TỔNG QUAN VỀ NGHỀ SẢN XUẤT LỤA TƠ TẰM - Bá Minh Silk
Có thể bạn quan tâm
Để hiểu về lụa tơ tằm, chúng ta cần có cái nhìn tổng quan về nghề sản xuất lụa tơ tằm Việt Nam.
Hầu hết mọi người khi nhắc đến lụa tơ tằm, đều hình dung đó là một loại vải rất bóng, mềm và đẹp. Hình dung đó là đúng, nhưng chưa hiểu đầy đủ về lụa tơ tằm. Chính vì sự hiểu biết chưa đầy đủ này về lụa tơ tằm. Mà người tiêu dùng dễ bị lừa gạt bởi các loại vải có tính chất gần giống với tơ tằm. Từ đó dẫn đến tình trạng, người tiêu dùng hoang mang, không biết đâu là lụa tơ tằm, và lụa tơ tằm có những loại nào? Và lựa chọn loại nào thì phù hợp với mình.
Bài viết này sẽ tổng hợp những thông tin cơ bản nhất về nghề sản xuất lụa tơ tằm. Nhằm cùng cấp cho bạn một cái nhìn tổng quan về lụa tơ tằm, các loại sợi tơ tằm và ứng dụng của từng loại lụa tơ tằm.
Nghề nuôi tằm
Nghề nuôi tằm lấy tơ đã bắt đầu ít nhất là 5.000 năm từ Trung Quốc. Và được truyền bá dần đến các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn độ và Phương Tây. Riêng ở nước ta, nghề trồng dâu nuôi tằm cũng đã xuất hiện từ thời Hùng Vương.
Nghề sản xuất lụa tơ tằm được biết đến như trồng dâu nuôi tằm. Có 4 loại tơ tằm tự nhiên: tơ tằm dâu, tơ tằm thầu dầu lá sắn, tơ tằm sồi và tơ tằm tạc. Tơ tằm dâu chiếm 95% sản lượng tơ trên thế giới. Mặc dù có nhiều loài tằm nhả tơ, chỉ có loại tơ sợi được sản xuất bởi loài Bombyx mori (tiếng Latin: “sâu tằm của cây dâu tằm). Là ấu trùng của các loài sâu bướm tơ tằm dâu và một vài loài khác trong cùng một chi, được sử dụng trong ngành công nghiệp tơ lụa thương mại nhờ tính chất dễ chăm sóc và chất lượng sợi tơ tằm của chúng.
Đây là loài sâu tằm được thuần hóa từ loài hoang dã. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào con người và không có mặt trong tự nhiên hoang dã.
“Con Tằm”, về mặt kỹ thuật, không phải là một con sâu mà là ấu trùng của con ngài. Tuy nhiên, để cho đơn giản và nhất quán, chúng ta sẽ sử dụng từ con tằm trong suốt bài viết này.
Màu sắc trứng thay đổi theo giống tằm và thời gian phát dục. Giống độc hệ và lưỡng hệ kén trắng, khi mới đẻ, trứng có màu vàng đậm. Trong quá trình phát dục của trứng, màu sắc của trứng biến đổi như sau: Giống độc hệ và lưỡng hệ (trứng có nghỉ đông) trứng chuyển từ màu trắng sang màu hồng (sau đẻ 36-48 giờ). Rồi chuyển sang màu nâu đậm hay còn gọi là màu đen (sau đẻ 72 giờ).
Khi trứng chuyển sang màu nâu đậm thì trứng bắt đầu đi vào thời kỳ nghỉ đông và màu nâu đậm được duy trì trong suốt quá trình nghỉ đông của trứng. Người ta ứng dụng quá trình nghỉ đông của trứng để vận chuyển.
Giống đa hệ (trứng không nghỉ đông) thì trứng chuyển từ màu vàng sang điểm đen (trên bề mặt trứng xuất hiện một điểm đen). Sau khi đẻ 5-6 ngày, và cuối cùng toàn bộ bề mặt trứng có màu xanh xám (sau khi đẻ 9 ngày) gọi là trứng ghim.
Những quả trứng nhỏ bé của con ngài được ấp cho đến khi nở thành ấu trùng (con tằm). Trứng tằm muốn nở đều, tập trung, cần ấp nhiệt độ 25-26oC, ẩm độ 80-90%, ánh sáng tự nhiên. Chừng mười ngày sau, trứng tằm đổi từ màu trắng sang màu đen. Khi trứng ghim, cần bảo quản tối hoàn toàn 01 ngày để khi được tiếp xúc ánh sáng tằm nở đều.
