Tổng Quan Về Bia - Nguyên Liệu - Quy Trình Công Nghệ Sản Xuất Bia

Mục lục

  • Phần 1: TỔNG QUAN VỀ BIA
    • Khái niêm
    • Lịch sử
    • Các loại bia
  • Phần 2: TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LIỆU
    • I – NƯỚC :
      • I.1 – Khái niệm và tính chất của nước.
      • I.2 – Ảnh hưởng của thành phần hóa học và các muối có trong nước đến các quy trình công nghệ
      • I.3 - Yêu cầu của nước dùng trong sản xuất bia
      • I.4 - Sử dụng nước trong công nghệ sản xuất bia
      • I.5 - Nước phi công nghệ
    • II – ĐẠI MẠCH 
      • II.1 –phân loại các giống đại mạch
      • II.2 – Cấu trúc và thành phần hóa học của đại mạch 
      • II.3 - Những yêu cầu chất lượng đối với đại mạch dùng trong sản xuất bia.
      • II.4 - Malt
    • III - HUBLON.
      • III.1 - Thành phần hóa học hoa houblon:
      • III.2 - Chế phẩm houblon 
    • IV – MEN BIA:
    • V -  CÁC CHẤT PHỤ GIA TRONG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA
      • V.1 – Nhóm phụ giai trực tiếp
      • V.2 – Nhóm phụ gia gián tiếp
    • VI – THẾ LIỆU
  • Phần 3 : QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA
    • I – SƠ ĐỒ QUY TRINH CÔNG NGHỆ
    • II – THUYẾT MINH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ
      • II.1 – phân xưởng nấu
      • II.2 -  Phân xưởng lên men
      • II.3 – PHÂN XƯỞNG CHIẾT
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ BIA
  1. Khái niêm

Bia là một loại nước uống chứa cồn được sản xuất bằng quá trình lên men của đường lơ lửng trong môi trường lỏng và nó không được chưng cất sau khi lên men. Nói một cách khác, bia là loại nước giải khát có độ cồn thấp, bọt mịn xốp và có hương vị đặc trưng của hoa houblon. Đặc biệt CO2 hòa tan trong bia có tác dụng giải nhiệt nhanh, hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa, ngoài ra trong bia còn chứa một lượng vitamin khá phong phú (chủ yếu là vitamin nhó B như vitamin B1, B2, PP. . .). Nhờ những ưu điểm này, bia được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới với sản lượng ngày càng tăng. Đối với nước ta bia đã trở thành loại đồ uống quen thuộc với sản lượng ngày càng tăng và đã trở  ngành công nghiệp mũi nhọn trong ngành công nghiệp nước ta.

Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do các thành phần sử dụng để sản xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, các đặc trưng của bia như hương vị và màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân loại khác.

  1. Lịch sử

Hình 2.1   Một vại bia lager, có màu vàng óng và bọt ở phía trên

                                                                                           

  • Bia là một trong các đồ uống lâu đời nhất mà loài người đã tạo ra, có niên đại ít nhất là từ thiên niên kỷ thứ 5 trước công nguyên và đã được ghi chép lại trong các thư tịch cổ của Ai Cập cổ đại và lưỡng hà (Mesopotamia).
  • Giống như phần lớn các chất chứa đường khác có thể bị lên men một cách tự nhiên, rất có thể là các đồ uống tương tự như bia đã được phát minh một cách độc lập giữa các nền văn minh trên toàn thế giới. Việc kiểm định hóa học các bình gốm cổ phát hiện ra rằng bia (tương tự như rượu vang) đã được sản xuất khoảng 7.000 năm trước ở khu vực ngày nay là Iran và là một trong số các công nghệ sinh học đã biết, trong đó các quy trình sinh học của sự lên men được áp dụng.
  • Tại Lưỡng Hà, chứng cứ lâu đời nhất về bia được cho là bức vẽ 6.000 năm tuổi của người Sumeria miêu tả những người đang uống một thứ đồ uống bằng các cần hút bằng sậy từ thùng công cộng. Bia cũng được đề cập tới trong thiên sử thi Gilgamesh, một bản trường ca 3.900 năm tuổi của người Sumeria để tỏ lòng tôn kính nữ thần Ninkasi, vị thần bảo trợ cho bia, nó chứa công thức làm bia cổ nhất còn sót lại và miêu tả việc sản xuất bia từ lúa mạch thông qua bánh mì. Bia đã trở thành thiết yếu đối với tất cả các nền văn minh trồng ngũ cốc ở thế giới phương Tây cổ xưa, đặc biệt là ở Ai Cập và Lưỡng Hà.
  • Người Thracia cũng được biết là đã sử dụng bia sản xuất từ lúa mạch đen, thậm chí từ thế kỉ 5 trước công nguyên, như Hellanicos đã viết trong vở các opêra. Tên gọi cho bia của họ là brutos hay brytos.
  • Sự bổ sung hoa bia vào bia để tạo vị đắng, bảo quản và hương vị cho bia là một phát kiến tương đối mới: Trong thời trung cổ nhiều hỗn hợp khác của các loại thảo mộc thông thường được cho vào bia chứ không phải hoa bia. Các hỗn hợp này thông thường được gọi là “gruit “. Hoa bia đã được trồng tại Pháp sớm nhất là vào khoảng thế kỷ 9. Văn bản cổ nhất còn sót lại có ghi chép về việc sử dụng hoa bia trong bia có niên đại vào năm 1067 bởi nữ tu viện trưởng kiêm nhà văn Hildegard: "Nếu người ta định làm bia từ yến mạch, nó được chuẩn bị cùng hoa bia."
  • Tại châu Âu, trong thời Trung cổ, bia chủ yếu được sản xuất trong gia đình. Vào thế kỷ 14 và 15, việc sản xuất bia đã dần dần chuyển từ hoạt động gia đình sang hoạt động thủ công, với các quán bia và tu viện sản xuất bia của mình hàng loạt để tiêu thụ.
  • Trong thế kỷ 15, ở Anh loại bia không có hoa bia được biết đến như là ale, còn việc sử dụng hoa bia thì đồ uống đó gọi là bia. Bia có chứa hoa bia được nhập khẩu vào Anh từ Hà Lan sớm nhất là từ năm 1400 ở Winchester, và hoa bia đã được trồng trên quốc đảo này từ năm 1428. Tính phổ biến của hoa bia ban đầu là hỗn hợp — Công ty bia rượu London đã đi xa tới mức ra thông báo "không hoa bia, không thảo mộc hoặc những gì khác tương tự được cho vào bất kỳ ale hay rượu (mùi) nào sẽ được sản xuất — mà chỉ có liquor (nước), mạch nha, và men bia". Tuy nhiên, vào thế kỷ 16, ale đã được dùng để chỉ các loại bia mạnh (nồng độ cồn cao) bất kỳ, và tất cả ale và bia đều sử dụng hoa bia.

Hình 2.2 Một số loại bia sử dụng rộng rãi ở Việt Nam

  • Năm 1516, WilliamIV ,Công tước xứ Bavaria , đã thông qua Reinheitsgebot (Luật tinh khiết), có lẽ là quy định về thực phẩm cổ nhất còn áp dụng đến nay. Gebot quy định rằng thành phần của bia chỉ được bao gồm nước, lúa mạch hoa bia, với men bia được bổ sung sau phát kiến của Louis Pasteur  vào năm 1857. Luật của người Bavaria đã được áp dụng trong cả nước Đức như là một phần của nước Đức thống nhất  năm 1871 thành đế chế Đức  dưới thời Otto von Bismarck , và kể từ đó đã được cập nhật để phản ánh xu hướng hiện đại trong sản xuất bia rượu. Cho đến nay, Gebot vẫn được coi là tiêu chuẩn của độ tinh khiết cho bia, mặc dù điều này có thể gây tranh cãi.
  • Phần lớn các loại bia cho đến thời gian gần đây thực chất là thứ mà ngày nay gọi là ale. Bia lager đã được phát hiện ra một cách tình cờ vào thê kỷ 16 sau khi bia được lưu trũ trong các hầm lạnh một thời gian dài; kể từ đó nó đã được sản xuất nhiều hơn ale.
  • Với sự phát minh ra động cơ hơi nước năm 1765, công nghiệp hóa sản xuất bia đã trở thành sự thật. Các cải tiến mới trong công nghệ sản xuất bia đã xuất hiện cùng với sự ra đời của nhiệt kế và tỷ trọng kế vào thế kỷ 19, đã cho phép các nhà sản xuất bia tăng tính hiệu quả và kiểm soát nồng độ cồn. Cho đến cuối thế kỷ 18,mạch nha chủ yếu được làm khô bằng lửa do đốt gỗ, than củi, trấu, và sau năm 1600 là từ than cốc. Nói chung, không có loại mạch nha nào trong số này được che chắn tốt khỏi khói sinh ra trong các lò sấy, và do đó các loại bia thời kỳ đó có thành phần hơi khói trong hương vị của chúng; các chứng cứ chỉ ra rằng các nhà sản xuất mạch nha và bia thường xuyên phải cố gắng giảm thiểu sự ám khói của bia thành phẩm. Sự phát minh ra lò nướng hình trống năm 1817 của Daniel Wheeler đã cho phép tạo ra mạch nha mạch nha nướng chín kỹ và tạo tiền đề cho sản xuất các loại bia đen(porter và stout). Sự phát minh ra vai trò của men bia trong quá trình lên men vào năm 1857 bởi Louis Pasteur đã giúp cho các nhà sản xuất bia phương pháp ngăn chặn vị chua của bia bởi các loại vi sinh vật không mong muốn.
  • Năm 1953, Morton W Coutts , một người New Zealand đã phát triển kỹ thuật lên men liên tục. Morton lấy bằng sáng chế công nghệ của ông và nó là một cuộc cách mạng trong công nghiệp bia do nó làm giảm thời gian ủ và sản xuất bia trước đây là 4 tháng xuống còn chưa đầy 24 giờ. Công nghệ của ông vẫn được sử dụng bởi nhiều nhà sản xuất bia lớn nhất thế giới ngày nay, bao gồm cả Guinness .
  • Ngày nay, công nghiệp bia là công việc kinh doanh khổng lồ toàn cầu, bao gồm chủ yếu là các tổ hợp được ra đời từ các nhà sản xuất nhỏ hơn. Trong khi bia chủ yếu là đồ uống chứa cồn thì một số biến thái của nó cũng tồn tại, xuất phát từ thế giới phương Tây, là các loại bia đi qua công đoạn xử lý để loại bỏ bớt cồn, sản xuất ra cái gọi là bia không cồn.
  1. Các loại bia

Có nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại bia được coi là thuộc về một kiểu bia cụ thể nào đó. Kiểu bia là mác dán miêu tả hương vị tổng thể và thông thường là nguồn gốc của bia, phù hợp với hệ thống đã tiến hóa qua các lần thử và các sai số qua nhiều thế kỷ.

Yếu tố chính để xác định loại bia là men bia sử dụng trong quá trình lên men. Phần lớn kiểu bia thuộc về một trong hai họ lớn: ale- sử dụng lên mem nổi hoặc lager- sử dụng lên men chìm. Bia có đặc trưng pha trộn của cả ale và lager được gọi là bia lai. Đồ uống chứa cồn sản xuất từ việc lên men đường thu được từ các nguồn không phải là ngũ cốc nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng cũng được sản xuất bằng cùng một phản ứng sinh học gốc men bia. Mật ong lên men được gọi là rượu mạt ong, nước táo lên men được gọi là rượu táo, nước lê lên men được gọi rượu lê, còn nước nho lên men được gọi là rượu vang

Ale: Ale là bất kỳ loại bia nào được sản xuất bằng lên men nổi, và nó thông thường được lên men ở nhiệt độ cao hơn so với bia lager (15-23oc). Các men bia ale ở các nhiệt độ này tạo ra một lượng đáng kể các ester , các hương liệu thứ cấp và các sản phẩm tạo mùi khác, và kết quả là bia tạo ra có mùi vị của hoa hay quả tương tự (nhưng không chỉ có thế) như táo, lê, dứa, cỏ, cỏ khơ, chuối mận hay mận khô. Các khác biệt về kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và nhiều loại bia ale rất khó để phân loại chúng.

Lager: Lager là loại bia được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Chúng có nguồn gốc từ vùng Trung Âu, có tên gọi này là từ lagern ("lưu trữ") trong tiếng Đức. Men bia lager là loại lên men chìm, thông thường được lên men ở nhiệt độ 7-12°C (45-55°F) ("pha lên men"), và sau đó được lên men thứ cấp lâu ở 0-4°C (30-40°F) ("pha lager hóa"). Trong giai đoạn lên men thứ cấp, lager được làm trong và chín. Các điều kiện lạnh cũng kiềm chế việc sản xuất tự nhiên các ester và các phụ phẩm khác, tạo ra hương vị "khô và lạnh hơn" của bia.

Hình 2.3  Loại bia Lager

Các phương pháp hiện đại để sản xuất bia lager đã đượcGabriel Sedlmayr  và Anton Dreher khai phá. Gabriel Sedlmayr trẻ là người đã hoàn thiện bia lager màu nâu sẫm ở nhà máy bia Spaten  tại Bavaria  còn Anton Dreher là người bắt đầu sản xuất bia lager, có lẽ là màu đỏ hổ phách tại Wien  khoảng những năm 1840-1841. Với việc kiểm soát quá trình lên men đã được hoàn thiện hơn, phần lớn các nhà sản xuất bia lager chỉ sử dụng thời gian lưu trữ lạnh ngắn, thông thường từ 1 đến 3 tuần.

Phần lớn bia lager ngày nay dựa trên kiểu Pilsener , được sản xuất lần đầu tiên năm 1842 tại thành phố Plzen, ở Cộng hòa Séc. Các loại bia lager Pilsener ngày nay có màu sáng và được cacbonat hóa nồng độ cao, với hương vị mạnh của hoa bia và nồng độ cồn 3-6% theo thề tích. Các thương hiệu bia Pilsner Urquell  hay Heineken  là các ví dụ điển hình về bia pilsener.

Loại bia hỗn hợp: Kiểu bia lai hay bia hỗn hợp sử dụng các nguyên liệu và công nghệ hiện đại thay vì (hoặc bổ sung cho) các khía cạnh truyền thống của sản xuất bia. Mặc dù có một số biến thái giữa các nguồn khác nhau, nhưng nói chung bia hỗn hợp có thể là.

  • Bia rau quả và bia rau cỏ là hỗn hợp với một số loại phụ gia từ hoa quả hay rau củ có thể lên men trong quá trình lên men, tạo ra chất lượng hài hòa một cách rõ nét.
  • Bia thảo mộc và bia gia vị bổ sung các chất chiết ra từ rễ, hạt, lá, hoa hay quả thảo mộc hoặc các loại cây gia vị thay vì (hoặc bổ sung cho) hoa bia.
  • Các loại bia tồn trữ trong các thùng gỗ là các loại bia truyền thống hay thực nghiệm được lưu trữ trong các thùng gỗ hoặc được tiếp xúc với gỗ (trong dạng các mảnh nhỏ, mẩu hay hạt) trong một khoảng thời gian (gỗ sồi là phổ biến nhất). Thông thường, thùng gỗ hay các miếng gỗ đầu tiên được xử lý bằng một số loại rượu mạnh hay các đồ uống chứa cồn khác--việc sử dụng rượu bourbon, scotch và shrry là phổ biến nhất. 
  • Bia hun khói là bất kỳ loại bia nào mà mạch nha của nó đã được hun khói. Thông thường các loại bia này có mùi và hương vị của khói. Các ví dụ điển hình của kiểu bia truyền thống này là bia Rauchbiers ở Bamberg, Đức. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất bia ngoài nước Đức, chủ yếu là các nhà sản xuất bia thủ công ở Mỹ cũng bổ sung mạch nha bia hun khói vào bia đen, ale Scotland và một loạt các kiểu bia khác.  Bia đặc biệt là cách gọi chung để chỉ các loại bia được sản xuất mà sử dụng các nguồn đường, hạt ngũ cốc và tinh bột có thể lên men không thông dụng. 

 

Phần 2: TỔNG QUAN VỀ NGUYÊN LIỆU

I – NƯỚC :

I.1 – Khái niệm và tính chất của nước.

- Nước rất cần thiết cho sự sông, là dung môi phân cực mạnh, có khả năng hòa tan nhiều chất. Trong điều kiện bình thường: nước là chất lỏng không màu, không mùi, không vị. Khi hóa rắn nó có thể tồn tại ở 5 dạng tinh thể khác nhau. Nước là hợp chất chiếm phần lớn trên trái đất (3/4 diện tích trên trái đất là nước)

- Tính chất vật lí:

Khối lượng phân tử: 18 dvc

Khối lượng riêng: 1 g/ml ( ở 0oC, 1atm)

Nhiệt độ nóng chảy: C

Nhiệt độ sôi: C

I.2 – Ảnh hưởng của thành phần hóa học và các muối có trong nước đến các quy trình công nghệ

-  Sự tồn tại của muối chứa Ca và Mg sẽ quyết định độ cứng của nước.

+ Ca: thường tồn tại dưới dạng muối Ca(HCO3)2 và ảnh hưởng đến quá trình nấu bia do làm giảm độ acid của hồ malt và dịch đường hóa.

+ Mg: hàm lượng trong nước tuy ít hơn Ca, nhưng tác dụng xấu hơn Ca vì MgCO3 hòa tan được, MgSO4 có vị đắng chát. Cả hai đều làm ảnh hưởng đến chất lượng bia.

