, vì sức lực suy giảm, vì phải hạ mình tùy thuộc người khác, vì chua chát cảm thấy mình trở thành gánh nặng cho những người thân yêu, vì thấy gần tới những giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Như các nghị phụ THĐGM đã gợi ý, đây là những cơ hội người ta có thể dễ dàng giúp cho người già hiểu được và sống được các khía cạnh nổi bật trong linh đạo hôn nhân và gia đình, được gợi hứng trong thập giá và sự phục sinh của Đức Ki-tô, nguồn ơn thánh hoá và nguồn vui sâu xa cho đời sống thường nhật, trong khi hướng về những thực tại lớn lao cuối cùng của đời sống vĩnh cửu.

Trong tất cả những tình cảnh ấy, đừng bao giờ sao nhãng kinh nguyện là nguồn mạch ánh sáng và sức mạnh, đồng thời cũng là lương thực nuôi dưỡng niềm hy vọng Ki-tô giáo.

Các cuộc hôn nhân hỗn hợp

78. Còn phải có một sự lưu tâm mục vụ riêng dưới ánh sáng những định hướng và những qui tắc bao gồm trong các tài liệu mới nhất của Toà Thánh và các Hội đồng Giám mục, để áp dụng cụ thể trong những tình cảnh khác nhau, trước con số những cuộc hôn nhân giữa người Công giáo và người đã rửa tội trong các hệ phái khác ngày càng tăng.

Các đôi bạn sống kinh nghiệm hôn nhân hỗn hợp với những đòi hỏi riêng, có thể xếp thành ba loại chính.

Trước hết, phải luôn ghi nhớ những bổn phận của phía công giáo phát xuất từ đức tin, về tất cả những gì liên hệ đến việc tự do thể hiện đức tin và từ đó, nghĩa vụ phải làm hết sức để lo cho con cái được rửa tội và giáo dục trong đức tin công giáo[178].

Phải để ý đến những khó khăn đặc thù nằm trong các tương quan giữa vợ chồng về tất cả những gì liên hệ đến sự tôn trọng tự do tôn giáo: tự do này có thể bị xâm phạm hoặc do những áp lực vô lý buộc người phối ngẫu phải thay đổi các xác tín tôn giáo, hoặc do những cản trở khiến không được tự do biểu lộ những xác tín ấy trong việc thực hành tôn giáo.

Về những gì liên hệ tới hình thức phụng vụ và giáo luật của hôn nhân, các vị bản quyền có thể sử dụng rộng rãi các năng quyền của họ tùy nhu cầu.

Đề cập đến những đòi hỏi đặc biệt này, cần lưu ý những điểm sau đây :

– Khi làm công việc chuẩn bị thích hợp cho loại hôn nhân này, phải cố gắng hết sức để giúp hiểu thật rõ giáo lý công giáo về các đặc tính và các đòi hỏi của hôn nhân, cũng như để bảo đảm rằng trong tương lai sẽ không có việc gây áp lực hay cản trở như vừa nói trên.

– Điều quan trọng nhất là với sự nâng đỡ của cộng đồng công giáo, phía công giáo cần được củng cố trong đức tin và cần được tích cực giúp đỡ để có một sự hiểu biết chín chắn hơn về đức tin và để thực hành đức tin cách tốt đẹp hơn, bằng cách trở nên một nhân chứng đáng tin thực sự trong lòng gia đình, nhờ đời sống và nhờ phẩm chất tình yêu họ dành cho bạn mình và con cái.

Các cuộc hôn nhân giữa những người công giáo và những người được rửa tội trong các hệ phái khác, mặc dù mang một sắc thái đặc biẹât, vẫn có nhiều yếu tố cần được tôn trọng và phát huy, hoặc vì giá trị nội tại của chúng hoặc vì chúng có thể góp phần cho phong trào đại kết. Điều đó được thấy rõ cách đặc biệt khi cả hai vợ chồng đều trung thành với những sự dấn thân trong tôn giáo của mình. Trong những cuộc hôn nhân này, phép rửa duy nhất của hai người và động năng ân sủng sẽ cung cấp cho đôi bạn nền tảng và động lực để giúp họ diễn tả được sự hiệp nhất trong lãnh vực các giá trị luân lý và tâm linh.

Trong mục đích ấy, và cũng để làm nổi bật tầm quan trọng đại kết của một cuộc hôn nhân hỗn hợp được sống trọn vẹn trong đức tin của cả hai người phối ngẫu đều là Ki-tô hữu, người ta nên tìm cách để có được sự cộng tác chân tình – mặc dù việc này không phải mọi lúc đều dễ dàng – giữa thừa tác viên công giáo và thừa tác viên không công giáo, từ việc chuẩn bị hôn nhân cho tới lễ cưới.

Về việc cho phép bên không công giáo rước lễ, sẽ theo những qui tắc mà phòng hiệp nhất Ki-tô hữu đã ấn định[179].

Ở nhiều miền khác nhau trên thế giới, người ta còn ghi nhận con số những cuộc hôn nhân giữa người công giáo và người chưa rửa tội ngày càng gia tăng. Trong một số trường hợp, người phối ngẫu không rửa tội có tuyên xưng một tôn giáo, những xác tín của người ấy phải được kính trọng, theo những nguyên tắc trong tuyên ngôn “Nostra Aetate” của Công Đồng Va-ti-ca-nô II về các tương quan với các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, cách riêng trong những xã hội bị tục hoá, người không rửa tội lại không tuyên xưng một tôn giáo nào. Đối với những cuộc hôn nhân này, các Hội Đồng Giám Mục và các Giám Mục cần liệu những phương sách mục vụ thích đáng, nhằm bảo đảm việc bảo vệ đức tin của người phối ngẫu công giáo và bảo vệ việc tự do thể hiện đức tin, nhất là về bổn phận người ấy phải làm hết sức để con cái được rửa tội, và giáo dục theo đức tin công giáo. Người phối ngẫu công giáo cũng phải được nâng đỡ mọi cách để biết cố gắng đem lại chứng tá đích thực về đức tin và đời sống công giáo ngay trong gia đình Ki-tô hữu.