Độ 3, 4 ngày sau, nở thành những con sâu nhỏ bằng đầu tăm, lớn bằng tăm xỉa răng, dài chừng1/2 cm, giống như đám sâu lúc nhúc có màu xanh xám đậm hay màu đen, có lông, có chân, có đầu, có miệng và có răng.
Giai đoạn cho tằm ăn
Tằm nở ngày nào được nuôi riêng ngày ấy. Trong thời gian đó chúng ngủ và lột xác bốn lần, mỗi lần được định danh thêm 1 tuổi.
Sau khi nở, tằm được đặt trong một lớp đệm như nong nia và ăn một số lượng lớn lá dâu non hay bánh tẻ. Dùng dao sắc thái thật nhỏ như thái thuốc lào rồi rắc nhẹ lên mình tằm. Khi nào tằm ăn hết thì lại rắc ngay lớp khác. Suốt ngày đêm chia khoảng 10 bữa. Lá dâu phải sạch, không được trồng gần ruộng trồng thuốc lào, ớt hay cây trồng khác.
Lá dâu mà có hơi mùi thuốc trừ sâu là coi như lá dâu ấy vứt. Tằm cũng có thể ăn Osage màu da cam là một cây họ dâu tằm hoặc rau diếp.
Tuy nhiên tằm ăn lá dâu tằm sản xuất tơ tằm tốt nhất, màu tơ đẹp nhất. Mỗi ngày còn phải vệ sinh, thay tằm. Vì chỗ tằm ăn còn lại những xơ lá và phân tằm. Phải giỡ tằm đem sang nong khác, rồi bỏ chỗ xơ lá và phân tằm đi, thứ này làm đồ bón cây tốt. Nuôi tằm vất vả ngày đêm, vì vậy dân gian xưa có câu: “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.
Tằm ăn như vậy bốn ngày thì mình vàng ra, nằm yên không ăn nữa gọi là tằm ngủ. Khi 90% tằm ngủ thì người nuôi tằm ngừng cho ăn. Tằm chuẩn bị ngủ, có màu bóng vàng, ăn ít dâu. Trong khi tằm ngủ, cần yên tĩnh, ánh sáng yếu, tránh gió lùa và động mạnh vào nong, đũi.
Tằm ngủ, ngưng ăn dâu, ít động đậy, đầu ngẩng cao, sau 20-24 giờ tuỳ theo mùa, lột xác, chuyển sang tuổi sau, tằm dậy. Tằm lột lớp da đen sì đầu tiên, trở nên màu xanh rất nhạt và lại bắt đầu ăn trở lại. Tằm dậy 95% thì cho ăn lại, bữa đầu tiên cho ăn lá dâu tươi, thái nhỏ hơn bữa thứ 2 trở đi. Lúc này vẫn phải thái lá dâu nhưng thái hơi lớn cũng được.
Sau bốn ngày nữa, lại ngủ, lại lột da, lại dậy ăn trở lại; lần này màu da xanh thêm và nhẵn chứ không có lông nữa. Lại ăn lại ngủ cùng thời gian như trước. Tức là ngủ ba lần rồi dậy ăn. Nuôi tằm con tuổi 1,2,3 có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả nuôi tằm lớn tuổi 4,5. Tằm lên hai, dài cỡ 1cm. Tằm lên ba, 1,5cm. Tằm lên bốn, cỡ 3cm, còn màu xanh xám. Tằm lên năm, trong thời kỳ ăn rỗi, cơ thể tằm lớn lên rất nhanh, 8,000 – 10,000 lần so với tằm mới nở, bằng đầu đũa ăn cơm, dài chừng 4,5cm.
Khi đến lần ngủ thứ tư, và cũng là lần cuối cùng trong đời tằm, rồi trở dậy thì tằm lớn gần bằng ngón tay út. Lần này gọi là tằm ăn rỗi. Lúc này thì rắc cả lá dâu hoặc cả cành nhỏ cũng không sao. Tằm ăn rất nhanh, rất khỏe. Người nuôi tằm chạy dâu bở hơi tai! Cả ngày cả đêm ăn đến 15, 16 bữa. Mỗi ngày phải thay tằm hai lần. Bận rộn nhất là thời kỳ này. Trong nhà tằm lúc nào cũng nghe tiếng rì rào vì hàng trăm răng tằm nghiến vào lá dâu. Tằm trở nên màu xanh lục thẫm rất đẹp, da căng bóng.