+ Na: tồn tại dưới dạng NaHCO3 , Na2CO3, Na2SO4 hay NaCl. Na2CO3 , NaHCO3 làm giảm độ acid của hồ malt NaSO4 với hàm lượng cao sẽ tạo cho bia có vị đắng. NaCl nếu dưới 200mg/l sẽ ảnh hưởng tốt đến mùi, vị bia.

+ Fe: thường tồn tại dưới dạng Fe(HCO3)2 hàm lượng cao sẽ gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng bia. Vì vậy chỉ cho phép từ 0,2 ÷ 0,5 mg/l .

+ Ngoài ra trong nước còn chứa các hợp chất hữu cơ ở dạng keo vô cơ hoặc hữu cơ (như  SiO2) hoặc các chất khí (O2, N2, CO2 . . .)

I.3 - Yêu cầu của nước dùng trong sản xuất bia

- Hàm lượng muối cacbonat không quá 50mg/l.

- Hàm lượng muối Mg không quá 100mg/l.

- Hàm lượng muối Clorua 75÷150 mg/l.

- Hàm lượng muối CaSO4 130÷200mg/l .

- Hàm lượng Fe2+ không quá 0,3mg/l.

- Khí NH3 và các muối NO3 -, NO2-: không có.

- Vi sinh vật không quá 100 tế bào /ml.

- E.coli, coliform: không có.

- Độ cứng: 4÷12 0Đ. - PH: 6.5÷ 7

I.4 - Sử dụng nước trong công nghệ sản xuất bia

Nước tham gia trực tiếp vào quy trình công nghệ ( như gâm đại mạch, nấu malt, lọc dịch nha, lên men, trong công đoạn hiết rót…), tạo nên sản phẩm cuối cùng. Có thể nói nước là nguyên liệu chính để sản xuất bia do trong bia hàm lượng nước chiếm đến 90÷92% trọng lượng bia. 

Thành phần và hàm lượng của chúng ảnh hưởng rất lớn đến quy trình công nghệ và chất lượng bia thành phẩm. Nước công nghệ được sử dụng trong quy trình nấu malt, nấu gạo, rửa bã, gâm đại mạch.

-  Nước dùng ngâm đại mạch để sản xuất malt: yêu cầu quan trọng nhất là nước không được chứa nhiều tạp chất và vi sinh vật.

- Nước dùng để nấu bia:

+  Các muối cacbonat và bicacbonat sẽ hòa tan chất đắng, chất chát trong vỏ malt (nhất là Na2CO3) gây cho bia có vị đắng khó chịu.

+  Những cacbonat và bicacbonat trong nước sẽ làm hạ độ acid của hồ malt làm cản trở hoạt động của hệ enzim trong malt 2KH2PO4 + Ca(HCO3)2 = CaHPO4 + K2HPO4 + 2H2O + 2CO2 Malt nước từ phản ứng trên ta nhận thấy rằng hai phân tử có tính acid sẽ thu được một phân tử kết tủa và một phân tử có tính kiềm.

+  Na2CO3 là muối làm giảm độ acid mạnh nhất vì: 2KH2PO4 + Na2CO3 = K2HP04 + Na2HPO4 + 2H2O + 2CO2 nhận thấy rằng từ hai phân tử có tính acid KH2PO4 sẽ thu được 2 phân tử có tính kiềm K2HPO4 , Na2HPO4

- Nước dùng để rửa nấm men và thiết bị:

+ Nước dùng để rửa nấm men cần phải sạch, không chứa nhiều hợp chất hữu cơ, và đặc biệt không chứa vi sinh vật.

+ Nước rửa thiết bị nên có độ cứng thấp đến trung bình, đặc biệt không chứa các muối NH3 và các muối nitrit.

I.5 - Nước phi công nghệ

Không trực tiếp có mặt trong thành phần của sản phẩm nhưng rất cần thiết trong quy trình sản xuất và cũng ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm cuối cùng. Nước này sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như: nước nồi hơi, nước vệ sinh thiết bị, nước vệ sinh nhà xưởng, nước thanh trùng. Mỗi mục đích đòi hỏi chất lượng riêng, nước được sử lý theo yêu cầu sử dụng.

II – ĐẠI MẠCH 

Là nguyên liệu có tính chất truyền thống để sản xuất bia (có thể thay thế một phần nguyên liệu khác nhưng nguyên liệu chủ yếu vẫn chính là đại mạch nảy mầm ). Đại mạch cũng giống như những ngũ cốc khác bao gồm hai thành phần chính là glucid và protein nhưng đại mạch có hàm lượng cao hơn so với các loại ngũ cốc khác và quan trọng nhất là tỷ lệ glucid/protein cân đối thích hợp cho việc sản xuất bia .

II.1 –phân loại các giống đại mạch

Đại mạch được xếp vào họ hordeum gồm có: Hordeum. Sativum; Hordeum.Murinum; Hordeum.Jubatum. theo mục đích sử dụng, đại mạch được chia làm 2 nhóm chính

+ Đại mạch dùng trong công nghiệp: dùng để chế biến bia hoặc các ngành thực phẩm dùng malt đại mạch. Thường dùng giống đại mạch hai hàng ( gọi là H.Distichum)

Hình 3.1  Đại mạch 2 hàng

 

+ Trong nông nghiệp dùng để chế biến cho các loại thức ăn cho gia súc, gia cầm . . . Thường dùng giống đại mạch nhiều hàng ( gọi là H.Polystychum )

 

Hình 3.2. Đại mạch nhiều hàng

II.2 – Cấu trúc và thành phần hóa học của đại mạch 

2.1 – Cấu trúc hạt đại mạch:

Hình 3.3. Hạt đại mạch hai hàng

 

Gồm 3 bộ phận chính: vỏ hạt, phôi và nội nhũ

- Vỏ hạt: từ ngoài vào trong được chia làm 3 lớp: vỏ trấu, vỏ lụa và vỏ alơron. Phần này thường chiếm 8÷15% trọng lượng hạt.

- Phôi: là cơ quan sống hô hấp của hạt. Phôi có từ 37÷50% chất khô là thành phần nitơ, khoảng 7% chất béo, 5÷6% saccharose, 7÷7,5% pentozan, 6÷6,5% chất tro và một ít thành phần khác. Riêng tinh bột hầu như rất ít. Phôi thường chiếm 2,5÷5% trọng lượng hạt .

- Nội nhũ: chiếm 45÷68% trọng lượng hạt, phần này của hạt đại mạch giữ vai trò quyết định chất lượng của đại mạch trong sản xuất bia .

+ Thành phần chính trong nội nhũ là những hạt tinh bột hình tròn, có kích thước rất lớn (20÷30µ hoặc rất bé 2÷10µ) rất ít những hạt có kích thước trung bình. Nếu hàm lượng protein trong đại mạch càng cao thì càng nhiều hạt tinh bột có kích thước nhỏ.

+ Trọng lượng riêng của hạt tinh bột khá cao (1,5÷1,6) vì vậy trong nước chùng lắng xuống rất nhanh, tinh bột không hòa tan được trong nước, kể cả những dung môi hữu cơ trung tính .

+ Tinh bột đại mạch có nhiệt độ hồ hóa  75÷80oC (của gạo 75oC, khoai tây 65oC) tính chất này cần phải lưu ý khi nấu bia. Tinh bột đã qua hồ hóa thì khi đường hóa sẽ nhanh và thuận lợi hơn .

+ Cấu tạo hạt tinh bột gồm hai dạng polysaccharide là amylose và amylopectin. Amlose chiếm 17÷24% trọng lượng hạt tinh bột , amylopectin chiếm 76÷83% .

+ Tinh bột sẽ chịu tác dụng xúc tác của hệ enzim amylaza (gồm α – amylaza và   β -amylaza) hiệu quả xúc tác sẽ phụ thuộc vào nhiệt độ và PH . Điều này quyết định kết quả quá trình nấu bia.

2.2 – Thành phần hóa học của đại mạch.

Bảng 2.1: tính theo phần trăm trọng lượng chất khô

Thành phần

Đại mạch (%)

Malt (%)

Tinh bột

63÷35

58÷60

Đường saccharose

1÷2

3÷5

Đường khử

0.1÷0.2

3÷4

Những đường khác

1

2

Chất dạng gom

1÷1.5

2÷4

Hemicellulose

8÷10

6÷8

Cellulose

4÷5

5

Lipide

2÷3

2÷3

Protein thô (N*6,25)

8÷11

8÷11

Dạng hòa tan tinh thể muối albumin, globulin

0.5

2

Hordein – protein (prolamin)

3

-

Glutelin - protein

3÷4

2

Acid amin & pectin

3÷4

3÷4

Acid lucleic

0.5

1÷2

Tro

0.2÷0.3

0.2÷0.3

Những chất còn lại

2

2,2

5÷6

6÷7

 

Trong nhóm glucide của hạt đại mạch, ngoài tinh bột được tập trung ở nội nhủ còn có các thành phần                  + Cellulose: chủ yếu nằm ở trong vỏ trấu của hạt đại mạch, chiếm khoảng 20% chất khô của vỏ. Cellulose có ý nghĩa lớn trong quá trình lọc dịch đường hóa.                 

+ Hemicellulose: chiếm phần lớn chất khô của vỏ trấu, gồm những hỗn hợp polysaccharide khác nhau. Sự phân giải hemicellulose dưới tác dụng của enzyme Sitoase có ý nghĩa lớn trong quá trình nảy mầm, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các enzyme khác vào bên trong nội nhũ của hạt.                 

+ Pentozan: có trong thành phần của hemicellulose, đặc biệt có nhiều trong vỏ trấu (2%), không tan trong nước. Nếu bị thủy phân cho ra đường arabilnose và kcilose.                  

+ Các glucide cao phân tử: trong dại mạch còn chứa các chất ở dạng gom, những chất này tan trong nước sẽ tạo nên những dung dịch nhớt. Khi  chuẩn bị thủy phân sẽ cho galactose và kcilose, hoặc như pectin. Những hợp chất này khi đi vào dịch đường hoặc bia sẽ gây trở ngại cho quá trình lọc, song chúng cũng có khả năng tạo bọt cho bia và có mùi vị được cải thiện hơn.                

+ Các chất đường trong hạt đại mạch có chứa một lượng nhỏ mono-, di-, tri-saccharide, trong đó nhiều nhất là đường saccharose, chiếm khoảng 1,8% chất khô của hạt. Các chất này có ý nghĩa lớn trong quá trình sản xuất malt, đặc biệt là trong giai đoạn đầu.               

+ Chất đắng và chất chát: có chứa nhiều trong vỏ trấu của hạt đại mạch, nó đóng một vai trò lớn trong quá trình ngâm đại mạch, một phần chất chát sẽ liên kết với protid, tạo thành acid textinoic có vị đắng và mùi khó chịu chúng không hòa tan trong nước lã nhưng hòa tan tốt trong dung dịch kiềm loãng (0,2÷0,4%). Qua đó ta thấy các chất chát, đắng, màu có tác dụng xấu đến thành phần của bia. Vì vậy các biện pháp công nghệ nhằm loại bỏ chúng là rất cần thiết.

2.3 - Các hợp chất chứa nitơ trong hạt đại mạch. 

  • Protid: khối lượng và chất lượng protid trong đại mạch có ý nghĩa quan trọng trong công nghệ sản xuất bia. Trước hết, người ta cho rằng hàm lượng các hợp chất có chứa nitơ trong đại mạch so với hàm lượng tinh bột trong đại mạch có tỷ lệ cân đối nhất (hay tỷ lệ N: C) là tối ưu cho công nghệ sản xuất bia (so với các loại ngũ cốc khác). Mặt dù trong thành phần những chất hòa tan của dịch đường hóa, protid chiếm một tỷ lệ khá nhỏ (4 ÷5%), song chúng lại tham gia rất tích cực trong quy trình công nghệ và góp phần quyết định chất lượng sản phẩm
  • Quá trình phân giải protid dưới tác dụng của enzyme là một trong những quá trình quan trọng nhất trong sản xuất malt và bia, những sản phẩm của sự phân giải protid thường có phân tử lượng thấp hơn, chúng sẽ tham gia vào sự tác dụng tương hổ với những thành phần khác dẫn đến chổ thay đổi thành phần và tính chất của nguyên liệu ban đầu cũng như sản phẩm về sau. Đặc biệt đáng quan tâm hơn trong trường hợp này là sự tạo thành melanoic, chất này gây cho bia có mùi thơm, vị ngọt và khả năng tạo bọt của bia về sau. Nhưng đặc tính này của bia trước hết phụ thuộc vào sự phân giải protid có tối ưu không.
  • Sự oxi hóa protid gây nên những biến đổi xấu về chất lượng sản phẩm. Hiện tượng này là một trong những nguyên nhân chính làm giảm tính ổn định của bia. Thường những kim loại nặng (đặc biệt là Fe và Cu) là những chất súc tác cho quá trình oxi hóa protid, vì vậy sẽ dẫn tới chỗ bia bị đục nhanh hơn.
  • Trong đại mạch có đủ protid đơn giản (protein) và protid phức tạp (proteit)
  • Edectin thuộc phân nhóm globulin không hòa tan trong nước lã, bắt đầu kết tủa ở nhiệt độ lớn hơn 90oC, khó tách hơn ra khỏi thành phần của dịch đường vì vậy đây là một trong những yếu tố gây đục bia.
  • Hordein thuộc phân nhóm prolamin, không tan trong nước nhưng tan trong dung dịch acid hoặc kiềm. Hàm lượng hordein trong hạt đại mạch từ 3,5÷3,7% trọng ;ượng chất khô.
  • Glutelin chiếm khoảng 3% chất khô trông đại mạch, thuòng bị thải cùng bã malt sau khi nấu.

2.4 - Các chất chứa Nitơ phi protid

Tập hợp những sản phẩn phân giải protid với mức độ phân giải khác nhau cho ra những sản phẩn khác nhau:

Albumoza và pepton có cấu tạo gần giống protein song có số gốc acid amin ít hơn có khả năng tan trong nước lã, không bị kết tủa trong quá trình chế biến sẽ đi vào thành phần nước đường hóa làm tốt khả năng tạo bọt và giữ bọt của bia.

Peptid có số gốc acid amin ít hơn pepton, gồm có di-tri và polypeptit , hòa tan dễ dàng trong nước và đi vào thành phần của bia.

Acid amin chiếm khoảng 0,1% chất khô trong hạt đại mạnh kín. Do tác động của enzym trong thời gian sản xuất malt hàm lượng acid amin tăng lên trong dịch đường và bia. Đặc biệt chúng có vai trò quan trọng trong việc hình thành menadione ở thời kỳ sấy malt.

2.5- Các nhóm enzyme trong đại mạch

Bản chất của enzym là protein. Chúng tham gia xúc tác những phản ứng hóa-sinh trong hạt đại mạch. Từ đó biến dần những hạt đại mạch thành hạt malt. Trong quy trình công nghệ enzym chịu tác dụng của nhiều yếu tố khách quan, song thực tế cho thấy ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt tính của enzym là nhiệt độ, pH, nồng độ của dung dịch. 

Trong hạt đại mạnh luôn có hai nhóm enzym chính.

Nhóm enzyme xúc tác cho quá trình oxi hóa khử. Hạt đại mạch hoạt tính giảm thiểu, ở giai đoạn đầu của việc tạo malt chúng tăng cường hoạt động nhanh, trong quá trình sấy malt chúng hầu như bị phá hủy. Nhóm enzyme thủy phân: tùy thuộc vào nguồn cơ chất enzym xúc tác cho quá trình thuỷ phân ta có thể tách thành hai nhóm nhỏ.

+ Nhóm enzyme thủy phân các hợp chất glucide. Diastase (Amylase) thủy phân các glucide có mạch polyme tương đối đơn giản (như tinh bột) Sitaza thủy phân các glucide có mạch polyme tương đối phức tạp hơn (như hemicellulose). Tác dụng của enzyme này là phá vỡ màng ngăn giữa hạt gạo và vỏ trấu khi hạt bắt đầu nảy mầm, nhờ vậy các enzyme khác mới dễ dàng xâm nhập vào bên trong nội nhũ của hạt, làm biến đổi dần những thành phần hóa học của nội nhũ. Đây chính là quá trình chuyển hóa từ hạt đại mạch thành hạt malt.

Nhóm enzym thủy phân protit: trong nhóm này tiêu biểu có.

+ Proteinase xúc tác để chuyển hóa protid thành albumoza và pepton rồi chuyển thành Polypeptit và peptit (t=50oC, pH=5)

+ Peptitdase chuyển polypeptit và peptit thành axit amin gồm polypeptitdase và dipeptitdase) ( to< 50oC; pH=7,5)

+ Amydase tác dụng deamin hóa các acid amin, tạo thành các axid hữu cơ và nitơ. Đồng thời chúng còn phá vỡ các mối liên kết amid (- CO – NH) của các muối amid.        

-Nhóm enzyme esteraza tham gia làm vỡ các mối liên kết este giữa các hợp chất hữu cơ với nhau hoặc giữa các hợp chất hữu cơ và vô cơ .

+ Lipase thủy phân este của glycerin và một số loại rượu với các acid béo bật cao.

+ Phosphatase: tách acid phosphoric ra khỏi những hợp chất hữu cơ có chứa phospho, tiêu biểu là amylophosphatase và bytase.

II.3 - Những yêu cầu chất lượng đối với đại mạch dùng trong sản xuất bia.

