Top 6 Bài Phân Tích Tây Tiến Của Quang Dũng Hay Nhất

(13 mẫu) Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng hay nhấtPhân tích bài thơ Tây TiếnTải về Mua tài khoản Hoatieu Pro để trải nghiệm website Hoatieu.vn KHÔNG quảng cáo & Tải tất cả các File chỉ từ 69.000đ. Tìm hiểu thêm Mua ngay Từ 69.000đ

Phân tích Tây Tiến - Quang Dũng

  • 1. Dàn ý phân tích Tây Tiến
  • 2. Sơ đồ tư duy phân tích Tây Tiến
  • 3. Phân tích bài thơ Tây Tiến
  • 4. Phân tích Tây Tiến lớp 12
  • 5. Phân tích tác phẩm Tây Tiến
  • 6. Phân tích đoạn 1 Tây Tiến
  • 7. Phân tích khổ 2 Tây Tiến
  • 8. Phân tích đoạn 3 Tây Tiến
  • 9. Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến
  • 10. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến
  • 11. Phân tích đoạn cuối của Tây Tiến
  • 12. Bài phân tích Tây Tiến đạt điểm cao
  • 13. Phân tích bài thơ Tây Tiến ngắn gọn
  • 14. Cách mở bài bài thơ Tây Tiến hay
    • 14.1. Mở bài Tây Tiến - Mẫu 1
    • 14.2. Mở bài Tây Tiến - Mẫu 2
    • 14.3. Mở bài Tây Tiến - Mẫu 3

Phân tích Tây Tiến của Quang Dũng - Tây Tiến là một thi phẩm tiêu biểu và đặc sắc của nhà thơ Quang Dũng khi viết về chủ đề người lính. Tác phẩm Tây Tiến đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Đặc biệt các dạng bài phân tích Tây Tiến khổ 1, phân tích Tây Tiến khổ 2, phân tích Tây Tiến khổ 3, phân tích đoạn cuối của Tây Tiến... đều là những dạng đề rất thường gặp trong các bài kiểm tra Ngữ văn cũng như đề thi tốt nghiệp THPT. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ tổng hợp mẫu phân tích bài Tây Tiến của tác giả Quang Dũng sẽ giúp các bạn học sinh có thêm tài liệu tham khảo khi học tác phẩm Tây Tiến.

  • 4 bài cảm nhận đoạn 3 Tây Tiến hay nhất
  • Top 5 bài phân tích đoạn 2 Tây Tiến hay chọn lọc
  • Top bài phân tích hình tượng người lính Tây Tiến chọn lọc
  • 4 bài cảm nhận về bài thơ Tây Tiến hay chọn lọc
  • Top 4 mẫu Phân tích Tự tình 2 hay nhất
  • Top 4 bài phân tích bài thơ Vội vàng
  • Phân tích Việt Bắc hay nhất

1. Dàn ý phân tích Tây Tiến

Dàn ý phân tích Tây Tiến

I. Mở bài

Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến.

II. Thân bài

1. Nỗi nhớ của Quang Dũng về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và Tây Tiến anh hùng

- “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”: Sông Mã là con sông quen thuộc của núi rừng Tây Bắc. Mở đầu bài thơ, Quang Dũng nhắc đến con sông này cho thấy nỗi nhớ của tác giả dường như đã trải dài khắp con sông Mã. Kết hợp với cụm từ “Tây Tiến” là chỉ một đoàn quân cùng với từ “ơi” lại vang lên thật trìu mến.

- “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”: cảm xúc chủ đạo của bài thơ, diễn tả nỗi nhớ đến trống vắng, hụt hẫng.

- Các địa danh “Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông”: gợi nhớ về những cuộc hành quân, để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi và heo hút.

- “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm: Những con dốc cứ dựng đứng giữa trời đầy nguy hiểm để rồi họ vẫn phải cố gắng vượt qua.

- “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”: Mũi súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao nhất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp tâm hồn người lính.

- Hình ảnh đoàn binh hành quân trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà nên thơ.

- “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”: tiếng thác nước dữ dội hòa với tiếng hú man dại, ghê gớm của thú rừng mang âm hưởng của đại ngàn.

- “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”: Người lính dừng chân bên xóm làng sau những đêm hành quân gian khổ, mùi thơm hương nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ.