Tằm con có khả năng chịu được nhiệt độ cao, ẩm độ cao hơn tằm lớn và sinh lý cũng khác tằm lớn nên cần được chăm sóc chu đáo. Ngừng cho ăn dâu quá sớm trước khi ngủ, cho tằm ăn quá muộn sau khi dậy đều làm cho tằm đói, cơ thể suy nhược, tạo điều kiện cho bệnh phát triển. Tằm lớn cần nuôi dưỡng trong môi trường thông thoáng, không khí luân chuyển, trong sạch, tránh gió lùa mạnh và ánh sáng trực xạ.
Trong khoảng sáu ngày tằm ăn gần như liên tục. Sau khi phát triển đến kích thước tối đa của nó trong khoảng 6 ngày. Nó dừng ăn, thay đổi màu sắc, và nặng hơn khoảng 10.000 lần khi nó nở. Tuổi 5 cho tằm ăn dâu đầy đủ, sau 6-8 ngày tằm chín. Tằm chín da láng bóng, tằm ngưng ăn dâu, có xu hướng bò đi tìm nơi thích hợp làm tổ. Khi có ít nhất 1/3 cơ thể con tằm có màu trong suốt là thời điểm tằm đã sẵn sàng để đóng kén.
Đóng kén
Khi tằm chín vàng, được bắt lên né đóng kén, phải thật nhanh tay để tằm tránh khỏi cay mắt.
Né là tấm phên đan bằng tre, có những lỗ hổng vuông rộng mỗi bề độ mười phân. Nhặt tằm đã chín bỏ vào né, đem để ra chỗ hơi có ánh nắng. Khi tằm đang đóng kén, người nuôi phải “hong nắng” và “sưng sấy” sao cho kén khô, thơm. Để khi ươm tơ kén không bị tan, cho sợi tơ vàng óng, thuận lợi cho người ươm tơ. Thiếu ánh nắng, tằm làm kén không được đẹp. Vì trước khi nhả tơ làm kén, tằm đi tiểu lần đầu và là lần cuối trong đời tằm rồi mới bắt đầu làm kén.
Ánh nắng nhẹ làm khô nước tiểu tằm và kén sẽ có màu vàng đỏ rất đẹp. Trái lại nếu tằm chín phải ngày mưa, phải để né ở trong nhà thì kén có màu không được tươi, vì chất nước tiểu tằm thấm vào kén. Nhưng cũng chỉ canh để cho ánh nắng nhẹ thôi, nắng nóng tằm cũng chết mà không làm kén được.
Tằm tự gắn nó trên né để nhả tơ đóng kén trong khoảng thời gian 3-8 ngày.
Tằm có một cặp tuyến nước bọt đặc biệt được sử dụng cho việc sản xuất tơ. Chất lỏng protein trong suốt, nhớt được tiết ra qua các lỗ hở gọi là lỗ nhả tơ trên phần miệng của con tằm.
Đường kính của lỗ nhả tơ xác định độ dày của sợi tơ, được nhả thành một sợi dài liên tục. Chất lỏng đông cứng lại khi tiếp xúc với không khí và tạo thành một cặp sợi tơ protein. Các tuyến tiết ra một cặp một chất lỏng thứ hai gọi là sericin, một dạng sáp kết hai sợi tơ với nhau, bảo vệ sợi tơ và kén tằm.
Đều đặn trong vòng bốn ngày liên tiếp, con tằm xoay cơ thể của nó trong một chuyển động hình số 8 khoảng 300.000 lần. Nó xây dựng nên một cái kén và nhả ra khoảng một km sợi tơ rồi hoá nhộng hoàn toàn. Cái kén tằm được tạo ra để giúp con tằm chống đỡ ngoại cảnh bên ngoài và kẻ thù tự nhiên.
Tằm cả đời chỉ vất vả chăm lo cho việc ăn của mình. Kế đó là làm sao có được cái tổ kén vàng bền đẹp, bên ngoài là các sợi tơ óng mượt. Bên trong là một lớp vỏ mịn màng và không kém phần bền chắc. Để rồi đến cuối của vòng đời, tằm sẽ yên nghỉ một cách bình an trong đó. Kệ cho tạo hóa xoay vần “thành nhộng”. Cả vòng đời của tằm vất vả như thế đó.
Khi tằm chín vàng bắt đầu làm kén thì nó tròn và dài độ bằng ngón tay út. Khi nó làm kén xong thì tằm thu hình lại, ngắn còn bằng nửa ngón út, lột lớp da tằm ra trở thành con nhộng, mình tròn mập, thon hai đầu, không cánh không chân không mắt, chịu nằm tù trong kén.
Kén tằm có hai màu: trắng và vàng là do hai giống tằm khác nhau đóng kén. Giống tằm kén trắng cho sợi tơ dài hơn, mỗi kén kéo được khoảng 700 mét tơ. Tuy năng suất cao hơn nhưng không chịu được nhiệt độ mùa hè Việt nam. Giống tằm kén vàng là giống tằm truyền thống của người Việt. Kén cho màu đẹp nhưng năng suất thấp hơn, mỗi kén chỉ được khoảng 300 mét tơ.