3.1 Yêu cầu về cảm quan. 

- Tất cả các hạt thóc phải thuộc một loại đại mạch, đông nhất về kích cỡ, không lẫn cát đá, rơm rác và những hạt thuộc loại thóc khác. 

- Hạt thóc phải có vỏ mỏng, màu vàng nhạt óng ánh, không có vết trên vỏ. 

- Đại mạch tốt phải có mùi thơm của rạ rơm, khi cắn hạt thóc thấy có mùi tinh bột và hơi ngọt.

3.2 - Sinh lý  

- Lực nảy mầm phải đạt 80÷85% 

- Trọng lượng tuyệt đối thường 35 ÷ 45 g/1000 hạt 

- Khả năng nảy mầm 90÷95 %

3.3 - Yêu cầu về thành phần hóa học: 

-Vỏ: không vượt quá 7÷9% trọng lượng hạt  

- Hàm lượng ẩm: w = 10÷15% 

- Hàm lượng protid  8÷14% chất khô của hạt 

- Hàm lượng glucid chiếm 55÷62 % trọng lượng hạt (hoặc 63 ÷ 66 % trọng lượng chất khô).

II.4 - Malt

Malt là tên gọi của ngũ cốc nảy mầm (đại mạch, tiểu mạch, hạt gạo, thóc gạo, thóc mếm). Tuy nhiên ở Việt Nam chưa trồng được đại mạch, do đó phải nhập malt từ nước ngoài nên chi phí sản xuất tăng lên. Do vậy giá thành của từng loại bia tương ứng với hàm lượng malt nguyên chất, từ đó cũng một phần quyết định xem bia có ngon hay không. 

Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất malt

4.1 - Ngâm đại mạch

Hàm lượng ẩm có sẵn trong hạt khi bảo quản là tối thiểu, chỉ đủ để duy trì sự sống “tĩnh” của phôi mầm, chứ không đủ dể phôi mầm phát triển, vì vậy muốn cho phôi mầm phát triển, hạt nẩy mầm tốt, hạt cần hút thêm một lượng nước tự do từ môi trường. Sự chuyển biến từ hạt đại mạch thành malt là kết quả của những quá trình sinh hóa và các quá trình khác xảy ra trong hạt. Do vậy, ngâm đại mạch là quá trình đầu tiên và rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian ươm mầm, hao phí chất khô trong quá trình sản xuất malt, do đó ảnh hưởng đến chất lượng thành phẩm của malt.

- Mục đích của quá trình ngâm Hàm lượng ẩm có sãn trong hạt khi bảo quản là tối thiểu, chỉ đủ để duy trì sự sống “tĩnh” của phôi mầm, chứ không đủ cho phôi mầm phát triển. Vì vậy ngâm hạt đại mạch nhằm cung cấp thêm 1 lượng nước tự do từ môi trường ngoài, tạo điều kiện cho phôi mầm phát triển ở điều kiện nhiệt độ, độ ẩm thuận lợi, các hệ enzime có sẵn trong hạt từ trạng thái “tĩnh” sẽ chuyển dần về trạng thái “động” và bắt đầu tham gia vào quá trình phá vỡ các hợp chất hữu cơ ở dạng đại phân tử (polyme) như tinh bột, pentozan, protein, . . . tạo ra những chất dinh dưỡng hòa tan để nuôi mầm phát triển.

- Các biến dổi trong quá trình ngâm.  

Lượng nước tự do thẩm tích vào bên trong hạt làm thể tích, khối lượng hạt tăng lên và hạt mềm hơn và dễ thủy phân hơn. Những chất trong hạt sẽ dễ dàng hòa tan để được vận chuyển đến cung cấp cho cơ quan phôi mầm, từ đó phôi mầm sẽ từ từ phát triển. Đồng thời, ở điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, pH thuận lợi, các hệ enzim có trong hạt từ trạng thái “tĩnh” sẽ chuyển dần sang trạng thái “động”, và bắt đầu tham gia vào các quá trình phá vỡ các hợp chất hữu cơ. Trừ ở dạng đại phân tử (polyme) như tinh bột, protein, pentozan,… tạo ra những chất hòa tan, để nuôi mầm phát triển.

  • Các yếu tố ảnh hưởng

+ Ảnh  hưởng nhiệt của nước ngâm: trong một giới hạn nhất định, nếu nhiệt độ nước ngâm càng tăng thì tốc độ hút nước của hạt càng nhanh và ngược lại. Nhiệt độ tối ưu của nước ngâm dại mạch là 10÷12oC, nếu nhiệt độ thấp hơn 10oC thì mầm sẽ phát triển rất yếu, còn nếu nhiệt độ lớn hơn 15oC thì lại làm cho các vi sinh vật gây thối (chủ yếu) phát triển mạnh, đồng thời sự hô hấp của hạt cùng các quá trình sinh-hóa trong hạt tăng nhanh thất thường, do đó làm giảm khả năng nảy mầm của hạt.

+ Ảnh hưởng của oxi trong nướcngâm: tùy thuộc vào kích thước hạt và điều kiện thông thoáng nhân tạo đối với nước ngâm mà có ảnh hưởng khác nhau tới thời gian ngâm. Ở giai đoạn đầu của quá trình ngâm trong nước, thì oxy là yếu tố quyết định đến cường độ hô hấp, giúp giải phóng ra năng lượng cần thiết cho sự phát triển của mầm. Do đó việc cung cấp oxy cho nước ngâm càng đầy đủ và đều đặn thì sự hút nước của hạt càng thuận lợi, đồng thời sự phát triển của mầm cũng điều hòa hơn.

+ Ảnh hưởng bởi thành phần hóa học và cấu trúc các thành phần đó có trong hạt: bản thân thành phần hóa học của nước ngâm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vận tốc hút nước của hạt. thực tế cho thấy, sự thay đổi thành phần hóa học cảu hạt đại mạch trong khi ngâm là không đáng kể, một phần nhờ glucid bị tổn thất cho quá trình hô hấp của hạt , một lượng nhỏ khác của của chất bị khuyếch tán vào nước ngâm như đường, chất khoáng, pentozan, . . .. tổng tổn thất này khoảng 1% trọng lượng chất khô. Thông thường nước ngâm có pH nghiêng về acid thì dễ hòa tan các thành phần tanin hoặc chất đắng trong vỏ malt, gây ảnh hưởng xấu đến mùi vị, màu sắc của bi sau này. Để hạn chế điều này đôii khi người ta dùng nước ngâm hơi kiềm. trong hạt đại mạch cũng chứa những chất kìm hãm hệ enzime hô hấp, tức sẽ giảm khả năng hô hấp của hạt và làm yếu quá trình nảy mầm, đó là sắc ttó vàng thuộc nhóm acid-flavonic. Do đó muốn tách chúng ra khỏ hạt thường phải thay nước ngâm 5÷6 lần. tùy theo từng loại malt mà có mức dộ ngâm khác nhau: đối với malt vàng thường có Wcb=42÷44%. Đối với malt đen phải đạt Wcb=45÷47%

- phương pháp ngâm:

Phương pháp ngâm tưới phun: đây là phương pháp ngâm tiên tiến nhất hiện nay. Bằng phương pháp này ta có thể cung cấp liên tục, đầu đủ và đều lượng oxy cần thiết cho hạt. thực chất của phương páhp này là: hạt trước khi ngâm được rửa sơ bộ ở những thùng riêng, sau đó được đỏ xuống màng lưới chuyển động thành từng lớp dày, màng lưới này liên tục đi qua những vòi phun nước kiểu hoa sen, hạt được tưới liên tục bởi những luồng nước rất mịn và bão hòa oxy giống như sương, cứ như vậy liên tục cho đến khi đạt độ ẩm cần thiết. Bằng phương pháp này, nếu ngâm ở 10÷12oC thì chỉ mất 48h, đồng thời mầm phát triển nhanh và mạnh, sau khi ngâm khoảng 70% hạt đã nứt mầm, malt thu được có chứa nhiều chất có N hòa tan, đồng thời độ hoạt động của amylase và protease rất mạnh.

4.2 - Ươm mầm  

Khi hạt đại mạch qua quá trình ngâm đã đạt đến độ ẩm cân bằng cần thiết cho sự lên mầm sẽ có những chuyển biến lý-hóa, sinh-hóa. Khi đó nếu các điều kiện về độ ẩm, nhiệt độ, oxy đầy đủ và thích hợp thì phôi mầm sẽ phát triển nhanh. Có thể nói giai đoạn ươm mầm là quá trình quan trọng nhất để biến đổi hạt đại mạch thành malt.

- Ươm mầm đại mạch trong công nghệ sản xuất bia nhằm mục đích:

+ Tạo và duy trì điều kiện thuận lợi để hệ enzyme thủy phân tăng trưởng về khối lượng và cường lực xúc tác. Giải phóng chúng khỏi trạng thái liên kết tạo điều kiện để chúng phân cắt một lượng đáng kể các chất cao phân tử thành các sản phẩm phân tử thấp. Đồng thời phá vỡ thành tế bào làm cho hạt “mềm” ra, tạo nên nhiều sự biến đổi cơ lý, hòa lý, hóa học trong thành phần hạt đại mạch.

- Trong thời gian ươm mầm, hạt đại mạch sẽ trải qua những biến đổi sau:

+ Biến đổi sinh lý: sự phát triển của phôi mầm liên quan đến sự hô hấp và quá trình tổng hợp nên những chất mới.

+ Biến đổi sinh hóa: những phản ứng thủy phân các chất dự trữ trong nội nhũ liên quan đến các enzym.

+ Biến đổi hóa học: là tác dụng tương hổ giữa những sản phẩm sau thủy phân chất dự trữ cùng những hợp chất hòa tan của hạt, từ đó hình thành nên hương vị của hạt malt.

+ Biến đổi vật lý:  là sự vận chuyển qua lại của các chất hòa tan (dinh dưỡng) giữa nội nhũ và phôi mầm.

- Những yếu tố ảnh hưởng tới quá trình ươm mầm

+ Trong thời gian ươm mầm cần có sự kiểm soát chặt chẽ các yếu tố kỹ thuật của môi trường, đặc biệt là oxy, nhiệt độ, độ ẩm nhằm khống chế được sự phát triển tối thiểu của mầm rễ và mầm lá, đồng thời lại phải hoạt hóa tối đa các hệ enzyme và tổng hợp các enzyme mới. Chúng tác động mạnh đến các biến đổi sinh hóa trong nội nhũ, như vậy sẽ thu được malt có độ phân giải cao, rất có lợi cho các công nghệ tiếp theo.

+ Nhiệt độ và thời gian ươm mầm: nhiệt độ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến những biến động enzyme trong quá trình ươm mầm trong thời gian hạt nảy mầm, nhiệt độ trong khối có xu hướng tăng dần do sự thải nhiệt trong quá trình hô hấp. Trong một giới hạn nhất định sự gia tăng nhiệt độ sẽ thúc đẩy hô hấp, cường độ hoạt động của các hệ thống enzyme. Từ đó tạo điều kiện cho phôi mầm phát triển mạnh, đồng thời giảm nhanh hàm lượng chất khô trong hạt. Trong trường hợp nhiệt độ tăng quá giới hạn cần thiết sẽ ảnh hưởng xấu đến hiệu suất chất hòa tan và chất lượng malt. Nhiệt độ cực đại đối với sản xuất malt vàng là 18÷20oC, với malt đen là 22÷25oC.

Thời gian ươm mầm phụ thuộc vào nhiệt độ ươm mầm. Đồng thời phụ thuộc vào những đặc trưng kỷ thuật của giống đại mạch. Bình thường chu kỳ ươm mầm của malt vàng 6÷8 ngày, của malt đen là 7÷9 ngày. Sau khi ươm mầm xong phải đạt được 75% số lượng  hạt

  • Malt vàng có chiều dài rễ <1,5 chiều dài hạt, chiều dài mầm lá < ¾ chiều dài hạt.
  • Malt đen thì chiều dài rễ <2 lần chiều dài hạt và chiều dài mầm lá ≤1 lần chiều dài hạt.

Trong quá trình ươm mầm chất khô của hạt bị tiêu hao khoảng 10÷20%, trong đó 6÷7% cho sự hô hấp và 5% cho việc tạo rể và mầm lá.

- Các hệ enzyme trong hạt sau giai đoạn ươm mầm

+ Hệ enzyme oxy hóa – khử: tham gia xúc tác quá trình hô hấp của hạt đại mạch gồm có các enzyme như oxydase; peroxydase; catalase; sacarase và maltase. Khi hô hấp, nhờ oxy không khí và tác dụng xúc tác của oxydase sẽ tạo thành nước và khí CO2. Peroxydase sẽ tạo thành với CO2 một phức chất, giúp quá trình phá vỡi CO2 , từ đó giải phóng O2. nhờ hoạt tính của hệ enzyme oxy hóa mà sự hô hấp của hạt cũng tăng nhanh. Cường độ này phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ và hàm lượng của oxy trong môi trường nước ngâm.

+ Hệ thống enzyme sitase: sự hoạt động của hệ thống enzyme này có một ý nghĩa nhất định trong quá trình ươm mầm. chúng là tập hợp của cenllulase, hemicenllulase và β.glucozidase. Với sự hoạt động của enzyme cenllulase, chúng sẽ tấn công vào những tế bào cenllulose nằm trong màng ngăn giữa nội nhũ và vỏ trấu để tạo ra những sản phẩm đồng dạng với destrin. Độ hoạt động của enzyme này tăng từ từ cho tới ngày thứ 7 với pH tối ưu là 5 và nhiệt độ tối ưu là 40oC. Với sự hoạt động của enzyme hemicenllulase chúng tấn công vào những tế bào hemicenllose nằm trong vỏ quả, từ đó tạo thêm những sản phẩm monosacaride như glucose hoặc prntose trong hạt malt. Thường hoạt tính của enzyme này tăng mạnh ở ngày thứ 5÷7 với điều kiện pHop=4,1 và toop=40÷50oC: enzyme β.glucozidase thường có sẵn trong lớp màng alorong của hạt đại mạch. Khi nó được haọt hóa, sẽ tấn công vào các hợp chất dạng gom ở màng alorong, tạo ra sản phẩm hecxose và pentose với điều kiện pHop=4,4 và toop =37÷40oC. tổng hoạt động của hệ thống enzyme sitase trong quá trình ươm mầm là làm thay đổi cấu trúc giữa lớp vỏ ngăn cách giữ vỏ trấu và nội nhũ.

+ Hệ enzyme amylase: hệ enzyme này gồm có α.amylase, β.amylase và amilophostase, phần lớn chúng tập trung ở phôi mầm và một ít phân bố ở nội nhũ hoặc trong màng ngăn giữa vỏ trấu và nội nhũ. Hoạt tính của α.amylase bắt đầu tăng mạnh giai đoạn đầu của quá trình ươm mầm, đặc biệt mạnh sau ngày thứ 3÷4. thời gian để hoạt động của enzyme này đạt cực đại phụ thuộc vào nhiệt độ. Cơ chất mà nó tác động lên là tinh bột và destrin, từ đó tạo ra sản phẩm maltose và destrin tận cùng trong hạt malt. Enzyme này hoạt động tốt ở điều kiện pHop= 5,8 và toop =72÷76oC. Enzyme β.amylase, thường tồn tại trong hạt đại mạch chín ở dạng liên kết cũng như dạng tự do. Trong quá trình ươm mầm, hoạt tính sẽ tăng dần đều trong trong 7÷8 ngày, riêng hoạt tính của Enzyme β.amylase tự do tăng 3÷4 lần. Với với sự tham gia của enzyme này, tinh bộ hạt đại mạch sẽ bị cắt thành đường maltose và destrin, với pHop= 5,5÷5,8 và toop =55÷60oC.Enzyme amilophostase không có trong hạt đại mạch chín. Nhưng enzyme này được hình thành sau ngày thứ 2 của quá trình ươm mầm, sau 8 ngày sẽ đạt cực đại. enzyme này sau khi sẽ được hoạt hóa tăng lên khoảng 150÷200 lần. Cơ chất tác dụng cảu nó là tinh bột đại mạch giải phóng ra đường maltose cùng với acid phosphoric trong hạt malt.

+ Hệ enzyme protease: trong hạt đại mạch, toàn bộ hệ thống enzyme này ở trạng thái liên két, hầu như không hoạt động. Song, khi chuyển sang giai đoạn ươm mầm thì hoạt tính chung của hệ enzyme protease đã tăng nhanh, và thường đạt cực đại sau ngày thứ năm của quá trình ươm mầm. Sự tăng của ưnzyme này phụ thuộc vào giống đại mạch và điều kiệ ươm mầm. điều kiện tối ưu của enzym này là pHop= 7,3÷8,0 và toop =45÷50oC. như vậy, các điều kiện về nhiệt độ và pH trong thời gian ươm mầm không thuận lợi cho hệ enzyme này nối chung.

- phương pháp ươm mầm: 

+ hiện nay trên thế giới có nhiều phương án ươm mầm theo phương pháp thông gió, tùy thuộc vào điều kiện mỗi nơi mà chọn lựa phương án lựa chọn khác nhau như:

  • ươm mầm thông gió trong hộp
  • ươm mầm thông gió trong thùng quay
  • ươm mầm thông gió liên tục

+ về nguyên tắc ươm mầm theo phương pháp thông gió: ươm mầm thông gió được tiến hành bằng cách thổi luồng khí đã được điều hòa (to, W) trực tiếp vào lớp hạt. không khí sau khi qua bộ phận điều hòa sẽ được làm sạch bụi, vi sinh vật, hạ nhiệt độ thấp hơn so với nhiệt độ trong lớp malt từ 2÷3oC và độ ẩm bão hòa hơi nước đạt đến 98÷100%. Nhờ không khí được thổi qua lớp malt từ dưới lên trên tuần hoàn, liên tục, mà malt được ươm trong điều kiện O2, to, và W thích hợp nhất, kết quả là malt luôn có chất lượng ổn định và ta có thể kiểm soát được các yêu cầu chất lượng của malt.