Hoạt động mục vụ trong một vài hoàn cảnh trái qui tắc

79. Với mối bận tâm muốn bảo vệ gia đình trong mọi chiều kích của nó – chứ không phải chỉ nguyên chiều kích tôn giáo – THĐGM cũng đã chú tâm xem xét một vài hoàn cảnh trái qui tắc trên bình diện tôn giáo và thường cả trên bình diện dân sự. Giữa những thay đổi nhanh chóng về văn hoá ngày nay, thật đáng tiếc những chuyện trái qui tắc này đang lan tràn ngay cả giữa những người công giáo, gây một thiệt hại nghiêm trọng cho cơ chế gia đình và xã hội mà gia đình là tế bào căn bản.

a. Hôn nhân thử

80. Tình trạng trái qui tắc đầu tiên thường được gọi là “hôn nhân thử” mà ngày nay nhiều người đang muốn biện minh bằng cách gán cho nó một vài giá trị nào đó. Thật là một điều không thể nào chấp nhận được. Chỉ nguyên lý trí con người cũng đủ cho thấy điều đó, khi cho thấy rằng chẳng có mấy lý do khiến ta có thể nói đến việc “thử nghiệm” nhân vị, vì phẩm giá của nhân vị đòi hỏi nó phải luôn luôn là và chỉ có thể là đích điểm của tình yêu trao hiến không trừ một giới hạn nào, dù là giới hạn thời gian hay bất cứ giới hạn nào khác.

Về phần mình, Hội Thánh không thể chấp nhận loại kết hợp này, còn vì những lý do bổ túc và độc đáo khác phát xuất từ đức tin. Thật vậy, một đàng việc trao hiến thân xác trong tương quan tính dục là biểu tượng thực sự cho việc trao hiến trọn cả ngôi vị; hơn nữa, trong ý định hiện hành của Thiên Chúa, một sự trao hiến như thế không thể thực hiện được sự thật trọn vẹn mà lại không cần đến tình yêu bác ái của Đức Ki-tô ban cho. Đàng khác hôn nhân giữa hai người đã rửa tội là biểu tượng thực sự cho việc kết hợp giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh, một sự kết hợp không thể nào có tính cách tạm bợ hay “để thử”, nhưng là trung tín đời đời; như thế, giữa hai người đã rửa tội, chỉ có thể có một hôn nhân bất khả phân ly.

Một tình trạng như thế bình thường không thể nào thắng vượt được nếu ngay từ thơ ấu, nhân vị đã không được giáo dục, để lướt thắng nhục dục mới phát sinh và để thiết lập những tương quan tình yêu chân chính với người khác, với sự trợ giúp của ân sủng Đức Ki-tô và không sợ hãi. Điều này cũng sẽ không đạt được nếu thiếu sự đào tạo đúng nghĩa để biết yêu thương đích thực và sử dụng tính dục cách đúng đắn, một việc đào tạo có khả năng đưa dẫn nhân vị với mọi chiều kích của nó, kể cả thân xác, vào trong sự viên mãn của mầu nhiệm Đức Ki-tô.

Thật hữu ích nếu người ta điều tra kỹ các nguyên cớ của hiện tượng này, ngay cả trong khía cạnh tâm lý và xã hội để có thể tìm được một phương thức chữa trị thật thích đáng.

b. Những vụ chung sống không hôn nhân

81. Đây là trường hợp những việc kết hợp không có một ràng buộc cơ chế nào được công khai nhìn nhận, cả về dân sự lẫn về tôn giáo. Hiện tượng này, càng ngày càng trở nên thông thường không thể nào không lôi cuốn sự chú tâm của các vị chủ chăn. Phải chú tâm tới những yếu tố khác biệt đưa tới tình trạng ấy, để nhờ tác động trên những yếu tố nguyên nhân để có thể giảm bớt được các hậu quả.

Quả thế, một số người cho rằng bị buộc phải đi đến tình trạng ấy vì những tình cảnh khó khăn về mặt kinh tế, văn hoá hay tôn giáo. Họ nghĩ rằng nếu thực hiện một cuộc hôn nhân đúng luật, họ sẽ bị thiệt thòi, bị mất mát các lợi ích kinh tế, bị kỳ thị v…v… Một số người khác lại gặp thấy một thái độ miệt thị, phản kháng hay chối bỏ đối với xã hội, cơ chế gia đình, trật tự chính trị xã hội, hoặc cũng có thể chỉ là một sự tìm kiếm lạc thú. Sau cùng, có những người bị đẩy đến tình trạng ấy vì sự ngu dốt và nghèo nàn cực độ, đôi khi cũng vì những điều kiện sống phát xuất từ những hoàn cảnh thật sự bất công, hoặc vì sự thiếu trưởng thành tâm lý khiến họ trở thành do dự và làm cho họ sợ hãi không dám cam kết ràng buộc với ai lâu bền và dứt khoát. Tại một vài xứ, lại có tục lệ cổ truyền, chỉ nghĩ đến hôn nhân đúng nghĩa sau một thời gian chung sống và sau khi đã sinh đứa con đầu lòng.

Mỗi yếu tố trên đây đều đặt ra cho Hội Thánh những vấn đề mục vụ gay go, vì đều đưa đến những hậu quả trầm trọng, hoặc trên bình diện tôn giáo và luân lý (mất ý thức tôn giáo về hôn nhân, được quan niệm trong ánh sáng của Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài; thiếu ơn sủng bí tích; gây gương xấu trầm trọng), hoặc trên bình diện xã hội (phá huỷ quan niệm về gia đình; làm suy yếu ý thức về sự trung thành, ngay cả đối với xã hội; có thể gây chấn động tâm lý cho con cái; cổ võ cho tính ích kỷ).