Lúc này người nuôi tằm gỡ kén, kết hợp phân loại sơ bộ. Hầu hết sẽ được đưa đi ươm tơ ngoại trừ một ít kén to. Và đều được lựa chọn riêng ra để làm giống cho lứa sau. Kén nào nhỏ mà nhọn đầu là kén đực, tròn mà đầy đặn là kén cái. Độ 12, 13 ngày sau, kể từ khi tằm chín bắt đầu nhả tơ và làm thành kén thì nhộng biến thành con ngài. Ở trong cái kén được lựa làm giống, cắn thủng một đầu kén và chui ra ngoài.
Con ngài màu hơi trắng ngà, giống con bướm có bốn cánh. Nhưng cánh ngắn và nhỏ hơn cánh bướm, xòe ra hai bên, giữa là khúc mình tròn mập, thon hai đầu, ngắn bằng nửa ngón tay út, cánh và mình dính đầy phấn màu ngà. Con đực và con cái tìm nhau để giao phối. Ngài cái được đặt vào nơi để đẻ trứng và chết. Một vòng quay mới lại bắt đầu với chu kỳ đẻ trứng. Trứng nở ra con tằm và rồi lại nhả tơ, đóng kén, hóa nhộng, thành ngài.
Ươm tơ
Sau khi gỡ xong khỏi né, kén để ươm tơ được dàn đều trên nong để loại tiếp những kén bẩn, mỏng, thối, thủng đầu. Dụng cụ đựng phải cứng để kén nhộng không bị dập nát trong quá trình vận chuyển.
Kén tằm có phẩm chất tốt không nhất thiết phải có kích thước lớn. Mà cần mẩy, nhiều tơ, ít áo kén, dễ kéo tơ và kén phải đồng dạng về hình dạng và kích thước.
Từ khi bắt tằm chín lên né, độ hai ngày sau thì bắt đầu ươm tơ. Phải ươm trong vòng độ 10, 12 ngày là phải xong hết các kén đã đóng. Nếu chậm, ngài cắn kén chui ra là coi như mất hết, không ươm được tơ nữa vì sợi tơ bị cắn đứt.
Ươm tơ, là quy trình gia công kéo sợi tơ từ kén tằm thành sợi tơ tằm. Trong quy trình ươm tơ, người ta đem kén tằm nấu trong nước sôi, làm cho lớp keo tơ secirine tan ra một phần, kén mềm và dễ dàng rút thành sợi.
Khởi đầu, người ta thả những cái kén vào nồi nước sôi hay chảo miệng rộng, đảo kén thành từng nhóm nổi trên mặt nước. Tìm mối tơ gốc rút ra, cho quấn vào những con suốt, hình giống như lõi ống chỉ, xếp thẳng đứng thành hàng ngang, rồi cho chạy vào những guồng tơ tròn bằng gỗ, nằm bắc ngang trên nồi nước sôi, để kéo hết tơ ở mỗi cái kén làm thành con tơ.
Phần còn lại, lớp trong của kén cũng cho vào guồng ươm tơ quay vào ống lấy tơ nõn màu vàng nhạt, là sợi nhỏ phía trong của kén. Sợi tơ này gồm hai sợi nhỏ, tiết ra từ cặp tuyến tơ ở tằm chín và dán chặt vào nhau, được bao phủ bởi một lớp keo (sericin ), người ta tẩy sạch lớp keo này khi kéo tơ.
Khi kén được lấy hết tơ, những con nhộng tằm lộ ra. Nhộng tằm là món ăn ngậy, béo và bổ dưỡng rất được ưa chuộng.
Kén cắn tổ, không thể ươm tơ thì được kéo thành sợi đũi. Sau đây là cách kéo sợi đũi trong dân gian Việt nam: Kén đem ngâm vào nước 3 giờ, vắt sạch nước, nước ngâm. Và vắt từ nước kén ra gọi là nước cốt, nước này phải giữ lại để sau ngâm kén lần nữa. Bỏ kén vào nồi đun sôi vài phút, thấy kén thâm đều là được.
Kén luộc xong, vắt kiệt nước thả vào nồi nước cốt, ngâm một đêm thì kén chín, kén chín vừa kéo trơn và nhẹ tay. Kén sống rất khó kéo và rất nặng tay, kén chín quá thì sợi nẫu ra thành một cái búi rác, không kéo được. Người kéo sợi ngồi trên ghế sợi và thấp.