4.3 - Sấy malt.            

Sấy malt tươi là giai đoạn cuối cùng của malt hóa đại mạch, đây là quá trình công nghệ cần thiết nhằm thu nhận được malt thành phẩm có đầy đủ tính chất và tiêu chuẩn về chất lượng.  - Sấy malt tươi nhằm mục đích: malt tươi luôn có một lượng ẩm khá lớn (W=40%), trong kgi phải chấm dứt sớm sự phát triển của hạt malt ( sự phát triển của chồi và rễ ) để hạn chế tối đa tổn thất chất khô của hạt, giúp cho việc bảo quản và vận chuyển đi xa không làm giảm xút chất lượng malt, do đó phải tiến hành sấy malt tươi. Tuy nhiên để vệc sấy malt tươi đạt hiệu quả tốt nhất cần phải nhận rõ mục đích phải đạt đến là:

- Tách triệt để độ ẩm tự do trong hạt malt.

- Bảo toàm được haọt tính cảu enzyme.

- Thông qua chế độ sấy khác nhau, ta thu được những loại malt có yêu cầu chất lượng khác nhau để đáp ứng cho việc sản xuất ra các loại bia có chất lượng khác nhau.

- Diễn ra một loạt các quá trình tạo thành hương,vị và tăng cường độ màu của sãn phẩm. Quan trọng nhất trong sấy malt là tạo melenoidinmột hỗn hợp bao gồm nhiều hợp chất, là yếu tố quan trọng chi phói chất lượng bia vàng và là nhân tố quyết định về hương vị, màu sắc, khả năng tạo và bọt bia đen.

- Các giai đoạn trong quá trình sấy malt tươi:

+ Giai đoạn sinh lý: ở giai đoạn này nhiệt độ sấy sẽ tăng dần lên 45oC, hàm lượng nước trong hạt sẽ hạ dần về khoảng 30%. Điều kiện độ ẩm và nhiệt độ như vậy sẽ rất phù hợp cho sự phát triển về sinh lý của hạt mầm, đồng thời một số enzyme thủy phân cũng bắt đầu hoạt hóa trở lại, tác động đến nội nhũ làm cho mầm tăng thêm một ít đường và acid amin.

+ Giai đoạn sinh hóa:  giai đoạn này nhiệt sấy malt tăng dần từ 45-70oC. Các biến đổi sinh lý bắt đầu dừng lại, các enzyme thủy phân vẫn tiếp tục hoạt động song yếu dần, đặc biệt là đối với malt vàng vì lúc này độ ẩm trong malt đã hạ về khoảng 10%. Tuy nhiên đối với malt đen thì độ ẩm ở giai đoạn này chỉ mới hạ về khoảng 20÷30%, cùng với nhiệt độ 45÷70oC rất thích hợp cho các enzyme thủy phân hoạt động tốt. Do vậy, sự phân hủy nội chất của malt đen thường sâu xa và dẫn đến hàm lượng đường và acid amin cao hơn trong malt vàng.

+ Giai đoạn hóa học: giai đoạn này, nhiệt độ tăng dần lên khoảng 75÷105oC. Khi nhiệt độ >70oC, các quá trình tác động của enzyme bị hấp phụ bởi các chất keo của hạt malt, chúng chuyển dần về dạng liên kết với các phân tử khác của hạt malt, trở về trạng thái “nghỉ tĩnh”. Một số enzyme kém chịu nhiệt sẽ bị biến tính như: pectindase, sitase, phytase,… Do tăng dần nhiệt lên cao, hàm lượng nước trong malt sẽ giảm về tối thiểu, khi đó trong hạt malt sẽ xảy ra các biến đổi hoá học chủ yếu là tạo nên các hợp chất màu, mùi thơm và vị đặc trưng cho malt. Phản ứng hóa học đặc trưng là phản ứng tạo thành các sản phẩm melanoidin. Vai trò của các hợp chất melanoidin trong công nghệ sản xuất bia là rất lớn: chúng tạo cho bia có màu và mùi thơm đặc biệt, do khả năng hoạt động bề mặt mạnh nên chúng là những chất có khả năng tạo bọt tốt. Chúng còn đóng vai trò bảo vệ các chất keo, ngăn cản sự kết tủa của các chất keo không bền vững (như protein). Ngoài ra chúng còn khả năng khử mạnh, làm tăng tính chất bền vững của bia, chống lại hiện tượng đục bia do oxy hóa. Vì lượng melanoidin trong bia đen nhiều hơn do vậy tính chất này được thể hiện trong bia đen rõ hơn trong bia vàng.

4.4 - Tách mầm, rễ malt. 

- Trong thành phần hóa học của rễ malt chứa nhiều hợp chất thuộc nhóm acid alkaloid. Nếu những hợp chất này tồn tại trong bia sẽ gây nên những vị đắng rất khó chịu. Mặt khác, một số thành phần hóa học trong rễ malt là nguyên nhân gây nên nhiều rượu bật cao trong quá trình lên men bia, đồng thời loại bỏ sự hút ẩm (rễ, mầm), ngăn ngừa sự hút ẩm trở lại sau khi sấy. 

- Quá trình tách mầm được tiến hành ngay sau khi malt vừa ra khỏi lò sấy. Lúc này mầm và rễ ở trạng thái khô, dòn, rất dễ gãy nếu để nguội mầm và rễ sẽ hút ầm, trở nên dai khó tách khỏi hạt malt…

4.5 - Bảo quản malt. 

Malt khô sau khi sấy tách mầm, rễ cần được bảo quản tồn trữ ở nhiệt độ thấp (≤20oC), thoáng và không khí khô. Thời gian bảo quản tối thiểu là 4 tuần và tối đa là 2 năm. Phải theo dõi thường xuyên nhiệt độ và không khí trong kho để theo dõi biến đổi chất lượng malt trong thời gian bảo quản.

4.6 - Chỉ tiêu đánh giá chất lượng malt khô. 

- Tỉ lệ thu hồi malt khô: 100kg đại mạch có w=15% sẽ sản xuất được 75÷78kg malt khô có w=2÷4% 

- Kiểm tra cảm quan: 

+ Màu: malt vàng có màu vàng rơm, malt đen có màu sẫm hơn, vỏ malt phải óng ánh, kích thước và hình dáng phải giống như hạt đại mạch khô.

+ Mùi và vị: phải đặt trưng cho từng loại malt, không có mùi lạ, nếu có mùi chua hoặc mốc chứng tỏ malt còn ẩm.

+ Về đô sạch: không lẫn tạp chất, hạt không bị vỡ (lượng hạt vỡ tối đa là 15%), lượng hạt bệnh tối đa là 1%, lượng hạt không nảy mầm tối đa là 5%.

- Chỉ số cơ  học:

+ Đối với malt rất nhẹ: 480÷500g/l

+ Loại nhẹ:500÷530g/l

 Trung bình: 530÷560g/l

+ Loại nặng≥560g/l.

+ Trọng lượng tuyệt đối malt là từ 28÷38g/1000 hạt.

- Thành phần hóa học:

+ Độ ẩm malt (vừa sấy xong)<4,5% và trong bảo quản tốt cho phép w<7%.

+ Thời gian đường hóa của malt vàng là 10÷20 phút ở 70oC, malt đen là 20÷30 phút ở 70oC.

+ Chất hòa tan trung bình là 65÷82% chất khô.

+ Hàm lượng maltose của malt vàng là 70% chất hòa tan, malt đen 59÷65% chất hòa tan. + Độ axit: PH đường hóa từ 5,5÷6,5.

+ Những thành phần chính của malt khô (% chất khô):

  • Tinh bột: 58%
  • Pentose hòa tan 1%
  • Hexozan và pentozan không tan: 9,0%
  • Xenlulose: 6,0%
  • Sacarose : 5%
  • Đường khử: 4,0%
  • Protein(n*6,25): 10,0%
  • Protein hòa tan: 3,0%
  • Chất béo: 2,5%
  • Chất tro: 2.5%

Bảng 2.2 : Chỉ tiêu chất lượng malt của nhà máy bia Sài Gòn

STT

Tên chỉ tiêu kiểm tra

Đơn vị

Yêu cầu

1

Độ ẩm

%

4 ÷ 5

2

Độ hòa tan trên chất khô xay nhuyễn

%

>80

3

Chênh lệch giữa xay thô và xay nhuyễn

%

1,2 ÷1,8

4

Hoạt lực

WK

290 ÷320

5

Protein tổng cộng

%

10 ÷12

6

Cỡ hạt > 2,5mm

Cỡ hạt < 2,5mm

%

≥85

≤1

7

Độ trong

%NEPH

2,5

8

Thời gian đường hóa

Phút

<15

9

Độ màu

0EBC

3,0÷4,5

10

pH

 

5,6÷6

11

Protein hòa tan

%

4÷4,7

12

Chỉ số Kolbach

 

38÷42

 

III - HUBLON.

Houblon thuộc họ dây leo, sống lâu năm (30÷40 năm), có chiều cao trung bình 1015m. Hiện nay trên thế giới đang trồng trên 100 giống hoa houblon khác nhau. Loại thực vật này chỉ thích hợp với khí hậu ôn đới nên được trồng nhiều ở Đức, Tiệp, Liên Bang Nga, Pháp, Mỹ, Trung Quốc,…

Hoa houblon có hoa đục và hoa cái riêng biệt cho từng cây, trong sản xuất bia chỉ sử dụng hoa cái chưa thụ phấn. Hoa đực không được sử dụng vì nó rất nhỏ, chứa ít lượng phấn hoa (lupulin), chất đắng cũng rất kém.

Hoa houblon là nguyên liệu cơ bản đứng thứ 2 (sau đại mạch) của công nghệ sản xuất bia. Hoa houblon làm cho bia có vị đắng dịu, hương thơm rất đặc trưng làm tăng khả năng tạo và giữ bền bọt, làm tăng độ bền keo và độ ổn định thành phần sinh học của sản phẩm. do những đặc tính cực kì đặc biệt như vậy nên hoa houblon vẫn giữ một vai trò độc tôn và là nguyên liệu không thể thay thế trong ngành sản xuất bia. 

III.1 - Thành phần hóa học hoa houblon:

 

Bảng 2.3 Thành phần hóa học hoa houblon

Thành phần

Tỉ lệ (%)

Thành phần

Tỉ lệ (%)

Nước

10÷13

Axit amin

0.1

Tổng chất đắng

15÷21

Protein (N*6.25)

15÷21

Tinh dầu thơm

0.5÷1

Chất béo

3

Tanin

2.5÷6

Tro

8

Đường khử

2

Cellulose, lignin và những chất còn lại

40

Pectin

2

 

 

 

- Chất đắng

Vai trò trong công nghệ sản xuất bia là rất lớn. Chất đắng tạo cho bia có vị đặc trưng và dễ chịu, tạo ra một đặc tính cảm quan rất đặc biệt của bia. Khi hòa tan vào dịch đường và tồn tại trong bia, chúng có hoạt tính sinh học cao tạo ra sức căng bề mặt giúp cho bia có khả năng giữ bọt lâu. Chúng còn có tính kháng khuẩn do đó làm tăng độ bền sinh học của bia thành phẩm.

 - á-axit đắng (humulon): 90% độ đắng của bia là á-axit đắng, bao gồm humulon và các đồng phân của nó.á-axit đắng gây đắng mạnh nhưng kháng sinh rất yếu.

- â-axit đắng (lupulon) bao gồm lupulon và các đồng phân đi kèm của nó. â-axit đắng gốc đắng yếu hơn á-axit đắng nhưng tính kháng sinh mạnh hơn do đó phải sử dung kết hợp cả á-axit đắng và â-axit đắng .

- Nhựa mềm: là các polyme acid đắng chúng có khả năng tạo ra lực đắng cao hơn â-axit đắng đây là chất rất có giá trị của chất đắng.

- Nhựa cứng: là polyme của acid đắng nhưng mật độ cao hơn nhiều so với nhựa mềm. Chất này không tan trong nước và dịch đường do đó không có giá trị trong sản xuất bia.

1.2 - Tanin 

Với hàm lượng trung bình 4% trọng lượng hoa, tanin có một vai trò nhất định trong quy trình công nghệ, từ đó có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp chất lượng bia. 

Trong quá trình đun sôi dịch đường với hoa houblon. Trước hết tanin được chiết trích dưới dạng hòa tan, sau đó với điều kiện nhiệt độ cao và thời gian dài chúng sẽ bị oxy hóa và trùng ngưng với các mức độ khác nhau, các phân tử trùng ngưng sẽ hình thành mối liên kết đẳng điện với các phân tử protein trong dịch đường hình thành những phức taninprotein, tạo ra kết tủa nóng trong quá trình này. Mặt khác, với một dạng phức tương tự nhưng với trọng lượng nhỏ hơn không kết tủa với điều kiện nhiệt độ cao, khi hạ nhiệt độ xuống thấp chúng sẽ kết tủa lại, tạo ra liên kết tủa nguội trong dịch đường. 

Từ đó ta nhận thấy rằng, tanin một mặt có ảnh hưởng tốt đến quá trình công nghệ, giúp cho dịch đường trong nhanh và kết tủa các thành phần protein không bền, làm tăng độ bền vững của keo bia. Song mặt khác tanin cũng làm kết tủa cả những phần protein bền, dẫn đến chỗ làm giảm khả năng tạo bọt của bia.

1.3 - Tinh dầu 

Tinh dầu phấn hoa houblon chiếm 0,17÷0,65% trọng lượng hoa. Tinh dầu hòa tan trong dịch đường, tồn tại trong bia và tạo cho bia mùi thơm đặc trưng rất nhẹ nhàng và dễ chịu. Tinh dầu thơm là chất lỏng trong suốt màu vàng nhạt hoặc không màu có mùi thơm rất lạ nhưng hòa tan rất yếu trong nước (0,4mg/l), khó hòa tan trong cồn thấp nhưng hòa tan hoàn toàn trong cồn nguyên chtấ và este. Đa phần cấu tử dễ bay hơi, thậm chí ở nhiệt dộ phòng do đó trong thời gian đun sôi dịch đường với hoa houblon, có đến 98% lượng tinh dầu thơm bay ra ngoài chỉ còn 2% tồn tại trong bia.

1.4 - Giá trị chất lượng hoa houblon:

Bảng 2.4. Giá trị chất lượng hoa houblon

Chỉ số

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Màu hoa

Vàng đến vàng óng

Vàng lục

Vàng xanh đến vàng

Màu hạt lupulin

Vàng, vàng óng ánh

Vàng, vàng sẫm

Vàng sẫm

Mùi

Thơm dễ chịu, đặc trưng

Thơm, không có mùi tạp chất khác

Hơi nồng

Cánh hoa

To, đều, chắc. không bị rách

Cánh có thể bị rách, có chấm đỏ cà phê

Rách nhiều, nhiều chấm đỏ cà phê

% tạp chất

≤1.75

≤3

≤9

% bệnh hoa

0

<1

<5

% chất đắng

>15

>12

>10

% tro

≤10

≤11

≤12

% ẩm

<13

<13

≤13

 

III.2 - Chế phẩm houblon 

- Sử dụng hoa houblon nguyên cánh trong sản xuất bia có ưu điểm là bảo đảm được chất lượng tốt nhất. nhưng hoa hái về phải bảo quản trong kho khô ráo, tối và có nhiệt độ thấp, vì những thành phần hữu ích của hoa rất dễ bị oxy hóalàm giảm dần giá trị chất lượng. Để hạn chế sự giảm sút chất lượng này, trước hết phải đảm bảo trong kgo có W<13%. Đồng thời hạn chế tác động xấu của độ ẩm không khí, nhiệt độ và ánh sáng mặt trời. Thường người ta xây dựng kho bảo quản cách nhiệt, thật tối, và thường xuyên thông thoáng kho bằng không khí khô, lạnh, giữu nhiệt độ kho 0,5÷2oC . Do đó sử dụng dạng này không kinh tế và gặp khó khăn trong công tác vận chuyển cũng như sử dụng lâu dài. 

- Dạng hoa cánh khô: hoa được sấy w<13%, sau đó được ép chặt thành bánh bọc kín trong các loại giấy đặc biệt mà không khí không thể thẩm tích qua được, đồng thời có thể nạp thêm khí trơ để ngăn chặn tối đa tình trạng giảm chất lượng do bảo quản. 

- Dạng hoa houblon hạt, viên để sử dụng thuận tiện dỡ tốn kém trong thời gian bảo quản và vận chuyển, người ta nghiền nát cánh hoa khô thành dạng bột. Sau đó cho qua máy ép viên định hình để thu gọn và được bọc trong giấy đặc biệt có nạp thêm khí trơ như hoa cánh khô. Giá trị chất lượng được tính theo α-axit đắng  của hoa cánh và hoa viên như nhau. Song hoa viên có hiệu quả sử dựng cao hơn nên tiết kiêm tốt hơn. 