Các chủ chăn và cộng đồng Hội Thánh đều phải chuyên tâm tìm cách biết rõ những tình cảnh ấy và các nguyên cớ của chúng, từng trường hợp một; các vị phải để tâm, với sự kín đáo và tôn trọng, tìm cách đến với những người đang chung sống như thế, kiên nhẫn khai sáng cho họ, đón nhận họ với tình bác ái, đem lại cho họ một chứng tá về gia đình Ki-tô hữu, nói cách khác là làm tất cả những gì có thể đưa họ tới chỗ hợp thức hoá tình cảnh của họ. Tuy nhiên, trên hết, cần phải làm một công cuộc ngăn ngừa, bằng cách vun trồng ý thức về sự trung thành trong mọi việc giáo dục về luân lý và tôn giáo cho bạn trẻ, bằng cách huấn luyện cho họ có các điều kiện và cơ cấu thuận lợi cho sự trung thành ấy để nhờ đó họ thật sự được tự do, bằng cách giúp họ trưởng thành về mặt thiêng liêng, bằng cách làm cho họ hiểu được thực tại nhân bản và siêu nhiên phong phú của cuộc hôn nhân bí tích.

Dân Thiên Chúa cũng phải can thiệp với các công quyền, để các quyền bính này chống lại những xu hướng đang làm phân hoá xã hội và gây thiệt hại cho phẩm giá, sự an ninh và tiện ích của nhiều công dân, cũng như để họ ra sức tránh cho quan niệm đại chúng khỏi đi tới chỗ coi rẻ tầm quan trọng của cơ chế hôn nhân và gia đình. Và tại nhiều miền, vì sự nghèo khổ cùng cực phát xuất từ những cơ cấu kinh tế và xã hội bất công và không thích hợp, mà các bạn trẻ không có được những điều kiện để có thể lập gia đình một cách thích hợp, do đó phải cầu mong sao cho xã hội và các công quyền tạo được sự thuận lợi cho người ta sống đời hôn nhân một cách hợp pháp, như bằng cách can thiệp vào xã hội và chính trị nhằm bảo đảm tiền lương gia đình, nhằm áp dụng những phương sách để ai nấy có được nơi cư trú thích hợp với đời sống gia đình, nhằm tạo ra những cơ hội tương xứng để làm việc và sinh sống.

c. Những người công giáo kết hôn mà chỉ có hôn phối dân sự

82. Trường hợp những người công giáo, vì những nguyên do ý thức hệ hay vì những lý do thực tiễn, muốn lập hôn phối dân sự mà từ chối việc cử hành hôn phối tôn giáo hoặc dời việc cử hành này lại sau, càng ngày càng trở nên nhiều. Không thể coi tình cảnh của họ cũng y như tình cảnh của những người chung sống mà không có một ràng buộc nào, vì ở đây ít ra cũng có một sự dấn thân nào đó vào một tình trạng sống nhất định và có lẽ cũng bền vững, cho dù viễn tượng ly dị là một chuyện không xa lạ lắm với loại quyết định này. Khi muốn việc liên kết của mình được sự nhìn nhận công khai của nhà nước, các đôi bạn này đã cho thấy rằng họ saün sàng đảm nhận những nghĩa vụ cũng như những quyền lợi của sự liên kết ấy. Dù vậy, Hội Thánh vẫn không thể chấp nhận tình trạng ấy.

Hoạt động mục vụ nhằm giúp cho người ta chấp nhận rằng nhất thiết phải có sự đi đôi giữa sự chọn lựa đời sống và đức tin họ tuyên xưng, mục vụ cũng phải cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để đưa người ấy tới chỗ hợp thức hoá tình cảnh của họ theo các nguyên tắc Ki-tô giáo. Mặc dù vẫn đầy tình bác ái lớn lao đối với họ và muốn đưa họ về tham dự cuộc sống các công đồng, nhưng dầu vậy các chủ chăn trong Hội Thánh vẫn không thể chấp nhận cho họ xưng tội rước lễ.

d. Những người ly thân và những người ly dị không tái hôn

83. Có những nguyên do khác nhau, như sự thiếu thông cảm giữa vợ chồng, thiếu khả năng mở ra với các tương quan liên vị v…v… có thể làm cho cuộc hôn nhân thành sự đi tới chỗ đổ vỡ đau thương, mà thường không hàn gắn nổi. Hiển nhiên là việc ly thân chỉ có thể được dùng như phương thuốc cuối cùng sau khi đã dùng đủ mọi cố gắng để tránh mà không hữu ích gì.

Sự cô đơn và nhiều khó khăn khác nữa thường là số phận dành cho người phối ngẫu bị phân ly, nhất là nếu người ấy vô tội. Trong trường hợp đó, cộng đồng Hội Thánh phải nâng đỡ người ấy hơn bao giờ, phải đem lại cho người ấy sự quí mến, liên đới cảm thông và giúp đỡ cụ thể để người ấy có thể trung thành ngay cả trong tình cảnh khó khăn của mình; phải giúp người ấy biết vun trồng sự tha thứ mà tình yêu thương Ki-tô giáo đòi hỏi và biết luôn luôn saün sàng nối lại cuộc sống vợ chồng trước kia.