Trước một cái chậu sành đầy nước và kén, hai tay ngâm trong nước để kéo sợi. Kéo sợi không dùng một công cụ trung gian nào dù đơn giản như đôi đũa, một tay giữ kén, một tay kéo, thuận tay nào kéo tay ấy.
Kéo xong một mẻ dùng giằng sợi cuộn lại thành từng con, cho lên sào phơi, mỗi con sợi tương đương một lạng. Thành phẩm này được dệt thành lụa đũi, Lụa đũi to, xốp, mềm, nhẹ. Lực lượng kéo sợi đũi toàn là nữ giới, cụ già 70 – 80, mắt còn tinh thì kéo được.
Kéo sợi trông đơn giản nhưng vất vả và khó hơn ươm tơ. Hai tay ngâm nước suốt ngày này qua ngày khác. Mùa hè nước ăn tay, phải thường xuyên xát phèn chua. Mùa đông tê cóng thỉnh thoảng phải đổ thêm nước nóng, kéo sợi dọc phải tinh mắt đều tay sợi mới nuột. Thợ lành nghề mới kéo được sợi dọc. Và để ra một thành phẩm nguời thợ không chỉ có những kỹ năng mà chứa trong đó cả cái hồn của nghệ thuật.”
Quá trình se sợi
Sau đó tơ nõn sẽ được se với nhau. Tùy theo tính chất, số lượng sợi và vòng xoắn để mắc cửi rồi dệt thành các loại hàng vải khác nhau.
Từ khi tằm nhả tơ cho đến lúc dệt thành vải phải trải qua nhiều giai đoạn: ươm tơ, lấy tơ, nhập tơ, guồng tơ, đánh ống, mắc cửi. Rồi nối cửi, rồi dệt.
Tơ tằm được cuộn lại thành những nén tơ hoặc ống tơ. Tùy theo chất lượng tơ, cách xử lý sợi tơ và cách xoắn sợi tơ, người ta sẽ có được những loại tơ với tên gọi và chất lượng khác nhau.
Cách gọi dân gian:
Sợi mốt: là sợi tơ to, dùng để dệt dọc để dệt không bị đứt.
Sợi mành: là sợi nhỏ, dùng để dệt ngang, lụa đều, không bị chỗ dày chỗ mỏng.
Sợi đũi: là sợi của kén cắn tổ, không ươm tơ được, xù xì, thô hơn.
Cách gọi theo phương thức se sợi:
Sợi đơn: là kết quả của quá trình xoắn 1 sợi tơ thô. Sợi được xoắn dạng này gọi là sợi nhiễu, mousseliness , hay là sợi the xoắn.
Sợi khổ: là sợi thu được từ quá trình xoắn hai hay nhiều sợi tơ thô. Những sợi tơ này được sử dụng để dệt ngang.
Sợi xoắn: là sợi khổ được xoắn chặt.
Sợi se 2 lần: 2 hay nhiều sợi đơn được se thành một sợi sau đó chúng được chập đôi bằng quá trình xoắn ngược. Phần lớn dùng để dệt dọc.
Các loại tơ lụa
Từ các sợi tơ ở trên, tùy theo cách dệt người ta có được những loại tơ lụa khác nhau.
Kiểu dệt cổ truyền của Việt Nam là phối hợp, pha trộn các loại sợi dọc và ngang. Để tạo ra những mặt hàng khác nhau. Người thợ khi dệt phải dùng tay đưa, chân dận cùng lúc.
Suốt là ống cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi để nhả sợi. Dụng cụ sản xuất căn bản là khung cửi gỗ “con cò“, dệt ra loại hàng vuông, thô, mỏng, chừng 40 hay 60 cm. Con cò đặt ở trên và chính giữa khung dệt để thẳng sợi, làm chuẩn cho cái go khỏi lệch. Những vuông lụa mới dệt xong gọi là lụa mộc, chỉ có màu trắng ngà hay vàng mỡ gà của tơ, được đem nhuộm sau.
Theo phương pháp thủ công, lụa mộc sẽ được ngâm trong nước trà, nước trầu không, nhựa cây. Rồi xả, nhuộm màu, phơi khô, nhuộm lại lần thứ hai để ra đúng màu sắc như ý muốn. Màu nhuộm được pha chế với nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên như: hột rành rành (Gardenia augusta, tiếng Hán là Chi tử), lá bàng ( erminalia catappa, tiếng Hán là Lãm nhân thụ) than, gạch.