- Cao hoa houblon: là hỗn hợp các chất đắng được chiết tách từ hoa và đem cô đặc lại. Hàm lượng axit dắng chiếm 50%. Tuy nhiên khi chỉ dùng loại này ta không trích ly được polyphenol. Không có lợi cho độ bền của bia nhưng chất lượng chất đắng được bảo quản tốt hơn, đồng thời việc sử dụng khi nấu với dịch đường sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn nhiều. Thông thường giá trị sử dụng trong 1kg cao hoa tương đương 5÷6kg hoa cánh hoặc hoa viên.

 

IV – MEN BIA:

Đã từ lâu, trong ngành sản xuất bia, các giống nấm men đựơc chia thành 2 nhóm: a- nhóm nấm men nổi với các đặc tính :

- Nhiệt độ lên men: 10÷25oC 

- Lên men mạnh, quá trình lên men xảy ra trên bề mặt của môi trừơng.

- Khi quá trình lên men kết thúc, các tế bào kết chùm, chuỗi, tạo thành lớp dày trên bề mặt cùng với bọt bia, bia tự trong chậm.

- Khả năng lên men đừơng tam (rafinase) kém (chỉ đạt 33%).

- Nhóm nấm men chìm với các đặc tính:  -    Nhiệt độ lên men:0÷10oC 

- Quá trình xảy ra trong lòng môi trừơng nên khả năng lên men tốt. 

-   Có khả năng lên men hoàn toàn (vì có thể lên men đường rafinosse hoàn toàn). 

-   Khi lên men xong, các tế bào kết thành chùm hoặc chuỗi kết lắng xuống đáy thùng lên men rất nhanh, nhờ vậy bia chóng tự trong hơn hên men nổi. Hiện tại nha máy bia sài gòn sử dụng nấm men chiềm Saccharomyces carlsbergensis được Hasen phân lập năm 1833 với đầy đủ các đặc tính của chủng nấm men chiềm và nhiều ưu điểm vuợt trội:

- Lên men mạnh trong lòng môi trường; khi hết nguồn cacbon trong môi trường, có xu hướng kết chùm, chuỗi và lắng nhanh xuống đáy thùng lên men, làm trong bia nhanh.

- Lên men được glucose, mannose, galactose, fructose, saccharose, malttose.

- Đặc biệt rafinose và các dextrin đơn giản, lên men tốt, thậm chí ở nhiệt độ thấp từ 6÷10oC (các giống khác không có khả năng này).

- Không lên men được các đường: lactose, inulin, kxilose, arabinose, cellobiose, manit, socbit…

- Ngoài ra chủng nấm men này còn có khả năng tái sử dụng tốt (6-8 đời), tỷ lệ tế bào chết <10%.

- Hiện nay được sử dụng khá phổ biến ở các nhà mày bia trên thế giới.

Sinh sản tốt ở 8-25oC. Ở nhiệt độ thấp (2÷8oC) chúng sinh sản chậm, nhưng vẫn lên men mạnh vì khả năng tạo bào tử của nấm men này yếu. Trong môi trừơng có đầy đủ vitamin (đặc biệt là vitamin B6) chúng sẽ phát triển tốt nhưng ảnh hưởng của từng loại vitamin lên nấm men là không giống nhau.

Khả năng kết lắng của nấm men phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cấu tạo thành tế bào nấm men, hàm lựơng nitơ hòa tan trong môi trường, nhiệt độ, trị số diện tích điện của tế bào và PH của môi trường (thường 8,0÷4,0).

 

V -  CÁC CHẤT PHỤ GIA TRONG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA

Trong công nghệ sản xuất bia, ngoài những nguyên liệu không thể thiếu được như malt, houblon, men, người ta còn dùng đến một số nguyên liệu hay hóa chất phụ. Tùy theo yêu cầu kỹ thuật, công nghệ, mà những nguyên phụ liệu hoặc các hóa chất này được sử dụng với hàm lượng khác nhau, gọi chung những dạng này là phụ gia và chia thành hai nhóm chính:

V.1 – Nhóm phụ giai trực tiếp

Gồm tất cả những nguyên liệu và hóa chất có mặt trong thành phần của sản phẩm với sự kiểm soát chặt chẽ với hàm lượng cho phép.

  • Các hóa chất xử lý độ cứng, điều chỉnh độ kiềm của nước công nghệ như HCl, Al2(SO4)3.16H2O, CaSO4, . . . .
  • Các hóa chất đưa vào để ngăn chặn quá trình oxy hóa những thành phần trong bia như acid ascorbic, H2O2, . . .
  • Các hóa chất dùng để điều chỉnh ph như: H2SO4, acid lactic, CaCl2 . . .
  • Chất tạo màu cho bia: caramen.

V.2 – Nhóm phụ gia gián tiếp

Nhóm này gồm tất cả nguyên liệu và hóa chất được sử dụng trong quy trình công nghệ nhưng không được phép có mặt trong sản phẩm.

  • Các bột trợ lọc: PVPP, kizelgua, . . .
  • Các hóa chất để vệ sinh thiết bị, vệ sinh phân xưởng như: H2SO4, KmnO4, NaOH . . .
  • Các chất được dùng như tác nhân làm lạnh NH3, glycol, nước muối

 

VI – THẾ LIỆU

  • Trong sản xuất bia việc dùng thế liệu thay cho malt tùy thuộc vào điều kiện chủ quan và khách quan, có thể nhằm mục đích hạ giá thành sản phẩm tạo ra các sản phẩm bia có mức chất lượng khác nhau. Cải thiện một vài tính chất của sản phẩm, theo đơn đặt hàng của người tiêu dùng.
  • Thế liệu phải dồi dào nguồn glucid mà từ đó dưới tác dụng của enzyme trong malt, glucid của thế liệu sẽ chuyển hóa thành đường hòa tan. Vì vậy các loại ngũ cốc được chọn làm thế liệu trong sản xuất bia.

Khi sử dụng thế liệu chất lượng của thế liệu sẽ ảnh hưởng trực tiếp dến chất lượng bia (màu sắc, mùi vị). Vì vậy phải quan tâm đến thành phần hóa học của thế liệu.

*  Trong nhà máy bia sài gòn hiện nay sử dụng thế liệu là gạo (chiếm 30%) do gao có những ưu diểm sau: + Có sẵn trong nước với giá rẻ và chất lượng cao

+ Do hàm lượng glucid và protein khá cao, khả năng chuyển hóa thành chất hòa tan tốt, có thể đạt 90% chất khô. Thực tế và thực nghiệm đã cho ta thấy có thể thay thế gạo cho malt đến 50% ( nếu malt có hoạt tính enzyme tốt).

Thành phần hóa học của gạo

  • Hàm lượng tinh bột: 77,8%
  • Họp chất nitơ: 7,9%
  • Hàm lượng chất béo 0,5%/cellulose của vỏ lụa: 0,5%
  • Chất tro: 0,7%
  • Độ ẩm: 12.6%

Chỉ tiêu chất lượng gạo dủng để sản xuất bia:

  • Hạt phải sạch, không có tạp chất, không có hạt mốc, mùi hôi.
  • Màu sắc phải đồng đều, w<12%

Ngoài ra ở một số nơi có sử dụng thế liệu khác như:

  • Bắp được sử dụng ở các nước châu Phi hoặc Mỹ La Tinh, vì trong bắp có hàm lượng lipid cao nằm trong phôi vì vậy cần phải tách bỏ phôi và vỏ hạt.
  • Đại mạch: được sử dụng nhiều ở các nước châu Âu, Bắc Mỹ hoặc một số nước trồng được đại mạch.
  • Gạo mì: do đặc tính của gạo mì không có vỏ trấu như đại mạch, mặt khác hàm lượng gluten khá cao, vì vậy muốn dùng gạo mì làm thế liệu cho malt đại mạch thường phải ươm mầm rồi dùng kết hợp với malt.
  • Đậu: hàm lượng tinh bột trong đậu không lớn, thường nhỏ hơn 40% trọng lượng, vì vậy trong nấu bia người ta dùng đậu không phải ý nghĩa thế liệu cho malt mà với ý nghĩa làm cho bia có khả năng tạo bọt mạnh (trong đậu có chúa nhiều glucozit) là nguồn thức ăn tốt cho nấm men về sau. Ngoài ra trong đậu còn chứa nhiều vitamin và các chất kích tố tăng trưởng đối với nấm men.
  • Đường saccharose: được sử dụng như một thế liệu cao cấp, đưa trực tiếp dưới dạng tinh thể vào nồi đun với hoa hoặc đưa vào dưới dạng siro trong quá trình chiết bia (đối với một vài loại bia ngọt).

 

Phần 3 : QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA

I – SƠ ĐỒ QUY TRINH CÔNG NGHỆ

II – THUYẾT MINH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ

II.1 – phân xưởng nấu

1.1– Nguyên liệu ( malt /gạo ).

Hầm chứa nguyên liệu: gồm 6 hầm chứa malt, sức chứa 80tấn/hầm và 3 hầm chứa gạo, sức chứa 100tấn/hầm. Đối với hầm chứa malt được chia làm 3 nhóm để có thể chứa được 3 loại malt khác nhau bao gồm nhóm hầm 1-8, nhóm hầm 5-6, và nhóm hầm 7-9. Hiện nay nhà máy sử dụng hai loại malt khác nhau trong phối trộn nên trong quá trình xay phải điều chỉnh mỗi loại malt cho đúng.

1.2– Làm sạch.

Máy tách rác:

- Bồn chứa trung gian ở tầng 4 được nối trực tiếp với máy sàng. Máy được đặt nghiêng khoảng 10o so với phương nằm ngang nhằm tạo độ dốc cho nguyên liệu và rác để trượt xuống.

- Máy gồm có hai lớp lưới

+ Lớp trên có lỗ lưới hình tròn, đường kính hkoảng 5mm (đối với gạo) và 8mm (đối với malt).

+ Lớp dưới có lỗ hình vuông nhỏ hơn.

+ Giữa hai lớp lưới này có những viên bi cao su chạy nhằm tránh cho rác và nguyên liệu bị kẹt ở giữa hai lớp lưới. Máy hoạt động nhờ hai mô tơ điện, khi hoạt động, lưới rung mạnh theo phương nằm ngang.

- Nguyên tắc hoạt động: nguyên liệu vào ở đầu cao, do lực rung, nguyên liệu sẽ lọt qua lớp lưới trên, còn tạp chất lớn sẽ bị giữ lại trên lớp lưới và được đưa ra ngoài. Khi xuống lớp lưới phía dưới, các tạp chất như cát, bột mịn sẽ lợt qua lớp lưới này, sau đó nhờ hệ thống quạt hút, các tạp chất này sẽ được hút ra ngoài. Còn nguyên liệu tốt (vẫn còn sạn có đường kính tương đương như hạt malt/gạo) sẽ nằm phía trên lớp lưới, từ đây nguyên liệu sẽ được chuyển xuống  máy sàng tách sạn ở tầng 3.

- Máy có động cơ 0,25kw,  hoạt động với năng suất 6 tấn/h.

Máy tách sạn :

- Máy tách sạn hoạt động theo nguyên tắc khí động và lắc phẳng. Máy bố trí nghiêng so với mặt đất 8÷9o, có mô tơ điện gắn một đầu tạo độ rung theo chiều dọc.

- Nguyên tắc hoạt động: nguyên liệu được đưa vào đầu cao hơn. Khí thổi vào vừa đủ để  nâng hạt lên, còn sạn nặng hơn nằm dưới. Khi sàng rung, nhờ độ rung của sàng, hạt di chuyển về đầu thấp đổ xuống dưới, còn sạn đi về hướng ngược lại vào thùng chứa. Máy cũng được nối với quạt hút bụi như máy tách rác.

- Máy có động cơ 25kw, hoạt động với công suất 5 tấn/h.

1.3 – Cân 

Nguyên liệu sau khi làm sạch được đi qua hệ thống cân tự động để định lượng cho mỗi mẻ nấu. Trong nhà máy tỷ lệ gạo là 25% và tỷ lệ malt là 75%. Do đó mỗi mẻ nấu thông thường là 2500kg gạo và 7500kg malt (đối với gạo mỗi lần cân là 14kg, còn đối với malt là 30kg).

1.4 – Nghiền 

- Mục đích: phá vỡ cấu trúc tinh bột của hạt, nghiền hạt thành nhiều mảnh nhỏ để tăng bề mặt tiếp xúc với nước, giúp cho sự xâm nhập của nước vào các thành phần nội nhũ nhanh hơn, thúc đẩy quá trình hồ hóa và các quá trình thủy phân khác nhanh và triệt để hơn.

- Nguyên tắc chung cho chế độ nghiền :

+ Đối với gạo: do gạo chưa qua nảy mầm nên cấu trúc tinh bột còn nguyên vẹn. Mặt khác hệ thống enzyme amylase và protease có trong ngạo rất nghèo lại không được hoạt hóa nên chúng khó bị thủ phân. Do đó gạo phải được nghiền càng mịn càng tốt, khả năng tiếp xúc giữa cơ chất và enzyme càng cao, hiệu quả thủy phân càng triệt để.

+ Đối với malt: ngoài việc quan tâm đến kích thước của bột nghiền thì độ nguyên của vỏ trấu cũng rất được quan tâm. Nếu nghiền thô thì có lợi cho việc lọc bã malt. Lúc này lớp vỏ trấu cũng đóng vai trò là lớp vật liệu lọc rất tốt. Nhưng nếu nghiền quá thô thì độ đường hóa sẽ không hoàn toàn. Ngược lại nếu nghiền quá mịn thì vỏ trấu sẽ bị nát, không tạo được độ xốp cao, bề mặt lớp lọc dễ bị bịt kín, khả năng lọc kém. Ngoài ra khi nghiền quá mịn thì trong quá trình nấu và lọc, các chất trong vỏ trấu sẽ chiết vào dịch nha (tannin, polyphenol, lignin . . .) ảnh hưởng xấu đến chất lượng của bia thành phẩm.

- Nguyên tắc hoạt động : 

+ Nguyên liệu sau mỗi mẻ nấu sẽ theo hệ thống gàu tải vào thùng chứa rồi vào máy nghiền búa ở tầng 4. Nguyên liệu sau khi qua máy nghiền nhờ động lực của quạt hút dưới máy nghiền, nguyên liệu được hút qua cửa vào, qua phần gờ hình tam giác. Ở đây gió được thổi vuông góc với dòng nguyên liệu, những hạt nguyên liệu nhẹ sẽ thay đổi góc rơi, rơi vào thùng nghiền, còn những hạt sạn và tạp chất nặng sẽ được giữ lại và rơi vào thùng chứa tạp chất của máy. Trước khi vào máy nghiền, nguyên liệu còn được đi qua nam châm mạnh để hút những mảnh sắt vụn còn lại trong nguyên liệu.

+ Nguyên liệu xuống phía dưới bị đập nát bởi các búa đập với tốc độ3000vòng/phút. Máy có hộp đổi chiều, dùng thay đổi chiều quay của búa đập, hạn chế trường hợp búa đâp bị mòn một phía. Máy nghiền có tất cả 71 búa, đước xếp thành 8 dãy, mỗi dãy có 9 búa. Nguyên liệu được nghiền do va đập giữa các nguyên liệu với nhau, do búa đập, do nguyên liệu va đập vào thành máy và do lưới nghiền (đường kính lỗ lưới nghiền gạo là 2÷2,3mm, của malt là 2.2÷2.5mm) . Ngoài ra kích thước hạt sau khi nghiền còn phụ thuộc vào tốc độ quay của roto.

+ Bột malt và bột gạo sau khi nghiền được hút vào trong các túi vải nhờ áp lực, không khí qua vải theo đường hút ra ngoài. Bột malt và bột gạo được giữ lại trong túi này và theo định kỳ máy tự động rũ bột xuống bởi khí nén. Bột nghiền sau đó sẽ được vis tải đưa vào thùng chứa trung gian ở tầng 2.

+ Trong quá trình vận hành, để hạn chế búa bị mòn một bên thì mỗi ngày công nhân điều chỉnh đổi chiều quay của búa. Nếu lưới nghiền bị rách mà không kịp thay sẽ ảnh hưởng đến độ mịn của bột và từ đó ảnh hưởng đến quá trình hồ hóa, dịch hóa, đường hoá và giảm hiệu suất thu hồi. Do đo, thứ 2 hàng tuần là ngày tổng vệ sinh toàn bộ máy móc thiết bị trong phân xưởng nấu.

+ Trong hệ thống xuất xay, bụi malt thu hồi sẽ được tận dụng để nấu, còn bụi gạo thì không.

+ Thời gian nghiền xong 2500kg gạo khoảng 45 phút và thời gian nghiền xong 7500kg malt khoảng 105 phút.

+ Máy nghiền có công suất 4tấn/h với động cơ 37kw.

1.5 – Hồ hóa.

Trước khi nhập liêu bột gạo, cho nước vào trước khoảng 18hl H2O nhằm chống cháy malt (lúc này cánh khuấy trong nồi bắt đầu hoạt động). Sau đó cho một lượng malt lót vào (bằng 10% trọng lượng gạo) và được chia làm hai lần. Lần thứ nhất cho khoảng 53,85% tổng số malt lót (140kg malt) giúp cho sự hồ hóa tinh bột dễ dàng hơn. Vì trong malt có hệ enzyme amylaza, đặc biệt là ở gai đoạn đầu có enzyme  α–amylase, enzyme này cắt phân tử tinh bột thành những phần mạch ngắn hơn, làm cho nồi gạo không bị vón cục, tránh khê, khét. Thời gian xuống malt lót khoảng 1 phút. Sau khi xuống malt lót xong tiến hành nhập liệu gạo. Gạo và nước được xuống cùng một lúc với áp lực mạnh nhằm hòa tan bột gạo trong nước, tránh hiện tượng gạo bị vón cục. Thời gian để xuống hết 2500kg gạo khoảng 12 phút và nhiệt độ của nồi gạo sau khi xong công đoạn pha bột gạo, nhiệt độ khoảng 46oC. Do trong công thức nấu tỷ lệ bột gạo là 25% nên PH dịch bột tăng lên, do đó bổ sung 100ml H2SO4 (2%) để điều chỉnh PH dịch bột về khoảng 5,2÷5,6, là ph tối ưu cho enzime amylase hoạt động, rút ngắn thời gian lọc, nâng cao hiệu suất đường hoá, đồng thời làm cho quá trình kết tủa protein sau này triệt để hơn.