Trường hợp một người phối ngẫu bị bó buộc phải chịu ly dị cũng tương tự như thế khi, vì ý thức rõ tính cách bất khả phân ly của dây hôn phối thành sự, người ấy không để mình bị lôi cuốn vào một sự kết hợp mới, nhưng chỉ ra sức chu toàn các bổn phận gia đình và các trách nhiệm Ki-tô hữu của mình. Lúc đó, chứng tích của họ về sự trung thành và về sự ăn khớp của mình với đời sống Ki-tô hữu có một giá trị thật đặc thù đối với thế giới và Hội Thánh hơn bao giờ hết, Hội Thánh phải đem lại cho họ một sự giúp đỡ đầy khích lệ ưu ái, và cho họ tham dự các bí tích, không một cản trở nào.

e. Những người ly dị tái hôn

84. Kinh nghiệm thường ngày cho thấy rằng, bất hạnh thay những người đã ly dị dường như bao giờ cũng nhắm tiến tới một sự kết hợp mới, dĩ nhiên là chẳng có nghi lễ công giáo nào cả. Và vì đây là một đại họa ngày càng lan rộng và tấn công cả các môi trường công giáo như những đại họa khác, nên cần phải cấp bách đối kháng lại vấn đề này với một sự quan tâm hết sức lớn lao. Các nghị phụ THĐGM đã nghiên cứu rành rẽ vấn đề này. Quả vậy, được thiết lập để đưa dẫn mọi người tới ơn cứu độ, cách riêng những người đã chịu phép rửa tội, Hội Thánh không thể bỏ mặc những người, đã được kết hợp trong dây bí tích hôn phối, nay lại muốn cưới người khác. Nên Hội Thánh phải cố gắng không biết mỏi mệt để đem các phương tiện cứu rỗi của mình cho họ sử dụng.

Vì lòng yêu sự thật, các chủ chăn phải biết rằng mình có nghĩa vụ phân biệt rõ những tình cảnh khác nhau. Thật thế, những người đã thành tâm cố gắng cứu vãn cuộc hôn nhân thứ nhất nhưng đã bị ruồng bỏ một cách bất công, thì khác hẳn với những người do sai lỗi trầm trọng đã phá huỷ cuộc hôn nhân thành sự theo giáo luật. Sau nữa cũng có trường hợp những người đã lấy một người khác để giáo dục con cái và đôi khi trong lòng cứ chủ quan tin chắc rằng cuộc hôn nhân trước, mà bây giờ đã bị phá huỷ không sao cứu vãn được, xưa nay vẫn không hề thành sự.

Cùng với THĐGM, tôi nồng nhiệt kêu mời các chủ chăn và toàn thể cộng đoàn tín hữu hãy giúp đỡ những người ly dị đã tái hôn. Bằng một lòng bác ái rộng lớn, tất cả sẽ làm thế nào để họ không cảm thấy bị lìa xa Hội Thánh, vì là những người đã được rửa tội, không những họ có thể mà còn phải dự phần vào đời sống Hội Thánh. Người ta sẽ mời họ lắng nghe Lời Thiên Chúa, tham dự Hy tế thánh lễ, kiên trì cầu nguyện, góp phần vào các công cuộc bác ái và vào các sáng kiến của Hội Thánh để phụng sự công lý, giáo dục con cái họ trong đức tin Ki-tô giáo, vun trồng tinh thần đền tội và làm các việc đền tội để ngày qua ngày thành khẩn nài xin ơn thánh của Thiên Chúa. Ước gì Hội Thánh cầu nguyện cho họ, khích lệ họ và tỏ ra là một người mẹ nhân từ đối với họ, và nhờ đó giữ họ trong đức tin đức cậy.

Tuy nhiên, Hội Thánh vẫn xác nhận lại kỷ luật của mình, kỷ luật xây dựng trên Thánh Kinh, theo đó Hội Thánh không thể chấp nhận cho những người ly dị tái hôn được hiệp thông Thánh Thể. Họ đã tự làm cho mình trở nên mất đi khả năng dự phần vào đó vì tình trạng của họ và vì điều kiện sống của họ mâu thuẫn một cách khách quan với sự hiệp thông yêu thương giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh, như nó vẫn được diễn tả và hiện tại hoá trong phép Thánh Thể. Ngoài ra còn có một lý do mục vụ đặc thù khác: nếu chấp nhận cho những người ấy được rước lễ, điều đó sẽ khiến các tín hữu đi tới chỗ sai lạc, hiểu lầm giáo lý của Hội Thánh về sự bất khả phân ly của hôn nhân.

Việc giao hoà bằng bí tích thống hối – là bí tích mở đường cho bí tích Thánh Thể – chỉ có thể được ban cho những người biết hối hận vì đã phạm đến dấu hiệu của Giao ước và của sự trung thành với Đức Ki-tô, và thành thật saün lòng chấp nhận một hình thức sống không còn mâu thuẫn với sự bất khả phân ly của hôn nhân nữa. Nói như thế là mặc nhiên cho rằng, khi có những lý do hệ trọng – chẳng hạn để làm gương và giáo dục con cái – người nam và người nữ không thể xa lìa nhau như luật buộc, thì “họ có thể quyết tâm sống hoàn toàn tiết dục, nghĩa là tránh hẳn những hành vi dành riêng cho vợ chồng”[180].

Cũng thế, vì sự kính trọng phải có đối với bí tích hôn nhân, đối với chính những người phối ngẫu và thân thuộc của họ, cũng như đối với cộng đồng tín hữu, cấm tất cả mọi chủ chăn, dù bất cứ vì nguyên do nào hay bất cứ vịn cớ gì, ngay cả vì lý do mục vụ, đều không được cử hành bất cứ một thứ nghi thức nào cho những người đã ly dị nay kết hôn lại. Quả vậy, làm bất cứ điều gì loại đó cũng sẽ làm cho người ta có cảm tưởng rằng việc cưới hỏi mới này đã thành sự do một cuộc cử hành bí tích nào đó, và như thế sẽ đưa người ta đến chỗ hiểu sai lạc về sự bất khả phân ly của hôn nhân.

Khi hành động như thế, Hội Thánh tuyên xưng rằng mình trung thành với Đức Ki-tô và với bản chất đích thực của mình; đồng thời, với một lòng từ mẫu, Hội Thánh cúi mình lo cho con cái, cách riêng là những người con đã bị người phối ngẫu hợp pháp của họ rầy bỏ mà không do lỗi của họ.