Màu thông dụng là màu đen (thâm) và màu nâu. Người ta nhuộm nâu bằng củ nâu. Củ nâu đem về, gọt vỏ xắt mỏng, giã cho chảy nhựa, đổ thêm nước mà nhuộm. Nhuộm vài nước thì được màu nâu non, nhiều nước thì có màu nâu già (nâu đậm). Các loại lụa nhuộm cho màu gụ nâu. Nhuộm bằng củ nâu vừa bền màu lại vừa chắc sợi.
Ngâm nước bùn để có màu thâm. Màu tam giang là màu nâu tím. Người ta còn dùng cánh kiến (một loại sâu ở mạn Sơn La, Lai Châu) để nhuộm màu nâu đỏ. Có khi chuội (trụng nước sôi) lụa mộc để lấy màu trắng. Trong miền Nam dùng trái mặc nưa để nhuộm lụa đen Tân Châu (lãnh Mỹ A). Mặc nưa được trồng nhiều ở Campuchia. Cây cao vài ba thước. Lá nhỏ, hình thuẫn, xanh láng. Trái giống như trái olive, khi còn sống màu xanh, khi chín chuyển màu đen.
Ngày nay, kỹ thuật nhuộm hiện đại đem lại cho lụa tơ tằm những màu sắc đa dạng và rực rỡ hơn. Nhưng dù sao trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt, những màu sắc mộc mạc thiên nhiên vẫn được ưu ái quay về tìm kiếm.
Với bàn tay tinh tế và sự sáng tạo không ngừng của người dân Việt Nam. Các sản phẩm dệt ra từ tơ tằm rất phong phú, đa dạng như: lụa, là, gấm, vóc, vân, the, lĩnh, băng, sa, xuyến, đoạn, nhiễu, đũi, cấp, kỳ cầu.
Làm ra đủ các thứ hàng: Hàng đơn, hàng kép dọc ngang tinh tường. Lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương. Đoạn, vân, gấm, vóc, sa, băng, kỳ cầu .
Những mặt hàng có nền dày gồm: – Gấm: Nền dày, bóng như xa tanh. Nền gấm thường có những hoa văn, chữ triện hay chữ thọ với sắc màu tươi, sặc sỡ bằng kim tuyến, ngân tuyến được dệt như thêu. Một tấm gấm thường có nhiều màu, phổ biến là năm màu: xanh, đỏ, tím, vàng,trắng hay bảy màu, gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi ngang (tạo hoa nổi lên trên) và sợi dọc (tạo nền chìm ở dưới) đều được nhuộm màu nên khi có ánh sáng, đứng ở mỗi góc cạnh khác nhau, ta sẽ thấy mình gấm có các màu sắc khác nhau.
Gấm có vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ nên ngày xưa dân thường không được dùng, chỉ có vua, quan mặc được mà thôi. Vua mặc gấm vàng có hai rồng chầu mặt nguyệt hay hổ phù. Còn gấm may lễ phục cho các quan thường là gấm hoa tròn hay gấm hoa bạc. Có câu:” Dệt gấm, thêu hoa “.
– Vân: Là mặt hàng xếp thứ nhì sau gấm. Hàng vân có nền lụa, mỏng hơn xa tanh. Bao giờ cũng có hai kiểu hoa dệt trên một tấm vân: hoa nổi và hoa chìm. Hoa nổi bóng mịn, còn hoa chìm phải đưa lên ánh sáng mới thấy được. Đó là nét độc đáo của hàng vân, nhờ có hoa thủng như vậy, nên các áo lót bên trong sẽ nổi màu lên rất đẹp khi mặc áo ngoài may bằng vân. Vân được dùng dễ may áo dài mặc vào dịp hội hè, đình đám.
Những mặt hàng dày có số lượng sợi dọc nhiều là: – Lĩnh ( lãnh): Sợi mịn, một mặt bóng, một mặt mờ do khi dệt đưa sợi dọc lên nhiều tạo nên sự bóng loáng cho mặt hàng. Lĩnh thâm (đen) trơn rất thông dụng, dùng may váy, quần cho phụ nữ. Ngoài lĩnh trơn còn có lĩnh hoa dầy dặn, có điểm lấm tấm hoa mịn màng, kín đáo. Và có tên riêng là lĩnh hoa chanh. Nổi tiếng nhất là lĩnh Bưởi đen nhánh, óng mượt.
– Đoạn: Đoạn cũng được dệt theo cách thức của lĩnh. Nhưng dày hơn, sợi dọc nhiều hơn cả gấm. Đặc biệt sợi dọc, sợi ngang nổi đều nhau, mịn màng, óng ả. Đoạn dùng để may áo dài cho nam giới mặc vào những dịp long trọng. Do hàng đoạn dày nên người ta thường may áo đoạn bọc lụa bên trong mặc vào mùa lạnh.