2. Đêm vui liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo

a. Đêm vui liên hoan văn nghệ:

- gọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh phúc.

- Hai chữ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của người lính. Những cô gái Tây Bắc trong bộ xiêm áo đang múa điệu múa truyền thống trong.

- Tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn.

b. Bức tranh sông nước miền Tây Bắc hư ảo:

- Thiên nhiên Tây Bắc đầy thơ mộng: Khung cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dòng nước mênh mông, đầy hoang dại, huyền ảo.

- “Hoa đong đưa” vừa là hình ảnh tả thực: những bông hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên dòng nước lũ; vừa là hình ảnh ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc.

3. Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hy sinh mất mát

- Hình ảnh thật chân thực về binh đoàn Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: hóa chất bom đạn của kẻ thù đã làm cho mái tóc người lính không còn đẹp nữa, nhưng cũng có thể là người lính chủ động cắt tóc để thuận tiện cho sinh hoạt.

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”: màu xanh của lớp áo ngụy trang lẫn với màu xanh của lá cây, nhưng đó cũng được hiểu là khuôn mặt xanh xao của người lính khi bị sốt rét rừng.=> Sự khó khăn, gian khổ của người lính Tây Tiến trong hoàn cảnh chiến tranh. - Mạnh mẽ là thế, nhưng cũng có đôi lúc người lính cũng đầy thơ mộng

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”: đôi mắt đang theo dõi kẻ thù với sự căm giận và quyết tâm“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. nhớ đến những cô gái Hà Nội với vẻ đẹp thướt tha thanh lịch.

- Sự mất mát hy sinh của người lính:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: đó không phải là một cái chết mà rất nhiều cái chết.“Áo bào thay chiếu anh về đất”: hình ảnh “áo bào” chính là chiếc áo lính các anh đang mặc, “về đất” cách nói giảm nói tránh gợi sự hy sinh của người lính.Hình ảnh cuối cùng “sông Mã gầm lên khúc độc hành” là sự thành kính đưa tiễn các anh.4. Khái quát những ngày Tây Tiến và những kỷ niệm không thể nào phai

- “Tây Tiến người đi không hẹn trước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi”: sự ra đi mà không có lời hẹn trước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu cho tổ quốc.

- “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”: Gợi nhắc về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến không thể nào phai mờ.

III. Kết bài

Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến.

2. Sơ đồ tư duy phân tích Tây Tiến

3. Phân tích bài thơ Tây Tiến

Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên.... Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,

Nào có sá chi đâu ngày trở về.

Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:

Giã nhà đeo bức chiến bào

hay

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. "Nhớ chơi vơi!" diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao:

Ra về nhớ bạn chơi vơi

hoặc:

Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đọan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất, ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để diễn tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao cùa con đường Tây Tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:

Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!

Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.

Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên, vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.Lao xao sóng vỗ ngọn tùng

Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính Tây Tiến . Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh, người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình ảnh rất bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! Có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hiên ngang. Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.

Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc ười xanh.

Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: chiến đấu vì Tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.

Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.

4. Phân tích Tây Tiến lớp 12

Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy những năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời gian đáng nhớ nhất, để lại những dấu ấn sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc ấy đã được nhà thơ lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: Tây Tiến - bài thơ mang chứa gần như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng, để khi nói tới Quang Dũng là nhớ ngay tới Tây Tiến.

Đa tài là thế nhưng đời sống của ông vẫn luôn xoay quanh những câu chuyện bình dị, giản đơn. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang Dũng qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có thể nói để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ “Tây Tiến”. Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong mấy thập kỷ. “Tây Tiến” đã đưa tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật của người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.

“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể chưa được tiếp nhận ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần Phương đã dành những lời này để nói về hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng, bởi thơ ông được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương thép, chưa rắn rỏi như súng đạn nơi biên cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy mà vẫn được truyền lưu rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh chân thực, làm sao có thể ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho đến cuối năm 1948 thì phải chuyển đơn vị. Nỗi nhớ ngày một dâng trào và dòng cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh (Hà Tây). Về sau, bài thơ được chính tác giả đổi tên thành “Tây Tiến” và chính thức in lần đầu trong tập “Mây đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con trai mình là Quang Vĩnh về sự thay đổi này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để chữ nhớ là thừa, không cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, “Tây Tiến” nghĩa là đoàn quân tiến về phía tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng hơn nhiều, nỗi nhớ da diết hơn nhiều.

Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến cuộc vận động văn nghệ sĩ năm nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi dấu bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là Quang Dũng mở đầu một lời gọi tha thiết:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.

Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay còn được gọi là sông La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội cũ, bao giọt nước mắt ly tan hay vỡ òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài niệm, điệp từ “nhớ” lúc này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi nhớ, ta có thể hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vuu vừa lãng mạn trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ, “nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con đường hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo độc đáo, nỗi nhớ không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền ảo như một làn sương hoài niệm chẳng lúc nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trờiTương tư nâng lòng lên chơi vơi”Nhị Hồ – Xuân Diệu

Là một sự sắp xếp khéo léo hay tình cơ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”, “vơi” “hơi” cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở rộng chiều kích cho nỗi nhớ. phải chăng là một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu tâm tư để mời gọi, hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu của tôi đi, họ đã mạnh mẽ chiến đấu đến chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu thơ sau”

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều thấy được vẻ heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó khăn, thử thách chờ chực, ý chí người lính ra sao. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và “đoàn quân mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà đoàn quân Tây Tiến đã phải chịu, họ hành quân trong sương mù lạnh giá, sương giăng che lấp cả đoàn như phủ lên những tâm hồn mỏi mệt một lớp chăn mềm mại, chỉ là sao khắc nghiệt quá, một chữ “mỏi” mà khiến bài thơ như có hồn tâm sự. Cũng bởi vì một chữ “mỏi” mà bao cuộc tranh luận xảy ra giữa những người cầm bút giành lại giá trị chân chính cho tác phẩm. Khắc nghiệt là thế nhưng “hoa về trong đêm hơi” lại là một hình ảnh lãng mạn biết bao. Có người nói “hoa” ở đây là hương hoa rừng con vương vấn, có người lại cho rằng tác giả ví người lính là bông hoa thơm dịu, tinh khiết kia, kì thực có một chút không hợp. Nhưng nếu nói “hoa” trong bài thơ, là ánh sáng chập chờn, phập phồng của ngọn đuốc thì thực sự khiến hình ảnh thơ trở nên đẹp đẽ vô cùng. Đoàn quân trong đêm tối “đỏ đuốc từng đoàn” đi đến đâu tan sương đến đó, như những bông hoa đỏ trong đêm vượt màn sương nở rộ vậy. Một câu thơ mà vừa bi tráng, vừa lãng mạn, chỉ có thể là con triện riêng của Quang Dũng mà thôi.

Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài hòa chất hiện thực và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng khoáng của ông. Nói như nhà thơ Vân Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây qua đỉnh Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông chiến trận qua ngòi bút Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.

Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để khắc họa địa hình hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian khổ. Ngang tầm với núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ bảy chữ mà đến tận năm chữ được gieo thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi cheo leo, gập ghềnh. Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người lính vất vả, từng hơi thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ. Đảo ngữ một cách khéo léo đã giúp cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh đậm chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức ngập vào những cồn mây trắng như ngọn đuốc hiên ngang phía sau tàn sương mà chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng vừa thấy được sự tinh nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.

Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô cùng, vô tận của thế núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc dựng đứng, lên tận cao vót và đổ xuống rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao nhiêu là gian khó. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà nhìn lưng chừng sườn núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra một không gian xa và rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về phía xa, trong màn sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh tưởng phút chốc lại trở nên lãng mạn biết bao, đâu còn những khung cảnh trần trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một trong những bằng chứng thi trung hữu họa vô cùng đắt giá của Quang Dũng.

Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con đường hành quân của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp gam màu nóng lạnh đã gợi ra những nét vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ nhờ vậy mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện thực tàn khốc mà là lấy cái nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.

Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật tàn khốc của chiến tranh:

“Lúc nào tôi cũng nghĩ một ngàyBỏ súng về ôm những gốc câyTìm hốt hết thịt xương đồng loạiÔm thật đầy trên những cánh tay”Trong đêm mưa tiền đồn – Nguyên Dương Quang

Là những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước mắt chực rơi nhưng phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành những cảm xúc chân thành nhất để viết:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới vai kề vai mà quay đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “không bước nữa” để giảm đi sự đau thương của những người lính. Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm đang dần ngã xuống. Các anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở một tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn dành cho núi song vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt hướng về đồng đội lần cuối. Bom đạn mù mịt che đi những người mà anh yêu quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ, toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của âu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê Anh Xuân cũng có những câu thơ:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn NhấtNhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăngVà anh chết trong khi đang đứng bắnMáu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”Dáng đứng Việt Nam

Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng động đội vẫn tồn tại còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi ngày dài mà bộ đội đối mặt với gian nan nơi rừng núi Tây Bắc. Chiều cho đến đêm là lúc màn sương bắt đầu bao phủ, trời cứ thế tối dần mà không biết dưới chân mình là gì. Nhất là “tháng chạp màn sương trùm Đất Nước”, nguy hiểm chồng chất nguy hiểm, thế mà: “thác gầm thét” thử thách nỗi sợ của con người. Địa danh Mường Hịch được tác giả khéo léo đưa vào câu thơ, hai tiếng nặng trịch như tiếng chân hổ bước trong đêm. Hiện thực “hiểm ác” lại một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa của người dân Tây Bắc.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài niệm mãnh liệt về một vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân thật vừa trữ tình, cùng với mùi hương “thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã khắc họa tình quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân dân thì có lần Quang Dũng chứng kiến người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống, đồng đội anh lúc ấy bị thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang Dũng cầm súng trên tay để bảo vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em” đây là một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn quân Tây Tiến đối với những con người nơi đây.

Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với đó là nỗi nhớ da diết về những ngày tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi nhớ “chơi vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng định “nhớ ôi Tây Tiến” là cảm xúc chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước từng bước hiên ngang chẳng hề lo sợ.

Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo từ bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng với những âm thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần này là hoa chúc, hoa của ngọn lửa góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được sống hay không nên cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng với câu hỏi tu từ “tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những người lính, vừa ngạc nhiên, thú vị vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã gợi ra nét thanh thoát e thẹn ngại ngùng của những cô gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ thiêng liêng tiến về phía trước phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy mà “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung nhưng không làm mất đi tinh thần khí phách của người lính.

Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là một buổi chiều sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn bước qua nơi này tâm họ đang lặng để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời thơ ấu về một ánh mắt gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm trong sự hoài niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện những khoảng lặng như thế. Tác giả hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng định. Quang Dũng đã xuất sắc để người đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường trực trong tâm trí ông. Các cụm từ như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh sinh động hơn hẳn. Độc giả có thể hình dung cả vạn bông lau phất phơ theo gió như có hồn người tiễn chân các anh ra trận. Phía xa là những cô gái Thái với dáng hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc vượt qua dòng lũ sông Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn tình từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh thoát luôn tạo cảm hứng cho Quang Dũng

“Lá tím lá xanh đường gội nắngHoa vàng nhạt nhạt nhớ phiêu lưuLối đi khác khỏi lời chim nóiVe vãn tương tư mảnh gió chiều”Giang hồ – Quang Dũng

Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người đọc thế giới của cái đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến “ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”, chất thơ và chất nhạc được Quang Dũng hòa quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu du dương không cần người sướng. Nếu rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Và thơ của Quang Dũng thì vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.

Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng thêm phi thường, bi tráng

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùngMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức của nhà thơ, lại nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc phi-lô-dốp của mình. Các anh vừa tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của mình lắm. Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”? Vì các anh còn xông pha chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét mà rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện mạo mới chẳng còn dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu xanh lá ngụy trang trong lối đánh du kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của người lính chịu cơn sốt rét nhưng vẫn kiên cường.

Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành tựu văn cường bất khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ tợn, oai phong của “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về chiến tranh nhưng sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa cảm thương vừa khâm phục những người lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài thơ, sau khi dùng như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp theo là những câu thơ của một tâm hồn lãng mạn, tài hoa.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang tấc, tâm hồn họ lại nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng” vừa là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có thể hình dung về người lính trong những đêm nhớ nhà, nhớ quê, họ trằn trọc với tấm chân tình đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường hành quân ngày mai. Mặt khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của người lính, họ có thể ngã xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao giờ dập tắt được. Đều là những chàng trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên đi mối tình chóng vánh mới nở ở quê nhà yêu dấu để bước chân lên đường chiến đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới bảo vệ được người mình yêu, mới cho người mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc. Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám xuất hiện trong đêm mơ. Câu thơ có vậy mà đã gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức họ không cấm thanh niên họ đọc Werther mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ đọc Romeo et Juliette mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy mình thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” Hai câu thơ diễn tả tâm trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi nỗi nhớ qua biên giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ mong chiến thắng.

Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba đã khắc họa lên tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là một trong những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp Quả là không sai.

Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ trong giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên mình đó không còn sự bi lụy, thê lương

“Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”

Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương thì ngay lập tức được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở đầu câu thơ kết hợp với những từ Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm bức tranh nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt ngã và đau lòng. Đối mặt với bom đạn tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát thịt. Cuộc đời của những chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã phụ lòng chờ đợi của những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình cho sự nghiệp của Tổ quốc. Đúng, đó chính là tinh thần trong câu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng hay khói lửa cũng chẳng làm mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái chết

“Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu manh để che đậy. Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ vẫn được xem như những vị quan thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận nơi sa trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết vẫn trang trọng qua vần thơ của Quang Dũng.

Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ trở về đất mẹ sau một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa “sông Mã gầm lên” kết hợp từ Hán Việt “khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ đang hào hùng bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng. “Sông Mã cọp gầm”, ngay cả chúa rừng xanh cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi như dâng một khúc ca hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho khí thế đoàn quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì quê hương, vì trả thù.

Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân thực cái chết của người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách. “Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng).

Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng hồi ức:

“Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”

Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần quyết chiến của người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía sau. Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy “thăm thẳm” khiến ta bất giác rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra lời đanh thép như thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại, đồng đội vẫn tiếp tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ nữa. Ông dùng sự dứt khoát để dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh thần quyết thắng của cả toàn quân. “Mùa xuân ấy” hẳn là mùa xuân thành lập, mùa xuân hi vọng chiến thắng của đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị nhưng một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ, chẳng cần trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu hùng mấy thập kỷ, “Tây Tiến” vẫn luôn là một rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn lôi cuốn và những bí ẩn trong câu thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi và đọc lại bài thơ một lần nữa”.

Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang tầm chiến lũy”, cho thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá. Bản viết tay với những con chữ nguệch ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn nguyên, đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng núi Tây Bắc và những đêm ngày vất cả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy. “Hào khí của thời đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của hào khí ấy”. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế, sau này chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi tráng, kiêu hùng…

5. Phân tích tác phẩm Tây Tiến

Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn cả là bài thơ Tây Tiến.

Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà lãng mạn, yên bình:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nhà thơ gọi tên sông Mã – cong sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ “ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những nỗi nhớ niềm thương tha thiết. cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in dấu bao bước chân của đoàn quân Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nối nhớ không rõ nét, không xác định, khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:

“Ra về nhớ mãi chơi vơi”

Hay Xuân Diệu cũng từng viết:

“Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn, đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ mang chút gì đó bang khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương. Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dương như đang bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.

Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”

Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng: ‘những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như hình dung được thật rõ nết cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.

Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:

“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, “hao về” là một sự nhân hóa độc đáo khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm hơi” ta như hình dung ra một không gian lung linh huyền ảo của núi rừng nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nêm đẹp hơn, lộng lẫy hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tết, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ nết phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy, bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.

“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xống

Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”

Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bắc tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan, khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khửu” gợi những con dốc trắc trở gập ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữa biển mây, mũi sung chạm trời. Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ pháp nghệ thuật đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn thước…Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng thiên nhiên tây bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dương như tả cảnh nhưng để tô đậm tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.

Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo nên bởi hàng loạt thanh bằng:

“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”

Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nếp mình trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân, những người lính nhần thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.

Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính. Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ. Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên sung mũ bỏ quên đời”

Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng bts gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:

“Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng”

(Lê Anh Xuân)

Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”

Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc, thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc càng khắc nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang Dũng đẫ viết về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sụ thấu hiểu của một người từng trải.

“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội, nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi ma như vẫn còn tươi mới đây thôi.

Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo từ bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”

Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa,. Những người lính được chìm đắm trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.

Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ đẹp hào hung và hào hoa:

“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá giữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”

Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử dụng từ ‘đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.

Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc”, bệnh sốt rét đã làm cho tóc của những người linh không mọc được. “Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là mày xanh của lá ngụy trang hay bệnh sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.

Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt trùng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc..ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.

“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”

Giữa lúc thơ ca giai đoạn khánh chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt làm sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cương của tổ quốc có biết bao nấm mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô danh nhưng họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hung hơn ở những câu thơ tiếp theo:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tang, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một câu nói cửa miệng của người lính.

Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:

“chúng tôi đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20

Thì làm gì còn tổ quốc”

(Trường ca những người đi tới biển)

Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất

Tây tiến gầm lên khúc độc hành”

“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận. Thực tế những người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Duộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng khóc của con người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hung tử sĩ, một nghi thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là tiếng khóc của thiên nhiên, những già mà các anh đã làm mãi trường tồn.

Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.

Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương, sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống trong độc lập, tự do hôm nay.

6. Phân tích đoạn 1 Tây Tiến

Đâu là một tình yêu cho tổ quốc thiêng liêng, giữa hàng trăm thứ cảm xúc đang làm dao động trái tim mỗi con người? Có lẽ, lời hồi đáp ấy nên để mọi người chúng ta tự cảm nhận, tự hiểu và tự trả lời. Hơn ai hết, càng nghĩ ta lại càng thấu cho tình yêu đất nước của những người lính Tây Tiến trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng. Chính chàng trai xứ Đoài mây trắng năm ấy cũng là một thành viên trong đoàn quân. Hiểu cho sự mất mát, hy sinh của đồng đội, bài thơ ra đời như phần nào nói lên nỗi lòng tác giả và các chiến sĩ Tây Tiến.

Ngay tại đoạn mở đầu bài thơ, tiếng lòng của những chàng tuổi vừa đôi mươi đã thốt lên bởi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, dấu ấn kỷ niệm đọng lại qua câu chuyện đời bao tâm hồn yêu nước thầm lặng:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Một bài thơ viết về nỗi nhớ Tây Tiến, thế mà hai câu mở đầu của đoạn lại có ý nhắc về “sông Mã” trước nhất. Phải chăng dòng sông Mã uốn quanh nơi đại ngàn Tây Bắc là hình ảnh đã đi sâu vào lòng người chiến sĩ?

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Đây chắc hẳn là nơi đã gắn bó với các anh bằng những kỉ niệm đẹp nhất của thời trai trẻ, nơi mở đường cho những chiến dịch yêu thương, thắp cháy lên ngọn lửa của khát vọng tự do dân tộc hào hùng. Tiếng gọi nơi mái trường xin tạm dừng khép lại, dấu chân ai in dày trên những đỉnh núi cao, băng qua cánh rừng xanh những lá. Đoạn hành trình dài còn đó những gian truân, khó khăn và muôn vàn thử thách. Ở chốn xa, chỉ có tình đồng chí sống mãi, dìu dắt nhau vượt qua ngàn phong ba, bão táp.

Chính những hình ảnh tưởng chừng như bình thường ấy đã khiến các anh phải trở nên “chơi vơi” khi quay đầu nhìn lại. Thông qua cách sử dụng hai từ “chơi vơi” đặc biệt của tác giả, một nỗi nhớ da diết, triền miên được thổ lộ theo cách nhẹ nhàng nhưng khó phai nhất. Tâm tư kia như được khắc trong tim, được vẽ lên đá, tồn tại với thời gian qua nhiều dáng vẻ, hình thù khác nhau. Đồng thời, khi kết hợp cùng với từ cảm thán “ơi” ở câu trên càng nhấn mạnh nên một cảm xúc khó tả, một chút xuyến xao trong lòng của toàn đoàn quân Tây Tiến, trong đó có cả Quang Dũng.

Nếu như hai câu đầu của đoạn thơ sẽ là khúc dạo đầu của hồi ức kỷ niệm thì hai câu thơ tiếp theo có lẽ lại là những miêu tả về đoạn hành trình đã được lưu dấu:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”

Giữa những dãy sương mù dày đặc, giữa đêm gió rừng gào thét, đoàn quân vẫn miệt mài đi qua dù đang mỏi mệt, vất vả. Chút lãng mạn, nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm thâu nhận ra được hương hoa rừng lan tỏa. Bên cạnh mùi súng đạn tàn khốc, bên tiếng pháo, tiếng bom ngày đêm vang vọng, món quà nhỏ bé từ thiên nhiên ấy đã được các anh đón nhận thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” phảng phất hương thơm.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Nối tiếp những cung bậc cảm xúc ở phía trên, việc sử dụng những từ láy có tác dụng gợi hình như: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút của tác giả đã khắc họa nên bức tranh hành trình hiểm trở thêm phần sắc nét. Con dốc cao sừng sững ngất trời đầy gian nan, cách trở với đường đi quanh co, gập ghềnh khiến cho mỗi con người khi cất bước đi lên gặp nhiều nguy hiểm khôn xiết.