Với một lòng tin tưởng mãnh liệt, Hội Thánh tin rằng ngay cả những người đã lìa xa lệnh truyền của Chúa và đang tiếp tục sống trong tình trạng ấy, cũng có thể nhận được ơn hoán cải và cứu rỗi nơi Thiên Chúa, nếu họ kiên trì trong kinh nguyện, thống hối và bác ái.

Những người không gia đình

85. Tôi còn ao ước được nói thêm đôi lời với một hạng người mà vì điều kiện cụ thể mà họ đang sống – thường ngoài ý muốn của họ – tôi nhìn nhận họ gần gũi cách đặc biệt với Trái Tim của Đức Ki-tô và do đó đáng được Hội Thánh và nhất là các chủ chăn ân cần yêu mến và săn sóc.

Quả vậy, trong thế giới hiện nay có một số đông người thật bất hạnh vì không thể có liên hệ gì với cái mà ta quen gọi là gia đình đúng nghĩa. Có một phần rất lớn nhân loại đang sống trong những điều kiện nghèo khổ cùng cực, sống chung lộn, thiếu nhà cửa, quan hệ với nhau chẳng bền vững và hợp pháp, thiếu hẳn văn hoá, những hoàn cảnh ấy đã không cho phép họ nói tới chuyện gia đình. Có những người khác, vì những lý do khác nhau, đang sống đơn độc trên thế giới. Tuy nhiên “Tin Mừng về gia đình” cũng được gởi đến cả cho họ nữa.

Về những điều liên hệ đến những người đang sống trong sự nghèo khổ cùng cực, tôi đã nói đến nhu cầu cấp bách phải hành động thật can đảm để tìm ra cả trên bình diện chính trị, những cách giải quyết có thể giúp họ vượt lên khỏi tình trạng liệt nhược phi nhân bản ấy. Đó là một bổn phận cho toàn thể xã hội, vì mọi người đều liên đới với nhau, nhưng một cách đặc biệt đó là bổn phận của các công quyền vì họ phải gánh vác và chịu trách nhiệm, và cũng là một bổn phận cho các gia đình có bổn phận phải bày tỏ sự cảm thông rộng lớn và ý chí tương trợ của mình.

Đối với những người không có gia đình tự nhiên, thì càng phải mở rộng hơn nữa các cánh cửa của đại gia đình Hội Thánh. Đại gia đình này mang một khuôn mặt cụ thể, trong gia đình giáo phận và giáo xứ, trong các cộng đồng căn bản và trong các phong trào tông đồ. Trong thế giới ngày nay không ai vô gia đình: Hội Thánh là nhà và gia đình của tất cả mọi người, cách riêng là của những ai “đang lao đao và gánh nặng”[181].

 KẾT LUẬN

—————–

86. Tôi hướng về anh chị em, các đôi bạn, và hướng về anh chị em là những người cha, người mẹ gia đình.

Cha hướng về các con, các thanh niên thiếu nữ, là tương lai và là hy vọng của Hội Thánh và của thế giới, và vào đầu thiên niên kỷ thứ ba này, chúng con sẽ là hạt nhân hoạt động và sống thực của gia đình.

Tôi hướng về anh em đáng kính và thân mến trong Giám Mục Đoàn và trong chức linh mục, cũng như các con cái yêu quí của tôi là các tu sĩ nam nữ, những tâm hồn tận hiến cho Chúa để trở nên nhân chứng trước mặt các đôi bạn về thực tại tận cùng của tình yêu Thiên Chúa.

Tôi hướng về tất cả quí vị, những con người có trí phán đoán ngay thẳng, và đang bận tâm tới số phận của các gia đình, dưới danh nghĩa này hay danh nghĩa khác, trong giờ phút kết thúc Tông huấn này, tôi hướng về tất cả mọi người với một tấm lòng ưu ái nồng nhiệt.

Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình. Thế nên thật trọng yếu và cấp bách, tất cả mọi người thiện chí đều phải hết sức mình để bảo vệ và thăng tiến các giá trị và các đòi hỏi của gia đình.

Tôi thấy mình bị thúc bách phải yêu cầu các con cái Hội Thánh nỗ lực một cách đặc biệt cho vấn đề này. Trong đức tin, họ đã được hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa kỳ diệu của Thiên Chúa, nên họ càng có lý do để lưu tâm tới thực tế gia đình, trong thời đại của chúng ta, thời đại thử thách và ân sủng.

Họ phải yêu mến gia đình một cách đặc biệt hơn cả. Đó là một mệnh lệnh cụ thể và gắt gao.

Yêu mến gia đình nghĩa là quí chuộng các giá trị và khả năng của gia đình, luôn tìm cách thăng tiến các giá trị và khả năng ấy. Yêu mến gia đình nghĩa là làm thế nào đảm bảo để có được môi trường thuận lợi hầu phát triển. Gia đình Ki-tô hữu ngày nay thường đang bị cám dỗ nản lòng hay đang âu lo trước những khó khăn, ngày một lớn; lòng yêu mến ấy còn được biểu lộ qua một hình thức trổi vượt nữa, đó là đem lại cho gia đình Ki-tô hữu những lý do để tự tin vào mình, qua những phong phú mà gia đình có được tự bản chất hay do ân sủng, qua sứ mạng Thiên Chúa đã uỷ thác cho gia đình. “Các gia đình ngày nay phải trấn tỉnh lại ! Phải theo Chúa Ki-tô”[182].

Ngoài ra, các Ki-tô hữu còn có bổn phận phải loan báo cách vui tươi và xác tín, “Tin Mừng” về gia đình, vì một cách tuyệt đối, gia đình đang còn và mãi mãi vẫn còn cần nghe và cần hiểu ngày càng sâu sắc hơn, những lời đích thực mặc khải cho gia đình biết chân tính của nó, những tiềm năng và tầm quan trọng sứ mạng gia đình trong xã hội loài người và trong Hội Thánh Thiên Chúa.