– Vóc: Là một thứ đoạn mỏng, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu, dùng làm tán thờ thần hay may y phục cho vua chúa, quan lại. Vóc thường đi chung với gấm: gấm vóc.
Những mặt hàng dệt thủng (thưa): – The: Sợi dệt bóng và mảnh, sợi dọc rất ít nên the thưa. Dệt the là bố trí các sợi dọc và ngang không khít nhau, tạo nên hình thủng theo hàng ngang. The có nhiều loại: the đơn (mỏng), the kép (dầy), và the hoa. The được nhuộm thâm để may áo mặc bên ngoài. Hay chuội cho trắng để mặc mùa nóng, nổi tiếng nhất là the La Cả.
Đối với dân thường, áo the được coi là sang nhất và rất phổ biến. Những hàng the dùng may y phục tế lễ gọi là hàng địa, thường có hoa văn đặc biệt như: song hạc, hổ phù, thủy ba gợn sóng
Sa, xuyến, băng cũng tựa như the, là các loại hàng mỏng, bóng và bền. Vì khi giặt không bị xô dạt sợi, dù mỗi mặt hàng mỗi vẻ khác nhau.
– Sa: Sa được dệt rất mỏng nên trong suốt, tạo nên những đường vân óng ánh rất đẹp nếu mặc áo trong màu trắng. Sa mỏng và mát nên thường được mặc vào mùa hè. Có sa đơn và xa hoa. Xa hoa có nhiều loại: đặc biệt là sa thất thể và sa cung đình. Dùng may áo long bào cho vua mặc vào mùa nóng.
– Xuyến ( quyến ): Xuyến như sa, có cát nổi ngang, mỏng hơn the trơn. Và thoáng trông tựa mành mành do sợi dầy xen lẫn sợi thưa. Xuyến mắc hơn the.
– Băng: Cũng là mặt hàng thủng, trong suốt, có hoa lác đác, nhẹ hơn the.
– Cấp: Mỏng gần giống như the, lượt và thường có hoa.
– Lượt: Mặt hàng dệt thưa, mỏng, mịn, rất mềm, dùng may khăn, áo.
– Lương: Có lương đơn và kép, dùng để may áo dài, làm khăn.
Các sản phẩm dệt khác: – Lụa: Có hai loại: lụa trơn và lụa hoa , dệt bằng tơ nõn sao cho sợi dọc và sợi ngang khít với nhau. Tạo nên vẻ mịn màng, óng ả và độ dày vừa phải. – Là: Cùng họ với lụa, dệt bằng tơ nõn, có những đường dọc nhỏ đều. Thường được dùng làm khăn màu hay nhuộm màu để làm các phần đổi màu trong y phục.
– Nhiễu: Là thứ lụa dệt bằng sợi đã se nên mặt nổi cát như hàng crêpe ngày nay, dùng làm khăn.
– Kỳ cầu: Là thứ lụa bóng có hoa nhỏ, nền mịn và đều.
– Đũi: Được dệt từ tơ trong cùng của kén tằm, hơi thô, cũng dày và bền như nái. Nhưng mềm và mịn hơn. Đũi nguyên thủy óng màu vàng chín của kén tằm. Đũi thì có loại trơn, loại hoa và đũi thọ hỉ. Đũi mộc mạc, thoáng, mát mùa hè, ấm áp mùa đông, dùng may quần, áo và thắt lưng. – Sồi ( chồi ): Dệt bằng tơ gốc, thường dùng may yếm, khố, bao. – Nái: Được dệt bằng sợi kéo từ vỏ kén bên ngoài nên thớ to, có nhiều lông và cục sần. Thường có màu vàng đậm, cứng nhưng rất bền. Nái dùng làm khăn, may thắt lưng.
Ngày nay với kỹ thuật dệt tiên tiến và các kỹ thuật mới giúp khắc phục được khuyết điểm dễ nhăn, dễ hỏng của tơ tằm. Người ta sản xuất nhiều loại vải lụa tơ tằm khác nhau, phục vụ cho đủ mọi yêu cầu trang phục:
Chiffon: lụa chiffon tơ tằm mỏng tang, trong mờ, mềm mại, có sự mềm mại, dịu dàng, ấm áp, tinh tế. Ngoài sản phẩm thông dụng là hàng màu trơn. Hiện nay có rất nhiều mặt hàng lụa chiffon in hoa văn mới lạ. Và đẹp mắt với nhiều kích thước, thích hợp với nhiều loại trang phục.
Habotai: đục nhẹ, mỏng, nhẹ tơn, rất mềm mại và mát dịu. Rất nhẹ nhàng và tạo sự thoải mái dễ chịu cho khách khi sử dụng. Nên lụa Habotai cũng được dùng để may áo kiểu dùng cho mùa hè hoặc áo dây, áo ngủ .