Ấy thế mà, dù băng qua gió, đi trong mây, nét hóm hỉnh của những chàng trai trẻ trong đoàn quân vẫn còn đó. Phải chăng phép nhân hóa “súng ngửi trời” kia của tác giả là minh chứng rõ ràng nhất trong bài thơ? Trước núi rừng hùng vĩ mây phủ quanh năm, giữa bộn bề nguy khó, sinh tử cận kề, tinh thần lạc quan của các anh vẫn luôn được gìn giữ. Cách gọi “súng ngửi trời” nghe sao thật ngộ nghĩnh, hồn nhiên, nhưng càng gọi lại lại càng thấy thương vô cùng. Thương cho cái gian truân, vất vả, thương cho bao gian khổ, khó khăn của chốn rừng thiêng nước độc mà những người lính trẻ xa nhà phải chịu đựng.

Là “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ngẫm phép đối mà mới hay cho cảnh sắc thiên nhiên nơi đất trời Tây Bắc, người ở dưới nhìn lên như chốn tiên lạc xa xăm, kẻ ở trên nhìn xuống mịt mờ mây và sương mù che kín. Những ngọn núi, đồi cao, quanh năm không dấu chân người qua lại, “heo hút”, trùng trùng điệp điệp nay đã có các anh đi qua, mang theo cùng mùi sương vị gió.

Tạm dừng những câu thơ kết hợp nhiều thanh trắc miêu tả cảnh dốc đồi, tác giả đã viết nên một câu thơ với vần bằng xuyên suốt hết câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một thoáng mênh mang đã tái hiện lên giữa cuộc hành quân, khi các anh dừng chân nơi ngọn đèo xa lạ, nhìn thấy bản Pha Luông cùng với những ngôi nhà. Tiếng “nhà” gọi lên nghe chiều bâng khuâng, làm xao xuyến mỗi tâm hồn, một tiếng khẽ thôi nhưng chứa nhiều nỗi man mác khôn nguôi, khó tả. Là vì lẽ đứng trước nơi chốn lạ trông thấy cảnh vật xa xăm mà gần gũi? Hay là vì nỗi nhớ nhà vẫn luôn gìn giữ nơi tim mỗi chàng trai Hà Thành cả một thời thơ dại chưa bao giờ rời xa mảnh đất cố hương?

“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Nơi núi rừng Tây Bắc hoang dã, là những ngọn núi ngất trời, những cánh rừng sâu đầy dã thú, con dốc cao sừng sừng cản bước chân người. Hành quân nơi địa hình hiểm trở như thế ranh giới của sự sống và cái chết thật thật mong manh và khó đoán. Đã có các anh phải kiệt sức vì chặng đường khắc nghiệt, gian nan, bỏ lại sau lưng chí hướng, những đồng đội trên đường. Thương những con người “dãi dầu không bước nữa”, để rồi “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bởi cái cảnh mưa ngàn, thú dữ, tiếng cọp hoang văng vẳng đêm đêm nơi xứ Mường Hịch, tiếc thác chảy thét gầm trong những chiều hoàng hôn phủ lặng…

Sau những chặng đường dài nguy khó, hai câu thơ cuối kết thúc đoạn một đã khiến người đọc cảm nhận lại được chút ấm áp, dịu nhẹ bên những kỷ niệm chan chứa tình người nơi các anh lính trẻ đi qua:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Gác lại phút trắc trở băng rừng, lội suối, các anh dừng lại, ngồi bên nhau quây quần nơi bản làng xa lạ nào đó. Mùi khói bếp xông lên xen lẫn tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng, nồng ấm tựa anh em một nhà. Là hương nếp xôi nơi đất Mai Châu đã giữ dấu ân tình, là buổi chuyện trò trong những bữa cơm ngạt thơm vị khói đã làm đậm nên những kỷ niệm không phai, khó mờ.