Hội Thánh biết đâu là con đường sẽ đưa gia đình đạt tới chân tính sâu xa nhất của nó. Hội Thánh được dạy cho biết con đường này nơi trường học của Đức Ki-tô và lịch sử, được diễn giải dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần. Hội Thánh không áp đặt, nhưng cảm thấy mình bị đòi hỏi gắt gao phải biểu dương con đường ấy cho mọi người, không sợ hãi, nhưng với một lòng tin tưởng và hy vọng lớn lao, dù biết rằng “Tin Mừng” cũng bao gồm cả ngôn ngữ của thập giá. Chỉ có qua thập giá, gia đình mới có thể đạt được sự viên mãn của hữu thể và sự hoàn thiện của tình yêu.

Sau cùng tôi tha thiết kêu gọi tất cả Ki-tô hữu hãy thật lòng và can đảm cộng tác với tất cả những người thiện chí đang thể hiện trách nhiệm của họ đối với các gia đình. Những người đang hy sinh vì thiện ích gia đình, trong lòng Hội Thánh cũng như nhân danh Hội Thánh và dưới sự hướng dẫn của Hội Thánh, dù họp thành những nhóm hay cá nhân, phong trào hay hiệp hội, ước gì tất cả những người ấy biết liên kết với những người và những cơ chế khác nhau đang hoạt động cho cùng một lý tưởng. Khi trung thành với những giá trị Tin Mừng cũng như con người, và tôn trọng sự đa diện chính đáng trong các sáng kiến, việc cộng tác như thế sẽ giúp cho gia đình được thăng tiến mau chóng và toàn diện hơn.

Kết luận sứ điệp mục vụ này, một sứ điệp muốn thu hút sự chú ý của tất cả mọi người về những trách nhiệm, tuy nặng nề nhưng lôi cuốn, của gia đình Ki-tô hữu, giờ đây tôi tha thiết nài xin sự bảo trợ của Thánh Gia Na-da-rét.

Nơi gia đình ấy, do ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật nhiều năm tháng. Thế nên gia đình ấy là nguyên mẫu và là tấm gương cho mọi gia đình Ki-tô hữu. Chúng ta hãy nhìn gia đình ấy, Gia đình có một không hai trong thế giới, Gia đình đã sống âm thầm, lặng lẽ trong một thị trấn nhỏ Palestina, Gia đình đã bị thử thách vì nghèo khổ, bắt bớ, lưu đầy, Gia đình đã tôn vinh Thiên Chúa một cách trổi vượt và tinh khiết vô song : Gia đình ấy sẽ không quên cứu giúp các gia đình Ki-tô hữu và cứu giúp cả mọi gia đình trên thế giới, để họ trung thành với các bổn phận hằng ngày của họ, để họ biết cách chịu đựng những âu lo và xáo trộn trong cuộc sống, để họ quảng đại mở lòng ra trước những nhu cầu của người khác, để họ vui vẻ hoàn tất chương trình Thiên Chúa đã định cho họ.

Ước gì thánh Giu-se, là “người công chính”, là người công nhân không biết mỏi mệt, là người bảo vệ nguyên vẹn tuyệt đối những gì đã được uỷ thác, luôn luôn gìn giữ các gia đình ấy, bênh vực họ, soi sáng cho họ !

Ước gì Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là Mẹ của Hội Thánh, cũng nên Mẹ của “Hội Thánh tại gia” ! Ước gì nhờ sự trợ giúp từ mẫu của Mẹ, mẹ gia đình Ki-tô hữu đều có thể thực sự trở nên một “Hội Thánh nhỏ”, trong đó mầu nhiệm của Hội Thánh Đức Ki-tô được phản ảnh và sống lại ! Mẹ là Nữ Tỳ của Chúa, ước gì Mẹ là gương mẫu cho mọi gia đình biết khiêm tốn và quảng đại đón nhận ý của Thiên Chúa ! Mẹ là Người Mẹ đau khổ dưới chân thập giá, ước gì Mẹ cũng ở đó để xoa dịu những đau khổ và lau sạch nước mắt của những ai đang ưu phiền vì những khó khăn gia đình họ đang gặp phải !

Ước gì Đức Ki-tô Chúa, là Vua vũ trụ, là Vua các gia đình, Đấng đã hiện diện ở Ca-na, cũng hiện diện trong mọi tổ ấm Ki-tô hữu, để thông ban cho nó ánh sáng niềm vui, sự bình an và sức mạnh. Hôm nay là đại lễ kính Vương quyền của Ngài, tôi cầu xin Ngài cho mọi gia đình biết quảng đại đóng góp phần độc đáo của mình, để Vương quốc Ngài được hiển trị trên thế giới, “Vương quốc của sự sống và sự thật, của ơn sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hoà bình”[183], Vương quốc mà lịch sử đang lần bước tiến về.

Tôi xin ký thác mọi gia đình cho Ngài, cho Mẹ Ma-ri-a, cho thánh Giu-se. Tôi xin đặt Tông Huấn này trong tay các Ngài để thưa Anh em đáng kính và các con yêu quí, chính các Ngài sẽ trao nó lại cho Anh em và các con, để các Ngài mở rộng tấm lòng của Anh em và các ơn trong ánh sáng mà Tin Mừng đang chiếu toả trên mỗi gia đình !

Tôi hứa liên lỉ cầu nguyện cho tất cả và từng người, và với tất cả tấm lòng của tôi, tôi xin gởi đến Anh em và các con Phép lành Toà Thánh nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Ban hành tại Rô-ma, gần đền thờ thánh Phê-rô, ngày 22 tháng 11 năm 1981, lễ trọng thể kính Đức Ki-tô, Vua hoàn vũ, vào năm thứ tư tôi làm Giáo Hoàng.