Satin: óng ả và mềm mại, bóng đẹp. Lụa satin tơ tằm rất nhẹ nhàng, mềm mại, rút mồ hôi, mát mẻ vào mùa hè, lại không tích điện dính sát vào người vào mùa đông. Bên cạnh các màu trơn, lụa satin còn được in nhiều hoa văn phong phú đem lại sự lựa chọn dễ dàng cho khách hàng. Để may áo cưới, trang phục hàng ngày, thời trang và trang trí nội thất.
Twill: có độ bóng vừa phải, dày dặn và độ rũ cao hơn lụa habotai. Mà vẫn mềm mại, mát rượi, phù hợp với mọi lứa tuổi. Tạo cảm giác nhẹ nhàng thoải mái khi mặc, không gây khó chịu, kích thích da nên thích hợp mọi trang phục thời trang.
Organza: hơi cứng hơn Taffeta nhưng thưa và mỏng hơn và có thể nhìn xuyên suốt. Sử dụng thích hợp nhất là các sản phẩm may mặc hoặc trang trí cho áo cưới hoặc đầm dạ hội sang trọng.
Taffeta: có độ bóng, độ cứng, “ đứng mình”, lại không bám da vào mùa đông. Nên phù hợp để may áo cưới, áo vest, áo khoác, váy ngắn, quần tây. Hay kết hợp với các loại chất liệu khác để may sản phẩm thời tr,ang công sở, dạo phố.
Tussah: còn gọi là “Đũi thô” là sản phẩm được dệt từ những sợi tơ thô của con tằm. Đũi có bề mặt hơi khô nhưng có độ bóng nhẹ nên thích hợp cho sản phẩm áo sơ mi nam , áo vest hoặc quần tây.
Jacquard: mềm mại, nuột nà, óng ả. Bên cạnh màu sắc tươi trẻ, đa dạng, óng ánh đặc trưng của tơ tằm. Các hoa văn phong phú trong kỹ thuật dệt hoa văn chìm đem lại sự lựa chọn đa dạng cho khách hàng để may áo dài, trang phục thời trang, trang trí nội thất.
Damash: là loại vải dày dặn, có độ mềm vừa phải, mềm mại hơn Taffeta. Nhưng có độ bóng và ánh màu như satin. Có nhiều kiểu hoa văn lạ thích hợp may áo vest, quần tây, áo dài, cravat…
Để có được vải tấm lụa sang trọng, mềm mại, cần đầu tư biết bao nhiêu công sức và thời gian. Chất liệu thiên nhiên tuyệt vời này đem lại cho chúng ta sự thoải mái, an toàn, dễ chịu khi sử dụng và xứng đáng để chúng ta trả giá cao để sử dụng chúng.
Nguồn: Internet
Xem thêm sản phẩm khăn lụa nhuộm màu tự nhiên tại đây. Xem các mẫu sản phẩm lụa tơ tằm tại fanpage: Lụa Tơ Tằm Bá Minh
Từ khóa » Hình ảnh Dệt Tơ Tằm
-
Ngàn Năm Sóng Lụa Tằm Tơ
-
Thăm Làng Nghề Hơn 400 Năm Tuổi Lụa Tơ Tằm Mã Châu
-
12 Kiểu Dệt Lụa Tơ Tằm Phổ Biến, Có Thể Sản Xuất ở Việt Nam
-
Một Số Làng Lụa Tơ Tằm Nổi Tiếng ở Việt Nam
-
Lụa Tơ Tằm Việt Nam – Tinh Hoa Văn Hóa Dân Tộc
-
Lụa Tơ Tằm Việt Nam – Giá Trị Tinh Hoa Văn Hóa Người Việt
-
Lụa Tơ Tằm Việt Nam Tỏa Sáng Trong Vai Trò Sứ Giả Ngoại Giao
-
[Photo] Nghề ươm Tơ, Dệt Lụa Làng Cổ Chất Nổi Danh ở đất Thành Nam
-
Nghề Dệt Lụa Tơ Tằm - Định Hướng Tương Lai Từ Nền Tảng Truyền Thống
-
Quy Trình Sản Xuất Lụa Tơ Tằm Như Thế Nào - Xưởng áo Thun Atlan
-
Quy Trình Sản Xuất Lụa Tơ Tằm Diễn Ra Như Thế Nào?
-
Lụa Tơ Tằm - Ninh Khương
-
Lụa Tơ Tằm Là Gì?Kháp Phá Chất Liệu Lụa Tơ Tằm