- Nâng dần nhiệt độ lên khoảng 72oC trong thời gian khoảng 11 phút. Trong khoảng thời gian này hạt tinh bột sẽ bắt đầu hút nước và trương nở lên, làm tăng độ nhớt của dịch bột. Giữ ở nhiệt độ 72oC trong thời gian khoảng 10 phút để  tác dụng lên các phân tử amylose và amylopectin. Kết quả là sau một thời gian ngắn, các phân tử polymer của tinh bột sẽ bị cắt thành những phân tử có số gốc glucose ít hơn, tập hợp thành những dạng dextrin khác nhau. Lúc này tinh bột đã được dịch hoá một phần.

- Tiếp tục nâng nhiệt độ lên 83oC trong 13 phút và giữ ở nhiệt độ này trong 5 phút để tiếp tục hồ hoá tinh bột. Kết thúc giai đoạn này, phần lớn tinh bột đã được hồ hoá. Tuy nhiên ở nhiệt độ này phần lơn enzim α-amylaza đã bị vô hoạt.

- Thêm nước để hạ nhiệt độ xuống 72oC trong khoảng 4 phút. Khi thời gian hạ nhiệt độ xuống được 2 phút (khoảng 72oC) thì đồng thời xuống malt lót lần thứ 2 cho khoảng 46,15% tổng số malt lót (120kg malt) để cung cấp thêm enzyme αamylaza giúp cho quá trình hồ hoá triệt để hơn, vì nhiệt độ tối ưu của enzyme này là (72÷75 oC), làm giảm độ nhớt của nồi cháo, giúp cho quá trinh đun sôi dễ dàng hơn.

- Tiếp theo nâng nhiệt độ lên 100oC trong thời gian 30 phút (khi nhiệt độ nồi gạo lên 88oC thì nồi malt bắt đầu hoạt động) và giữ ở nhiệt độ này trong khoảng 15 phút để hồ hoá hoàn toàn tinh bột  tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình đường hoá và quá trình lọc sau này.

1.6 – Đường hoá:

Đường hoá là quá trình chuyển tối đa những chất không hoà tan dự trữ trong malt, thông qua các hệ thống enzyme (amylaza, proteaza) có sẵn trong hạt malt bằng con đường thuỷ phân.

Mục đích quá trình đường hoá: là chiết tối đa các chất có thể hoà tan trong nguyên liệu và thuỷ phân các chất có phân tử lượng cao, tạo thành những chất đơn giản, hoà tan được với nước tạo thành dịch đường hoá.

Quá trình đường hoá:

- Khi nhiệt độ nồi gạo lên 88oC, đồng thời lúc này nồi malt bắt đầu hoạt động. Bột malt và nước được phun vào cùng một ống dân với áp lực lớn, nhằm hoà tan bột malt vào nước, tránh hiện tượng vón cục. Đồng thời lúc này cánh khuấy bắt đầu hoạt động để bột malt không lắng xuống đáy, tránh hiện tượng cháy, khét và chống vón cục. Cùng lúc với quá trình pha bột malt, tiến hành bổ sung thêm 0.07%CaCl2.2H2O (5,3kg) nhằm làm mềm nươc và hạ nhiệt độ của nước. Ngoài ra Ca2+ có tác dụng làm tăng tính bền và tăng tính hoạt động của enzim αamylaza, cải thiện sự kết lắng của nấm men. Ngoài ra còn bổ sung 5,66kg acid lactic để điều chỉnh pH của môi trường về pH=5,2÷5,6, thích hợp cho enzyme amylaza hoạt động. Thời gian để pha 7500kg bột malt khoảng 18 phút, khi đó nhiệt độ nồi malt khoảng 45oC.

- Nâng nhiệt độ lên 50oC trong thời gian khoảng 8 phút và giữa ở nhiệt độ này khoảng 2 phút (tuỳ theo hàm lượng acid amin trong malt mà thời gian đạm hoá dài hay ngắn, nhưng thông thường thời gian này khoảng 0÷30 phút). Trong giai đoạn này xảy ra sự thuỷ phân protein do tác động của enzyme proteaza sẽ diễn ra theo trình tự sau:

Protein => albumose => polypeptide  => peptone và acid amin .

 Quá trình thuỷ phân này có ý nghĩa vo cùng quan trọng trong công nghệ sản xuất bia. Mặc dù lượng protid và các sản phẩm thuỷ phân của chúng chiếm một lượng rất bé trong chất hòa tan của dịch đường (5-6%) song chúng đóng vai trò khá quan trọng trong quá trình công nghệ, trực tiếp tham gia vào sự hình thành chất lượng bia. Các phân tử protid có phân tử lượng thấp (aminoacid, peptide) là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu cho nấm men. Các protide có phân tử lượng trung bình (albumose, peptone, polypeptide . . .) sẽ tham  gia vào việc tạo vị, tạo bọt và giúp cho bia có khả năng giữ bền bọt. Tuy nhên các protide có phân tử lượng cao thường là nguyên nhân gây đục bia.

Sự thuỷ phân protein trong malt bắt đầu lúc ươm mầm, và trong quá trình đường hoá malt quá trình này lại tiếp tục. Giữa hai giai đoạn có sự khác nhau về mức độ sâu xa. Khi nảy mầm, sự thuỷ phân protein thường cho sản phẩm  bậc thấp nhiều hơn (peptide và acid amin), còn ở giai đoạn đường hoá chủ yếu tạo nhiều sản phẩm trung gian như albumose, peptone, peptide bậc cao .

Xúc tác cho sự thuỷ phân protein là hai thành phần chủ yếu của protease, proteinase và peptidase  

- Sau quá trình đạm hoá sẽ chuyên sang công đoạn hội cháo từ nồi gạo sang nồi malt, thời gian hội cháo khoảng 7 phút, kết thúc quá trình hội cháo nhiệt độ khoảng 65oC. Giữ ở nhiệt độ này trong thời gian khoảng 15 phút. Đây là nhiệt độ tối ưu đối với hoạt động của enzim β–amylaza. Enzim này sẽ phân cắt tinh bột từng góc một, như vậy tạo một lượng lớn maltose và một lượng không đáng kể destrin. Lượng maltose này ít hay nhiều tuỳ thuộc vào thời gian dừng lại ở nhiệt độ này. 

Sau điểm dừng này quá trình đường hoá xem như kết thúc, tuy nhiên vẫn còn một số glucid chịu ảnh hưởng của β–amylaza lên ta tiếp tục nâng nhiệt độ lên nhiệt độ tối ưu của enzim α–amylase để phân cắt tiếp tục tinh bột để quá trình đường hoá tốt hơn.

- Nâng nhiệt độ hỗn hợp lên 75oC trong vòng 12÷13 phút và giữ nhiệt độ này trong khoảng thời gian 19 phút. Đây là nhiệt độ thích hợp cho α-amylaza tác dụng lên amylose và amylopeptin của tinh bột tạo thành nhiều gốc glucose và các gốc này sẽ tạo thành những phân tử dextrin khác nhau. Sản phẩm chủ yếu của công đoạn này là dextrin (chính các dextrin này sẽ tạo độ keo của bọt, độbền và độ dày của bọt). Đến đây quá trình đường hoá kết thúc.

- Nâng nhiệt độ lên 760C với mục đích làm giảm độ nhớt của hồ malt, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lọc. Khi nhiệt độ lên đến 760C  thì được bơm ngay qua máy lọc.

- Trong suốt quá trình nấu, ngoài hai quá trình tinh bột và thuỷ phân protein, do tác động của hai loại enzyme có nhiều trong malt là amylaza và proteaza. Còn có sự hoạt động của các enzim khác cũng giữ moọt vai trò không nhỏ trong sự chuyển hoá nguyên liệu là :

+ Enzym phosphatase: enzyme này phân huỷ các hợp chất phosphate tạo thành acid phosphoric rất quan trọng trong sự hình thành tính đệm của môi trường (nhiệt độ tối ưu 480C, pH=5.2).

+ Enzim sitaza: enzyme này thuỷ phân pentozan.

- Ngoài ra còn những biến đổi không liên quan đến các hoạt động enzyme như: 

+ Phản ứng trao đổi giữa các muối trong nước và các muối trong nguyên liệu.

+ Sự tạo thành các melanoid (do các acid amin tác dụng với các chất đường ở nhiệt độ cao) tạo mùi vị cho bia.

+ Sự tạo tủa lắng protid (do các protid kém chịu nhiệt tủa xuống).

1.7 – Lọc dich đường 

  • Lọc là quá trình tách dịch đường ra khỏi bã. Để thu kiệt chất hào tan từ bã sang dịch đượng, quá trình lọc sẽ tiến hành theo hai bước: lọc để tách dịch đường ra khỏ bã và rửa bã.
  • Lọc được tiến hành trên máy lọc khung bản, nhiệt độ dịch lọc 760C vì nhiệt độ này là yêu cầu tối ưu về độ nhớt và tạo điều kiện cho α-amylaza tiết tục hoạt động, tốc độ lọc phụ thuộc vào mức độ nghiền malt, mức độ phân hủy malt, cấu tạo màng lọc . . . Ngoài lớp nguyên liệu lọc, bã malt và đặc biệt vỏ trấu hình thành một lớp trợ lọc rất tốt .
  • Nước nha được bơm trải đều thành các lớp lọc trong máy lọc, các lớp cặn bã được giữ lại trên lớp bể lọc, chỉ có nước nha trong đi qua, chảy ra đường ống hứng và được bơm lên thùng trung gian. Lúc đầu nước nha còn được cho hoàn lưu lại. Sau đó tiến hành rửa bã, nước rửa bã là nước trong, nhiệt độ 75÷780C, nếu dùng nước nóng hơn sẽ làm enzym amylaza bị vô hoạt , tinh bột sót đã bị hồ hóa nhưng không đường hóa được, dẫn đến dịch đường bị đục và sau này làm cho bia khó trong. 

1.8 – Houblon hóa 

Từ thùng trung gian dịch đường được chuyên sang nồi đun. Sau đó nâng dần nhiệt độ nồi đun lên 960C, tiến hành cấp houblon lần 1 khoảng 1.509% (22.34kg houblon cao và 28.63kg houblon viên) tổng số gạo và malt. Đồng thời với quá trình cấp houblon lần 1, tiến hành nâng nhiệt độ lên 100.4oC và giữ ở nhiệt độ này trong suốt quá trình cấp houblon, thời gian cấp houblon lần 1 khoảng 50 phút. Trong quá trình cấp houblon được khoảng 45 phút thì bổ sung acid lactic để điều chỉnh pH. Đồng thời kiểm tra độ balling, nếu như không đạt 13o balling thì phải tăng thời gian đun sôi hoặc giảm bớt lượng nước rửa. Mục đích chính của quá trình houblon hoá lần 1 là:

 - Trích ly chất đắng, polyphenol, các hợp chất chứa nitơ và các thành phần khác của hoa houblon vào trong dịch đường.

- Làm ổn định thành phần của dịch đường, đưa dịch đường về nồng độ (13oballing), tạo cho bia có mùi vị của hoa houblon.

- Làm keo tụ phần lớn protein bất ổn định và các chất không hoà tan khác của dịch đường, tạo nên “tủa nóng” và lắng xuống đáy nồi đun sôi. Làm tăng độ bền keo và thành phần sinh học của bia được ổn định. Tuy nhiên, những chất chát (tanin) không bị oxy hoá cũng tạo thành phức với protein, tồn tại trong dịch đường dưới dạng “tủa nguội”. Đây chính là nguyên nhân làm cho bia thành phẩm bị đục.

- Vô hoạt toàn bộ hệ thống enzim và vô trùng dịch đường tạo điều kiện cho quá trình lên men.

- Quá trình đun sôi kéo dài xảy ra phản ứng caramen, tạo ra màu vàng đặc trưng cho bia vàng. Sau khi kết thúc quá trình cấp houblon lần 1, tiến hành cấp houblon lần 2 khoảng 0.1284% (12.84kg houblon viên) tổng số nguyên liệu gạo và malt. Thời gian cấp houblon lần hai rất ngắn chỉ khoảng 5 phút. mục đích chính của quá trình cấp houblon lần 2 là: trích ly tinh dầu trong hoa houblon viên. Vì trong quá trình đun sôi, phần lớn (77÷88%) tinh dầu sẽ bị khuyếch tán trong hơi nước và bay ra ngoài, phần còn lại có nhiệt độ bay hơi cao hơn, sẽ tồn tại trong dịch đường và sau đó tiếp tục mất đi trong quá trình lên men ( có thể đến 90 ÷ 96% ), tồn tại một lượng rất nhỏ ở dạng khá bền và gây cho bia mùi thơm đặc trưng.

Sau khi cấp hoablon lần 2 xong, tiếp tục đun sôi khoảng 20 phút nữa thì kết thúc quá trình hoablon hóa. Tổng thời gian houblon hóa là 75 phút, bao gồm 70 phút đun sôi và 5 phút cấp houblon lần 2.

1.9 – Giản đồ nấu

 

Hình 3.4. Giản đồ nấu bia

II.2 -  Phân xưởng lên men

2.1- Lắng trong và làm lạnh nước nha

2.1.1-  Lắng trong 

-Sau khi kết thúc quá trình đun sôi, nước nha được bơm sang thùng lắng cặn nhằm mục đích tách cặn và tủa nóng.  -Dịch nha ở 98OC được bơm vào thùng theo chiều tiếp tuyến sát thành thùng nhằm tạo ra lực xoáy hướng tâm, khi đó cặn và các chất không tan sẽ xoáy vào giữa thùng theo hình nón (thời gian cho quá trình bơm là 20÷25 phút). Sau khi bơm xong để lắng 25÷35 phút nhằm ổn định dòng xoáy và tạo điều kiện cho cặn kết tủa xuống. Sau đó tiến hành chiết rút. Thời gian chiết rút khoảng 25÷30 phút.  Hệ thống gồm hai thùng lắng có thể tích là 600hl.

2.1.2- Làm lạnh dịch nha

Mục đích: đưa nhiệt độ về nhiệt độ thích hợp cho quá trình lên men theo yêu cầu kỹ thuật đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình bão hòa O2. 

  • Phải tiệt trùng đường ống trước khi làm lạnh. Trước tiên cho NaOH (2÷2,5%) hoặc acid (0.5%) qua đường ống trước sau đó rửa lại thật sạch bằng nước sạch. Trước khi bơm dịch nha tiến hành rửa lại đường ống bằng nước nóng.
  • Nhà máy sử dụng thiết bị hạ nhiệt khung bản để làm lạnh nước nha

Hình 3.5. Cấu tạo thiết bị làm lạnh dịch nha

 

Máy gồm các tấm thép không gỉ ghép lại với nhau thành một khung, các tấm này có lỗ vào và các khe hở ở 4 góc để dịch nha đi qua các tấm cao su có cấu tạo đặc biệt, ở giữa các tấm tạo ra 2 phần đặc biệt: một phần dịch nha đi qua và một phần tác nhân lạnh đi ngược chiều với dịch nha. Máy được chia làm 4 vùng:     

+ Vùng 1: hạ nhiệt độ xuống 70oC, tác nhân lạnh là nước.    

+ Vùng 2: hạ nhiệt độ xuống 50oC, tác nhân lạnh là nước.    

+ Vùng 2: hạ nhiệt độ xuống 30o C, tác nhân lạnh là nước.    

+ Vùng 2: hạ nhiệt độ xuống 6÷8oC, tác nhân lạnh là nicol 

-Sau khi nước nha được làm lạnh theo đúng yêu cầu kỹ thuật được bão hòa O2 nhằm đảm bảo cho sự sinh trưởng và phát triển của nấm men. Hàm lượng bão hòa là 5÷6mgO2/l nước nha.

2.2- Nhân men giống  

-Quá trình nhân men giống nhằm chuẩn bị lượng men giống ban đầu cần thiết. Đồng thời hoạt hóa tính năng của nấm men

SƠ ĐỒ NHÂN GIỐNG MEN

 Hệ thống lên men trong phân xưởng

Trong nhà máy sử dụng hệ thống  gây men 2 bình:    

+ Bình nhỏ (bồn tank nhỏ): 430kg,ở áp suất 0,5atm    

+ Bình lớn (bồn tank lớn): 3200kg

- Nước nha nóng sau khi lắng cặn sẽ được bơm vào bình gây men nhỏ và được đun sôi đến 100oC nhằm mục đích thanh trùng cơ chất. Sau đó hạ dần nhiệt độ xuống 15oC và tiến hành cấy men giống. Giữ ở nhiệt độ này trong suốt quá trình gây men vì đây là quá trình thích hợp cho quá trình lên men và tạo điều kiện cho nấm men thích nghi dần với điều kiện lên men chính.   