GIOAN PHAOLÔ II

[1] xem Hiến chế MV 52.

[2] x. ĐGH Gioan-Phaolô II, bài giảng thánh lễ khai mạc THĐGM khóa 6, ngày 26-9-1980, số 2. AAS 72 (1980), tr. 1008.

[3] x. Kn 1-2.

[4] x. Êp 5.

[5] X. Hiến chế MV 47 ; ĐGH Gioan-Phaolô II , Tông thư Appropinquat jam ngày 15-8-1980, số 1 : AAS 72 (1980), tr. 791.

[6] x. Mt 19,4.

[7] Hiến chế MV 47.

[8] x. Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho Ủy ban Tổng Thư ký của THĐGM, ngày 23-2-1980.

[9] x. Hiến chế MV 4.

[10] X. Hiến chế TL (Tín Lý) về Giáo Hội 12.

[11] 1Ga 2,20.

[12] x. Hiến chế TL về Giáo Hội 35.

[13] X. Hiến chế TL về GH 12, Thánh bộ giáo lý đức tin : Tuyên ngôn Mysterium Ecclesiae, 2.

[14] Hiến chế TL về Giáo Hội 12 ; Hiến chế TL về MK 10.

[15] X. Gioan-Phaolô II, Bài giảng thánh lễ khai mạc THĐGM khóa 6, ngày 26-9-1980, số 2.

[16] X. Augustinô, De Civitate Dei, XIV, 28, CSEL 40, II, 56-57.

[17] Hiến chế MV 15.

[18] x. Êp 3,8 ; Hiến chế MV 44 ; Sắc lệnh Truyền giáo 15 và 22.

[19] x. Mt 19,4tt.

[20] x. Kn 1,26-27.

[21] x. 1Ga 4,8.

[22] x. Hiến chế MV 12.

[23] x. Hiến chế MV 48.

[24] X. Chẳng hạn Hs 2,21 ; Gr 3,6-13 ; Ys 54.

[25] X. Ed 16,25.

[26] x. Hs 3.

[27] X. Kn 2,24 ; Mt 19,5.

[28] X. Êp 5,32-33.

[29] x. Tertulien, Ad uxerem II, VIII, 6-7 : CCL I,393 ; SC 273, tr.49.

[30] x. Công đồng Trentô, khóa XXIV, điều 1.

[31] x. Hiến chế MV 48.

[32] Gioan-Phaolô II , Diễn văn cho các đại biểu của Trung tâm liên lạc các nhóm nghiên cứu (CLER), 3-11-1979, số 3.

[33] Nt, số 4.

[34] x. Hiến chế MV 50.

[35] x. Kn 2,24.

[36] Êp 3,15.

[37] Hiến chế MV 78.

[38] La Virginité X, 1 ; PG 48, 540, SC 125, tr.123.

[39] x. Mt 22,30.

[40] x. 1Cr 7, 32-35.

[41] Vat. II, Sắc lệnh về đời sống tu trì, 12.

[42] x. Piô XII, Thông điệp Sacra virginitas, II.

[43] x. Gioan-Phaolô II, Tông thư Novo incipiente, ngày 4-8-1979, số 9.

[44] x. Hiến chế MV 48.

[45] Số 10.

[46] Mt 19,6 ; x. Kn 2,24.

[47] x. Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các đôi bạn, Kinshasa, 3-4-1980, số 4.

[48] Hiến chế MV 49 ; x. Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các đôi bạn, số 4.

[49] Hiến chế MV 48.

[50] x. Êp 5,25.

[51] Mt 19,8.

[52] Kh 3,14.

[53] x. 2Cr 1,20.

[54] x. Ga 13,1.

[55] Mt 19,6.

[56] Rm 8,9.

[57] Tôma Aquino, Tổng luận thần học, IIa-IIae, 14,2, ad 4.

[58] Hiến chế TL về Giáo Hội 11 ; Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân 11.

[59] Hiến chế MV 52.

[60] x. Êp 6,1-4 ; Cl 3,20-21.

[61] x. Hiến chế MV 48.

[62] Ga 17,21.

[63] x. Hiến chế MV 24.

[64] Kn 1,27.

[65] Ga 3,26-28.

[66] x. Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp về Lao động, 19.

[67] Kn 2,18.

[68] Kn 2,23.

[69] Ambrôsiô, Exameron, V, 7.19 : CSEL : 32, I, 154.

[70] Phaolô VI, Thông điệp Sự sống con người, 9.

[71] x. Êp 5,25.

[72] Gioan-Phaolô II, Giảng tĩnh tâm cho tín hữu Terni, 19-3-1981, số 3-5.

[73] Êp 3,15.

[74] x. Hiến chế MV 52.

[75] Lc 18,16.

[76] Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội đồng LHQ, 2-10-1979, số 21.

[77] Lc 2,52.

[78] x. Hiến chế MV 48.

[79] Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho những người tham dự « International Forum on Active Aging », ngày 5-9-1980, số 5.

[80] Kn 1,26.

[81] Hiến chế MV 50.

[82] Nt.

[83] Đề nghị 22, kết luận của số 11 trong Thông điệp quả quyết : « Khi nhắc cho con người phải tuân giữ luật tự nhiên, vẫn được giả thích trong giáo thuyết thường xuyên của Giáo Hội, Giáo Hội dạy rằng mọi hành vi vợ chồng phải để mở ngõ cho việc truyền sinh » AAS 60 (1968), tr.488.

[84] X. 2Cr 1,19 ; Kh 3,14.

[85] X. Sứ điệp THĐGM khóa 6 các gia đình kitô hữu trong thế giới hiện nay, ngày 24-10-1980, số 5.

[86] Hiến chế MV, 51.

[87] Thông điệp Sự sống con người, 7

[88] Nt., 12.

[89] Nt., 14.

[90] Nt., 13.

[91] x. Hiến chế MV, 51.

[92] Thông điệp Sự sống con người, 29.

[93] Nt., 25.

[94] Nt., 21.

[95] Gioan-Phaolô II, Bài giảng bế mạc THĐGM khóa 6, 25-10-1980, số 8.

[96] x. Thông điệp Sự sống con người, 28.

[97] Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các đại biểu của Trung tâm liên lạc các nhóm nghiên cứu (CLER), ngày 3-11-1979, số 9 ; xem thêm Diễn văn cho những người tham dự hội nghị về gia đình Phi Châu và Âu Châu, ngày 15-1-1981 ; báo Osservatore Romano, 16-1-1981, t.1-2.

[98] Thông điệp Sự sống con người, 25.

[99] Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, 3.

[100] Hiến chế MV, 35.

[101] Tôma Aquinô, Summa contra Gentiles, IV, 58.

[102] Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, 2.

[103] Tông huấn Loan báo Tin Mừng, 71.

[104] x. Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, 3.

[105] Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, 11.

[106] Hiến chế MV, 52.

[107] x. Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, 11.

[108] Rm 12,13.

[109] Mt 10,42.

[110] x. Hiến chế MV, 30.

[111] Nt.

[112] x. Đề nghị 42.

[113] Hiến chế TL về Giáo Hội, 31.

[114] X. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 11 ; Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, 11 ; Gioan-Phaolô II, Bài giảng lễ khai mạc THĐGM khóa 6, 26-9-1980, số 3.

[115] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 11.

[116] Nt., 41.

[117] Nt., 41.

[118] x. Thông điệp Sự sống con người, 9.

[119] Hiến chế MV, 48.

[120] x. Hiến chế Tín lý về Mạc Khải, 1.

[121] x. Rm 16,26.

[122] x. Thông điệp Sự sống con người, 25.

[123] Tông huấn Loan báo Tin Mừng, 71.

[124] x. Diễn văn tại Đại hội Giám mục Nam Mỹ khóa 3, ngày 28-1-1979, IV a.

[125] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, số 35.

[126] Gioan-Phaolô II, Tông huấn Dạy giáo lý, 68.

[127] Nt., 36.

[128] 1Cr 12,4-6 ; Êp 4,12-13,4.

[129] Mc 16,15.

[130] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 11.

[131] Cv 1,8.

[132] x. 1Pr 3,12.

[133] x. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 35 ; Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, 1.

[134] x. Cv 18 ; Rm 16,3-4.

[135] x. Sắc lệnh về Truyền giáo, 39.

[136] Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, 30.

[137] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 10.

[138] Hiến chế MV, 49.

[139] Nt., 48.

[140] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 41.

[141] Hiến chế về Phụng vụ, 59.

[142] x. 1Pr 2,5 ; Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 34.

[143] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 34.

[144] Hiến chế về Phụng vụ, 76.

[145] x. Ga 19,34.

[146] Số 25.

[147] Êp 2,4.

[148] x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Thiên Chúa giàu lòng thương xót, 13.

[149] x. 1Pr 2,5.

[150] Mt 18, 19-20.

[151] Tuyên ngôn về Giáo dục Kitô giáo, 3 ; Gioan-Phaolô II, Tông huấn về Dạy giáo lý, 36.

[152] Diễn văn trong buổi triều yết chung ngày 11-8-1976.

[153] x. Hiến chế Phụng vụ, 12.

[154] x. Bản tổng quy về Các Giờ Kinh Phụng Vụ, 27.

[155] Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus, 52.54.

[156] Gioan-Phaolô II, Diễn văn tại đền Mentorenlla, 29-10-1978.

[157] x. Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, 4.

[158] X. Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các Giám mục thuộc miền mục vụ XII của Hoa Kỳ, ngày 21-2-1978.

[159] Rm 8,2.

[160] Rm 5,5.

[161] x. Mc 10,45.

[162] Hiến chế Tín lý về Giáo Hội, 36.

[163] Nt., 36.

[164] Sứ điệp của THĐGM khóa 6 gởi các gia đình kitô hữu, ngày 24-10-1980, số 12.

[165] Gioan-Phaolô II, Diễn văn tại Đại hội Giám mục Nam Mỹ, khóa 3, ngày 28-1-1979.

[166] x. Hiến chế Phụng vụ, 10.

[167] x. Nghi thứ cử hành hôn phối, 17.

[168] x. Hiến chế Phụng vụ, 59.

[169] Sắc lệnh về Đời sống tu trì, 12.

[170] Diễn văn cho Confédération des conseillers familiaux chrétiennes, ngày 29-11-1980, số 3-4.

[171] Phaolô VI, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ III, 7-4-1969.

[172] Gioan-Phaolô II, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông xã hội 1980, 1-5-1980.

[173] Gioan-Phaolô II, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông xã hội 1981, 10-5-1981, số 5.

[174] Nt.

[175] Phaolô VI, Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ III.

[176] Nt.

[177] Sứ điệp Ngày thế giới truyền thông xã hội 1980.

[178] x. Phaolô VI, Tự sắc Matrimonio mixta, 4-5 ; xem thêm Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho những người tham dự Đại hội của Văn phòng hiệp nhất kitô hữu, ngày 13-11-1981.

[179] Huấn dụ In quibus rerum circumstantilis, 15-6-1972.

[180] Gioan-Phaolô II, Bài giảng bế mạc THĐGM khóa 6, ngày 25-10-1980, số 7.

[181] x. Mt 11,26.

[182] Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư Appropinquat jam, ngày 15-8-1989, số 1.

[183] Kinh tiền tụng lễ kính trọng thể Chúa Giêsu-Kitô Vua vũ trụ.

Từ khóa » Tóm Tắt Tông Huấn Familiaris Consortio