+ O2 được cung cấp tự động và máy cung cấp O2 được cài đặt sẵn: cứ chạy 5 phút thì nghỉ 3 phút, mỗi lần chạy cung cấp khoảng 33g O2   

+ Bình gây men hoạt động ở áp suất 0,5atm   

+ Thời gian gây men trong bình gây men nhỏ khoảng 3 ngày - Sau khi gây men xong ở bình nhỏ sẽ được gây men ở bình lớn đã chứa 280kg dịch nha. Bình gây men lớn hoạt động tương tự như bình gây men nhỏ và sau 3 ngày sẽ được đem đi cấy vào bồn lên men chính.

2.3-Lên men chính

2.3.1- Mục đích 

Quá trình lên men chính nhằm chuyển hóa đường trong dịch nha thành ethanol, carbondioxide cùng với các sản phẩm phụ và sản phẩm trung gian từ quá trình trao đổi chất của nấm men.

2.3.2-Phương pháp lên men

 - Nhà máy sử dụng phương pháp lên men gián đoạn. Đây là hình thức lên men cổ điển và có tính truyền thống, dễ thực hiện, dễ kiểm soát và dễ điều hành vì đã có nhiều kinh nghiệm được tích lũy. Đặc biệt sử dụng phương pháp này chất lượng bia khá ổn định, ít gặp sự cố kỹ thuật 

  

1.Ống gắn đèn; 2.Van an toàn; 3.Ống thoát CO2;

4.Cửa kính quan sát; 5.Áp kế; 6.Nhiệt kế; 7.Lỗ chui người (làm vệ sinh) manhole; 8.Ống xả đáy;

9.Hệ thống làm lạnh; 10.Ống nước muối ra; 11.Ống nước muối vào

 Hình 3.6. Cấu tạo bồn tank lên men

 

- Thiết bị là một khối hình hộp chữ nhật bằng thép dày 5mm bên trong có tráng men và có hệ thống ống lạnh chạy xung quanh. Thể tích mỗi bình khoảng 330÷360hl.

2.3.3-Các biến đổi trong quá trình lên men chính

2.3.3.1-Biến đổi sinh học

-Giai đoạn sinh trưởng hiếu khí:  Đây là giai đoạn đầu của quá trình lên men. Ở giai đoạn này nấm men nảy chồi và phát triển rất nhanh, đạt cực đại là ở cuối ngày thứ 3 đồng thời là sự giảm nhanh nồng độ chất hòa tan trong dịch đường, nhiệt độ tăng dần và sự xuất hiện của nhiều bóng khí to phủ kín bề mặt dịch nha. 

-Giai đoạn sinh trưởng kỵ khí 

Trong giai đoạn này nấm men vẫn tiếp tục sinh trưởng nhưng trong điều kiện không có O2 và nồng độ đường thấp. Quá trình lên men bắt đầu chuyển từ kiểu lên men hiếu khí (để tang sinh khối nấm men) sang lên men kỵ khí (để tạo C2H5OH, CO2 và một số sản phảm phụ khác).

2.3.3.2- Biến đỗi vật lý

   * Nhiệt độ lên men 

- Trong quá trình lên men chính yếu tố nhiệt độ đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ lên men và từ đó ảnh hưởng đến chất lượng của bia non. 

- Nhiệt độ trong quá trình lên men tăng dần do quá trình trao đổi chất của nấm men kèm theo hiện tượng giải phóng nhiệt. Do đó, để đảm bảo nhiệt độ luôn ổn định người ta thường điều chỉnh nhiệt độ trong quá trình lên men một cách tự động. Việc điều chỉnh nhiệt độ lên men còn tùy thuộc vào đời men    

+ Đối với men mới luôn giữ ổn định ở 15OC    

+ Men thu hồi lần 1 sẽ giữ ổn định ở 12OC    

+ Men thu hồi lần 2 sẽ giữ ổn định ở 9OC    

+ Đối với men thu hồi lần 3 tới lần 8 sẽ giữ ổn định ở 8OC

Sau khi kết thúc lên men chính hạ nhiệt độ từ từ xuống 2OC nhằm tạo điều kiện cho quá trình lắng men và tạo điều kiện thích hợp cho quá trình lên men phụ.   

* Áp suất lên men 

Áp suất lên men tăng dần do sự tạo thành khí CO2 và từ quá trình chuyển hóa đường glucose. Do đó tank lên men có nắp thiết bị điều áp tự động.

2.3.3.3- Biến đổi hóa sinh:

   * Trong quá trình lên men diễn ra sự trao đổi glulcid ở tế bào nấm men chủ yếu bao gồm: 

- Sự thủy phân của các loại đường disacharide, trisaccharide,…thành glucose dưới xúc tác của một số enzym tương ứng như: maliase, invertase, melibiase,… 

- Chuyển hóa glycose thành etanol và CO2. Ngoài ra còn chuyển hóa các loại đường khác thành các loại rượu như propylic, izopropylic, amilic… 

- Sự tổng hợp vật chất tế bào từ glucose thành glucogen cũng có thể xảy ra trong quá trình sinh trưởng và phát triển của nấm men.  

 * Sự trao đổi lipid: 

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển hiếu khí thường kèm theo quá trình tổng hợp các acid béo và sterol ở nấm men. Các chất này là thành phần quan trọng của tế bào.   

* Sự trao đổi các hợp chất  nitơ: 

Các hợp chất nitơ có trong dịch nha gạo gồm: các phân đoạn protein (các polypeptide, peptid, pepton, acid amin), các muối amoni, các purite, nucleotide… Trong số các hợp chất  này thì các muối amoni vô cơ và các acid amin sẽ được nấm men sử dụng như nguồn cung cấp nitơ phục vụ cho quá trình sinh trưởng và trao đổi chất.

2.3.3.4- Biến đổi hóa học:

* Sự thay đổi hàm lượng chất khô trong quá trình lên men, nấm men sử dụng đường trong dịch nha để tăng sinh khối và lên men ethanol. Do đó nồng  độ chất khô trong dịch lên men sẽ giảm dần. Người ta dựa vào sự thay đổi Balling làm thông số điều khiển quá trình lên men. Độ Balling trước quá trình lên men là 130 Balling (Độ Balling nguyên thủy). Tùy theo từng loại bia mà kết thúc quá trình lên men chính và lên men phụ có độ Balling khác nhau.   

* Sự thay đổi pH:  Sau khi kết thúc quá trình lên men chính pH giảm xuống còn khoảng 4,4÷4,5. Hiện tượng giảm pH trong quá trình lên men là do sự hình thành acid H2CO3 (do CO 2 sinh ra trong quá trình lên men hòa tan vào nước), sự vận chuyển ion H+ qua màng tế bào và hình thành nên các acid hữu cơ. Trong  quá trình trao đổi chất của nấm nem như acetic, acid, formic, acid lactic, acid citric …   

* Sự thay đổi hàm lượng khoáng chất trong quá trình lên men, nấm men đã sử dụng một số kim loại cần cho sự sinh trưởng và phát triển của nấm men như: Ca2+; Mg2+; Fe2+; Mn2+; Co2+; K+; Ni2+ và Zn2+. Dịch nha được xem là nguồn cung cấp các thành phần khoáng cần thiết cho nấm men. Vì vậy trong quá trình nấu dịch nha cần bổ xung thêm Ca2+ và Zn2+   

* Sự tạo thành các ester:

Các ester được tạo thành vào cuối giai đoạn lên men chính nhờ phản ứng ester hóa giữa alcol (chủ yếu là ethanol) và các acid hữu cơ sinh ra trong quá trình lên men. Các loại ester này tạo nên hương đặc trưng cho bia thành phẩm.

2.3.3.5- Biến đổi hóa lý:  

   * Sự hình thành bọt: 

Bọt được tạo thành trong quá trình lên men chính nhờ sự giải phóng các khí ở dạng không liên kết  đặc biệt là CO2. Do bản chất của dịch nha là hệ keo gồm các hợp chất có tính hoạt động bề mặt như protein, palyphenol, chất đắng…Các chất này tạo nên một lớp hấp phụ trên bề mặt các bóng khí do đó khí khó thoát khỏi bóng này và tạo thành bọt mịn. Những bọt này có xu hướng thoát lên trên bề mặt tạo nên sự khuấy trộn trong quá trình lên men.

   * Sự hòa tan khí CO2: 

Độ hòa tan của CO2 trong dịch lên men thấp hơn trong nước đồng thời hàm lượng CO2 sinh ra tăng nhanh cùng hàm lượng ethanol. Do đó, một phần CO2 tồn tại trong dịch men dưới dạng liên kết với một số thành phần khác như protein, ester. Phần CO2 còn lại có xu hướng thoát lên trên bề mặt tạo lên sự tự khuấy đảo dịch lên men. Ngoài ra sự tự khuấy đảo dịch lên men còn diễn ra bởi sự chênh lệch nhiệt độ  trong quá trình giữ ổn định nhiệt.

2.3.4- Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình lên men chính:

2.3.4.1-Tỷ lệ giống cấy: 

- Trong quá trình lên men chính, nếu tỷ lệ giống cấy quá thấp thì khả năng nảy chồi và thời gian đạt được tỷ lệ nấm men theo yêu cầu là quá dài, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển và trao đổi chất của nấm men từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả lên men và chất lượng thành phẩm. 

- Nếu tỷ lệ giống cấy quá cao dẫn tới tỷ lệ nảy chồi và tốc độ sinh trưởng tương đối thấp do sự cạnh tranh về dinh dưỡng nhưng tốc độ lên men lớn. Tuy nhiên trong trường hợp này cũng cho bia có chất lượng không tốt vì thời gian lên men ngắn, sản phẩm trao đổi bật 2 do tế bào nấm men sinh ra cũng thấp và sự hình thành lên những ester cũng thấp

- Do đó trong sản xuất bia tùy theo từng loại chủng men và đời men mà lựa chọn tỷ lệ cấy giống men thích hợp.

2.3.4.2- Điều kiện lên men:

   * Nhiệt độ và thời gian lên men: 

Nhiệt độ và thời gian lên men là 2 yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ  lên men và từ đó ảnh hưởng tới chất lượng thành phẩm.

- Đối với men mới nhiệt độ lên mem  luôn giữ ở 15oC; qua đời 2 là 12oC ; qua đời 3 là 9OC ; từ đời 4 tới đời 8 luôn giữ ổn định là 8oC.

- Thời gian lên men 7 đến 10 ngày còn tùy thuộc vào nhiệt độ và Ph lên men.   

PH dịch lên men

PH ảnh hưởng quan trọng đến hệ enzym nấm men, do đó phải theo dõi ph để theo dõi hoạt động trao đổi chất của nấm men. Ph của dịch nha trước khi lên men là từ 5,2÷5,6 và kết thúc quá trình lên men là 4,4÷4,5.  

  • Ảnh hưởng bởi oxy

Oxy là yếu tố rất cần thiết cho nấm men sinh trưởng và phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình lên men. Thực chất đây là giai đoạn lên men hiếu khí nhằm tăng sinh khối nấm men. Sự sinh tổng hợp một lượng lớn enzym nấm men là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới cường độ lên men.   

  • Áp suất bề mặt

Áp suất bề mặt của dich lên men ảnh hưởng trực tiếp tới mức độ bão hòa CO2 trong bia, tuy nhiên hợp chất này là yếu tố ức chế quá trình lên men do đó áp suất luôn giữ ổn dịnh ở áp suất 0,5atm và có bộ phận giảm áp suất do CO2 sinh ra làm tăng áp suất bề mặt dịch lên men.

2.3.4.3- Nồng độ sản phẩm lên men

 Sản phẩm chính của quá trình lên men là ethanol và khí CO2. Đây là những hợp chất ức chế các hoạt động sống của tế bào nấm men. Ở nồng độ thấp dưới 2% các hoạt động sống của nấm men vẫn xảy ra bình thường nhưng khi vượt quá 2% thì khả năng nảy chồi của nấm men bắt đầu giảm dần và khi nồng độ ethanol vượt quá 5% thì khả năng nảy chồi của nấm men chấm dứt hoàn toàn nhưng quá trình lên men vẫn tiếp tục xảy ra. Còn nếu nồng độ ethanol vượt quá 12% quá trình lên men bị đình chỉ hoàn toàn.

2.3.5- Thu hồi nấm men 

Sau khi kết thúc quá trình lên men chính hạ dần nhiệt độ xuống 2oC nhằm tạo điều kiện nhiệt độ cho quá trình lên men phụ và làm kết lắng nấm men xuống đáy thùng. Sau đó rút toàn bộ khối bia non chuyển qua bồn lên men phụ. Phần men dưới đáy thùng sẽ được chuyển qua thiết bị rây men nhằm mục đích tách men sống ra khỏi men chết (men sống thì hòa lẫn vào dịch còn men chết thì vón cục lại). 

Men sống được chuyển qua tank dự trữ và có bổ sung thêm chất kích hoạt men    α-acetolactate decarboxylase (α-ALDC). Hàm lượng bổ sung được tính theo công thức:

m=1,5*v (g)

v: thể tích tank chứa men

-Men sau khi thu hồi được mã hóa và trong thời gian 2 giờ phải đem đi sử dụng ngay, nếu chưa sử dụng ngay thì phải bảo quản ở 8oC.

- Men thu hồi trước khi đem đi lên men chính sẽ được đem đi kiểm tra tỷ lệ men sống  để xác định tỷ lệ cấy giống trong quá trình lên men chính tiếp theo.

2.3.6- Kiểm tra và vệ sinh thiết bị lên men chính

- Sử dụng oxonia Active (0,2%) để vệ sinh thiết bị nhân men giống và thiết bị thu hồi men. 

- Sau khi kết thúc quá trình lên men chính tiến hành vệ sinh tank lên men bằng NaOH 4% sau đó tráng rửa sạch bằng nước đã qua sử lý. Nếu như tank đó chưa sử dụng ngay thì ngâm formol để tiêu diệt vi sinh vật và trước khi sử dụng cũng sẽ được tráng rửa thật sạch bằng nước đã qua sử lý.

- Trước khi lên men cần phải lấy mẫu nước rửa tank để kiểm tra có bị nhiễm vi sinh vật lạ hay không và độ sạch của các tank.

2.4 - Lên men phụ

2.4.1- Mục đích:

Quá trình lên men phụ được tiến hành sau khi lên men chính nhằm chuyển hoá phần đường còn sót lại sau quá trình lên men chính để tạo thành CO2 và các sản phẩm khác. Ngoài ra, quá trình lên mên phụ còn góp phần ổn định hương vị và độ trong cho bia thành phẩm.

2.4.2- Những biến đổi trong quá trình lên men phụ:

Những biến đổi trong qúa trình lên men phụ cũng giống như biến đổi trong quá trình lên men chính. Trong đó, có những biến đổi rất quan trọng ảnh hưởng đến những biến đổi bia thành phẩm. Đó là sự chín của bia non kèm theo sự điều chỉnh các tính chất cảm quan của bia thành phẩm như: độ trong, độ bền, đặc trưng keo, màu sắc và hương vị bia.

  • Diacetyl:

Trong giai đoạn này, nấm men sử dụng Diacetyl làm cơ chất và chuyển hoá chất này thành aceton và 2,3-butadiol trong điều kiện kỵ khí. Quá trình phân huỷ Diacetyl phụ thuộc vào nhiệt độ, nhiệt độ càng lạnh thì càng chậm. Thông thường, giới hạn cho phép của diacetyl là ≤0,2mg/l thì mới được gọi là đã chín.

  • Acetaldehyde

Vì quá trình lên men phụ hàm lượng Acetaldehyde tiếp tục giảm xuống do hoạt động trao đổi chất của nấm men.

  • Các axít béo dễ bay hơi.

Sự tổng hợp các axit béo mặt ngắn (từ C4÷C10) sẽ bị đình chỉ trong giai đoạn đầu của quá trình lên mên phụ. Sau đó, nấm men sẽ kết nối các axit béo mặt ngắn thành triglycide dự trữ trong tế bào. Tuy nhiên, nếu quá trình lên men phụ kéo dài thì hàm lượng acid béo trong dịch lên men sẽ tăng do quá trình thuỷ phân glycide. Sự có mặt các acid béo này ảnh hưởng đến mùi vị của bia thành phẩm.

2.4.3 – Những biến đổi hoá lý:

  • Sự bảo hoà CO2 trong bia

Sự bảo hoà CO2 phụ thuộc vào nhiệt độ, áp suất và thời gian lên men phụ. Trong giai đoạn này, quá trình lên men ethanol vẫn tiếp tục diễn ra kèm theo sự giải phóng CO2 vào trong dịch lên men. Tuy nhiên, chỉ có 15% lượng CO2 tạo thành được hấp thụ trong bia, tồn tại ở dạng hoà tan hoặc liên kết với các thành phần khác của dạng lên men. 

Trong quá trình lên men phụ có những hợp chất không bền như este của acid cacbonic, chính những chất này làm cho CO2 thất thoát nhanh mỗi khi thay đổi áp suất đột ngột trong tank lên men. Acid cacbonic có thể liên kết với glycerin và glycol tạo nên các este và còn có thể kết hợp với các acid lactic, aceton, 2,3butylenglycal. Như vậy, trong bia xuất hiện nhiều dạng liên kết hóa học và hoá lý khác nhau của CO2. Do đó, CO2 sinh ra không chỉ tồn tại ở dạng khí, dạng hoà tan mà còn tồn tại ở dạng liên kết, ba dạng này có mối quan hệ qua lại với nhau.

Trong quá trình này, ta nạp thêm CO2 vào tank lên men phụ để đạt áp suất P=0,8÷1,13atm nhằm ngăn cản sự xâm nhập của vi sinh vật lại và tăng khả năng hoà tan của CO2 trong bia.

  • Sự tự trong của bia:

- Bia sau khi lên men chính chứa một lượng đáng kể tế bào nấm men và các hạt cặn mịn, các hạt này bao gồm -glucan, ß-glucan, pentosan, xác vi sinh vật và các muối oxalate calcium. Trong quá trình lên men phụ, dưới tác dụng của nhiệt độ thấp (2÷4oC) và áp suất P=0,8÷1,13atm, các hạt này có xu hướng kết hợp lại với nhau thành những hạt lớn và lắng xuống đáy bồn lên men. Ở điều kiện này, qúa trình đông tụ nhựa houblon, đông tụ các hợp chất tanin-protêin cũng diễn ra. Tế bào nấm men cũng chịu ảnh hưởng của nhiệt độ thấp, áp suất cao cũng từ từ lắng xuống đáy thùng.

2.4.4 – Điều kiện lên men:

Quá trình lên men phụ được thực hiện trong các tank lên men chính và được đặt trong hầm lạnh có nhiệt độ hầm 0÷2oC. Trong tank lên men không cần đặt hệ thống lạnh nhưng có đặt ống dẫn CO2, đồng hồ đo áp lực, van an toàn, đường ống nhập và tháo liệu. Nhà máy có khoảng 200 tank, làm bằng thép, bên trong có tráng men và có thể tích 350hl.

Nhiệt độ lên men 2÷4oC với áp suất P=0,8÷1,13atm.

Thời gian lên men: tuỳ thuộc vào từng loại bia mà có thời gian lên men khác nhau. Đối với bia xuất khẩu, có thời gian lên men 12÷15 ngày, còn bia Sài Gòn xanh 5÷7 ngày.

II.3 – PHÂN XƯỞNG CHIẾT

3.1 – Sơ đồ quy trình chiết bia chai.

 

3.2 - Thuyết minh quy trình chiết bia chai.

3.2.1- Chuyển két lên băng tải:

- Pallet chứa chai sẽ được xe vận chuyển tới băng tải và được băng tải đưa tới máy và két. Ở đây máy rã két sẽ bốc 4 két /1 lần  tới băng tải. Sau đó sẽ được băng tải vận chuyển tới  máy gắp chai.

 - 01 pallet chứa 40 két và 01 két chứa 20 chai.

 - Tốc độ của máy 20÷30 pallet /h.

3.2.2- Gắp chai :

Sử dụng máy Innopack để  tách chai ra khỏi két. Máy hoạt động dựa vào áp lực gió để hút chai ra khỏi két, mỗi lần hút được khoảng 80 chai, tương đương với 4 két.

Tốc độ máy trung bình khoảng 100÷1.500 chai/h.

3.2.3- Rửa chai:

Có 03 yếu tố chính trong quá trình rửa chai, đó là:

- Nhiệt độ.

- Chất tẩy rửa.

- Áp lực phun.

  • Nguyên tắc rửa chai:

Chai lần lượt đi qua nhiều vùng trong máy có nhiệt độ, nồng độ dung dịch NaOH và áp lực phun khác nhau:

- Vùng 1: chức năng chủ yếu là phun và rửa  chai.

- Sử dụng dung dịch xút 2% ở nhiệt độ 70÷80oC với áp suất phuan p=0,8÷1,5bar  (tuỳ theo lượng chai vào), trung bình là P=1bar. Thời gian qua vùng 1 là 10÷15 phút.

- Sau khi chai qua vùng 1, giấy bạc sẽ tác dụng với xút tạo thành khí bay lên còn nhãn sẽ được tách ra và được đưa ra ngoài.

- Vùng 2: còn gọi là vùng nhiễm xút:

Sử dụng nước ở nhiệt độ 60÷70oC với áp suất P=1÷1,5bar, thời gian qua khỏi vùng 02 khoảng 5÷6 phút.

Chức năng chính của vùng 2 là tẩy rửa bên trong, bên ngoài chai và tráng rửa xút.

- Vùng 3: 

Sử dụng nước phun ở nhiệt độ 50÷60OC và thời gian qua khỏi vùng 3 là 5÷6 phút

Chức năng chính của vùng 3 là rửa sạch xút.

- Vùng 4:  Vùng 4 hoạt động ở nhiệt độ 40÷50oC với thời gian qua vùng 4 là 5÷6 phút. Đặc biệt, trong vùng này sử dụng nước theo tiêu chuẩn của nhà máy. Chức năng chính của vùng 4 là tráng lại chai.

Tốc độ của máy rửa chai khoảng 30.000 chai/h với thời gian khoảng 25 phút.

3.2.4- Kiểm tra chai:

- Chai sau khi qua thiết bị rửa chai sẽ được băng tải vận chuyển tới máy kiểm tra chai, với những chai lạ (chai không phai là chai nhà may sử dụng), chai sứt mẻ hoặc bên trong còn vật lạ sẽ bị đẩy ra ngoài hệ thống. Sau đó chai tiếp tục chạy qua công đoạn kiểm tra cuối cùng (dùng đèn huỳnh quang soi và quan sát bằng mắt thường) để loại những chai lưng, cặn, tủa, không đạt tiêu chuẩn ra khỏi hệ thống trước khi vào hệ thống chiết rót.

3.2.5- Chiết và đóng nắp:

Chai sau khi qua công đoạn kiểm tra được dẫn qua một băng tải dài  trước khi vào các thiết bị khác với mục địch ổn định lưu lượng chai, tránh gây ngã, đổ vở chai. Trên bề mặt băng tải có các cảm ứng dò chai đổ và bề mặt băng tải được bôi trơn để giảm áp suất gây đổ chai.

Sau đó các chai sẽ được đưa vào thiết bị chiết. Tại đây bia được chiết theo nguyên tắc đẳng áp (dựa trên sự chênh lệch áp suất trong chai và trong bồn phân phối bia). Khi chai bắt đầu vào hệ thống, piston dập xuống, tiếp đó CO2 được xả xuống trước, khi áp suất trong chai đạt 2,2÷2,4 bar thì van bia tự động mở khoá, bia sẽ được chảy xuống xung quanh thành trong chai nhằm tránh sự tạo bọt và thất thoát CO2. Khi chai vừa ra khỏi hệ thống thì gặp một tia nước phun với áp lực mạnh nhằm đẩy không khí và bọt ra khỏi chai. Tiếp đó chai được vận chuyển tới thiết bị đóng nắp.

Nguyên tắc hoạt động của thiết bị đóng nắp:

Nắp chai được sắp xếp trong phểu, sau đó sẽ được di chuyển theo một hướng trong khuôn dập và đẩy từng nắp vào miệng chai. Đúng thời điểm đó, búa Piston dập xuống đóng chặt nắp vào cổ chai. Năng suất của thiết bị đóng nắp phải đồng bộ với năng suất của máy chiết khoảng 32.000 – 33.000chai /h. Trong qua 1trình chiết xuất, nếu như chai không đạt về độ bền dưới tác dụng của áp lực, chai sẽ bị nổ.

3.2.6- Kiểm tra thể tích bia:

Bia sau khi đóng nắp sẽ qua thiết bị kiểm tra thể tích, với những chai không đủ thể tích chưa đóng nắp hoặc quá thể tích quy định sẽ được đẩy ra ngoài. Bia trong chai này sẽ bị xả bỏ để lấy vỏ do mất CO2, tiếp xúc với không khí, còn với những chai quá thể tích  khi vào thiết bị hấp  chai sẽ bị nổ.

Trong nhà máy, lượng bia này không sử dụng lại vì không kinh tế, nhưng nếu máy gặp sự cố kỹ thuật với số lượng chai bị hư lớn sẽ đem đi hấp lại và lên men lại . Trung bình mỗi ngày nhà máy xả bỏ hơn 1.000 chai.

3.2.7- Thanh trùng

Thanh trùng được thực hiện bằng phương pháp thanh trùng Pasteur

Đơn vị thanh trùng là PU

PU = 1.393*e T-60*t

-  T : nhiệt độ thanh trùng ( oC)

– t : thờn gian thanh trùng ( phút) Thông thường bia được thanh trùng từ 15÷25PU nhưng trong nhà máy, bia thanh trùng ở 17÷18 PU. Ơ PU này diệt vi sinh vật và cho bia chất lượng tốt nhất.

  1. Mục đích : Quá trình thanh trùng nhằm tiêu diệt toàn bộ tế bào vi sinh vật (kể cả nấm men trong bia) giúp ổn định chất lượng sản phẩm, kéo dài thời gian bảo quản và thuận tiện cho người sử dụng.
  2. Các biến đổi trong quá trình thanh trùng.
  •  Vật lý : 

Sự thay đổi nhiệt độ trong thiết bị thanh trùng (4,6oC; 44,3oC; 50÷58oC; 62÷ 64 oC; 61÷63oC) làm xuất hiện gradien nhiệt độ.

- Sự thay đổi thể tích và tỷ trọng nhiệt độ.

- Sự thay đổi áp suất không khí trong chai theo từng vùng trong thiết bị thanh trùng.

  • Hoá hóc:

- Quá trình thanh trùng tạo ra các sản phẩm ứng trong bia như: phản ứng giữa đường và các acid amin hình thành nên các chất  làm cho bia có màu sẫm hơn, phản ứng tạo phức, phản ứng thuỷ phân, phản ứng oxy hoá.

  • Hoá lý:

- Quá trình thanh trùng có thể dẫn tới hiện tượng vẫn đục trong bia. Điều này phụ thuộc vào thành phần và hàm lượng protein trong bia, các hợp chất polyphenol, nhiệt độ và thời gian thanh trùng.

  • Hoá sinh:

- Nhiệt độ, thời gian và tốc độ phản ứng trong các vùng thanh trùng còn tuỳ thuộc vào sự thay đổi hoạt tính của enzyme theo nhiệt độ. Ở giai đoạn đầu của quá trình thanh trùng, nhiệt độ tăng dần. Khi đó, enzyme bắt đầu hoạt động mạnh làm tăng tốc độ phản ứng. Do đó, nếu như giai đoạn gia nhiệt và làm lạnh kéo dài sẽ làm thay đổi chất lượng sản phẩm.

  • Cảm quan:

- Quá trình thanh trùng làm thay đổi màu sắc, hương vị sản phẩm do sự hình thành hoạt chất mêlanoid.

3- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thanh trùng: 

* Thành phần và hàm lượng vi sinh vật

- Các loại sinh vật khác nhau sẽ bị tiêu diệt bởi chế độ nhiệt  khác nhau. Do đó, nếu có chứa nhiều loại vi sinh vật khác nhau thì chế độ xử lý phải nghiêm ngặt hơn về nhiệt độ và thời gian thanh trùng.

- Nhiệt độ và thời gian thanh trùng cũng ảnh hưởng bởi hàm lượng vi sinh vật, nếu hàm lượng vi sinh vật cao, thì nhiệt độ cao và thời gian dài hơn.

* Độ balling và độ rượu:

- Nếu độ balling và độ rượu tăng thì hệ số dẫn nhiệt tăng do đó thời gian thanh trùng giảm nhưng nhiệt độ không đổi.

* Phương pháp thanh trùng:

- Thời gian và nhiệt độ thanh trùng còn phụ tuộc vào kích thước và hình dạng vật liệu. Thể tích bao bì càng nhỏ và mỏng thì quá trình truyền nhiệt càng nhanh, do đó thời gian gia nhiệt ngắn hơn. Như vậy, bia sài gòn đỏ thời gian gia nhiệt sẽ ngắn hơn sài gòn xanh.

4- Nguyên tắc hoạt động của máy thanh trùng:

- Bia sau khi kiểm tra sẽ theo hệ thống băng tải đi tới thiết bị thanh trùng. Có hai hệ thống băng tải để đưa bia  vào hai ngăn của hệ thống thiết bị. Tại vùng 1, có tác dụng nâng nhiệt độ chai lên 34,6oC , tác nhân làm nước phun với áp lực 0,9÷1,5 bar, nước được phun dạng tia dàn đều từ trên xuống nhằm làm tăng khả năng tiếp xúc của nước với chai. Sau đó, chai tiếp tục qua vùng 2 để nâng dần nhiệt độ lên 44,3oC cũng với tác nhân gia nhiệt là nước. Sau đó chai tiếp tục qua vùng 3 để nâng nhiệt độ chai lên 55,1oC.  Sau đó nước cũng được tích tụ lại dưới bồn. Sau khi ra khỏi vùng 3, chai tiếp tục được vận chuyển đến vùng 4. Sau khi ra khỏi vùng 4, nhiệt độ chai tăng lên 62÷64oC, tuỳ thuộc vào số lượng chai mà nhiệt độ có thể dao động từ  62÷64 oC.

8 – Các công đoạn khác:

- Bia sau khi được thanh trùng sẽ được băng tải vận chuyển theo đường vòng nhằm ổn định lưu lượng chai trước khi vào thiết bị dán nhãn. Sau đó tiếp tục chạy qua thiết bị in date tới công đọan kiểm tra thủ công để lọai ra những chai dán nhãn bị lỗi. Chai tiếp tục chạy tới thiết bị chất két innopack để bốc xếp chai vào két, một lần bố xếp được khoảng 80 chai và tốc độ của máy khoảng 1000-1500két/h .

- Rửa két: sau khi đã tách vỏ chai ra khỏi két, két sẽ được băng tải vận chuyển theo đường riêng tới thiết bị rửa két. Máy phụ nước ở nhiệt độ 60÷70oC, với áp lực phun 2,5÷2,8 bar.

3.3 – Sơ đồ quy trình chiết bia lon.

3.4  – Thuyết minh quy trình chiết bia lon.

1- Rã lon.

Pallet sau khi được máy chất lên băng tải và được băng tải vận chuyển đến hệ thống nâng pittong. Tại đây, khi được công nhân vận hành nút điều khiển, pistong sẽ nâng lên một đoạn bằng chiều cao của lon. Khi công nhân nhấn nút gạt, thanh gạt sẽ gạt lớp lon trên cùng tới hệ thống băng tải. Ở lớp băng tải này có bề rộng tương đương với bề rộng của 18 lon/hàng, sau đó bề rộng băng tải giảm dần xuống còn 4 lon/hàng, giảm tiếp xuống 2 lon/ hàng và cuối cùng giảm xuống 1 lon/hàng.

Tốc độ trung bình của máy rã lon là 4 pallet/h, tương đương với 5940 lon/h.

2 – Rửa lon.

Lon được băng tải vận chuyển tới thiết bị rửa lon và được chuyển hướng nằm ngang ngay khi lon bắt đầu vào thiết bị rửa. Thiết bị rửa là hệ thống vời phun nước áp lực gồm 13 vòi phun. Sau khi ra khỏi hệ thống vòi phụ, lon sẽ được đổi chều quay xuống dưới nhằm làm róc hết nước ra khỏi lon. Nước sau khi rửa sẽ theo sẽ theo máng hứng đưa ra ngoài.

3 – Chiết rót, đóng nắp và thanh trùng.

  • Lon trước khi được băng tải vận chuyển tới hệ thống chiết rót sẽ được đổi chiều quay lên. 
  • Về nguyên tắc hoạt động của hệ thống chiết rót, đóng nắp và thanh trùng bia lon gần như hoàn toàn tương tự như hệ thống chiết rót, đóng nắp và thanh trùng bia chai.
  • Cấu tạo hệ thống chiết rót của pistong phù hợp với miệng lon.
  • Chiết bia lon cũng hoạt động dựa trên nguyên tắc đẳng áp nhưng áp suất nạp CO2 trong bia lon là 3 bar và áp suất của hệ thống chiết là 3÷4 bar.
  • Hệ thống thanh trùng bia lon gồm 9 vùng với nhiệt độ tương ứng từng vùng là:

 

 

1

2

3

4

5

6

7

8

9

Nhiệt độ cài đặt (OC)

33

39

47.5

62

62

60.5

48

41

35

Nhiệt độ hiện hành (OC)

37.3

41.1

46.4

61.9

61.9

60.5

45.9

40.8

35.7

 

Thời gian khi lon vào và ra khỏi thiết bị là khoảng 32 phút.

4 – Kiểm tra và in date lon.

 Bia lon sau khi ra khỏi thiết bị thanh trùng sẽ được băng tải vận chuyển tới thiết bị kiểm tra lon. Với những lon không đủ hoặc quá trọng lượng sẽ bị thiết bị tự động đẩy ra khỏi hệ thống. Đa phần nhưng sản phẩm loại này bị phồng nắp sau khi thanh trùng. Và với những sản phẩm này sẽ được tiêu thụ nôi bộ hoặc với số lượng lớn sẽ được đem đi xử lý lại. Với những lon đạt tiêu chuẩn sẽ đảo ngược quay đáy lon lên trên và được băng tải đưa tới thiết bị in date.

5 – Xếp hộp. Sau khi in date xong, lon bia sẽ được đảo quay trở lại và được băng tải đưa tới bộ phận xếp hộp. Ở bộ phận này luôn có 5 hoặc 6 công nhân đứng làm nhiệm vụ bốc lon vào thùng. Sau đó thùng được băng tải vận chuyển tới công đoạn đóng hộp và được in date hộp trước khi chất lên pallet để chuyển vào kho thành phẩm.

Sưu tầm và biên soạn bởi: Valve Men Team./.

Từ khóa » đại Mạch Trong Sản Xuất Bia