Chiến tranh đã trôi qua rất lâu, mỗi khi nhìn lại đó là những khoảng lặng, nốt trầm trong ta, để ta thêm biết ơn, thêm tự hào cho những người lính qua đoạn một bài thơ Tây Tiến nói riêng và và các chiến sĩ đã hy sinh vì dân tộc nói chung. Nhưng, với những con người ấy, những con người đã ngã xuống vì tình yêu đất nước thì đó lại là những quãng cao nhất, bản hòa âm phối khí tuyệt vời về tuổi trẻ và cuộc đời trong khúc ca đầy anh hùng của đời mình.

7. Phân tích khổ 2 Tây Tiến

Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.

Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng (người, vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hoa trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.

Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:

“Sương đầu núi buổi chiều như dội,Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”

(Chinh phụ ngâm)

Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:

“Ngàn lau cười trong nắngHồn của mùa thu vềHồn mùa thu sắp điNgàn lau xao xác trắng”.

(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)

Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.

Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.

8. Phân tích đoạn 3 Tây Tiến

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh. Nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc...........Sông Mã gầm lên khúc độc hành

“Tây Tiến” của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà “đời vẫn cứ tươi” như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành

Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như ‘tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:

Hoành sóc giang san cáp kỷ thuTam quan kỳ hổ khí thôn ngưu

Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:

Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩuThể diện sài long xâm lược quân

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông A.

Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:

Từ thuở mang gươm đi mở nướcNghìn năm thương nhớ đất Thăng Long

Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.

Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.

Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội

Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời

Trong Chinh phụ ngâm:

Hồn tử sĩ gió về ù ù thổiMặt chinh phu trăng rõi rõi soiChinh phu tử sĩ mấy ngườiNào ai mạc mặt nào ai gọi hồn

Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.

Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất". Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế:

Ở đây không manh vánChôn anh bằng tấm chănCủa đồng bào Cứa NgànTặng tôi ngày sơ tán

Chỉ có điều câu thơ của Quang Dũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.

9. Cảm nhận về bài thơ Tây Tiến

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, vẽ tranh, viết văn. Những tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn của con người hào hoa, lãng mạn, đầy trữ tình. Tây Tiến là tác phẩm tiêu biểu thể hiện cho phong cách sáng tác thơ ca của ông với hình ảnh người lính hào hoa nhưng không kém phần lãng mạn.

Tây Tiến được sáng tác vào thời kì đấu tranh ác liệt của dân ta năm 1948 và được in trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây Tiến và ngợi ca người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.

Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Tiến với một tiếng gọi từ hiện tại về đến quá khứ rất thân thương:

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,

Mường Lát hoa về trong đêm hơi."

Thán từ ơi được ngân dài tha thiết với thanh bằng gợi sự dịu êm. Nhớ chơi vơi chính là nỗi nhớ không thể định hình mà lại bâng khuâng bao trùm cả không gian, thời gian. Hai câu đầu của bài thơ tác giả nhớ lại về những gì thân thuộc trong trí nhớ về Tây Tiến. Một hành trình gian khó, nhọc nhằn, khó khăn hiện ra. Vùng núi Tây Bắc với nhiều địa danh nổi tiếng: Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu gợi lên những miền rừng núi hùng vĩ đầy hoang sơ. Nhà thơ ngắt nhịp 3/4 tạo nên sự phân định rạch ròi hai hướng lên xuống trên con đường hành quân Tây Tiến. Những từ ghép, từ láy giàu được sử dụng để đặc tả sự gian nan.

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời."

Khi chinh phục được tưởng chừng như con người đang bồng bềnh đứng giữa biển mây. Độ cao bầu trời chỉ còn trong tầm mũi súng. Độ rộng rãi thoáng đạt của không gian ùa tới. Ý thơ của Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí tâm hồn của người lính. Người lính Tây Tiến không bị chìm đi trước thiên nhiên khắc nghiệt mà lại như trỗi dậy đầy thử thách.

"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."

Chinh phục được đỉnh núi rồi ta lại phát hiện về độ cao “heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Cồn mây cho thấy mây núi chồng chất dựng lên thành cồn thành dốc, dốc núi cao đến mức con đường lẫn vào mây khiến con đường hành quân của càng cheo leo, phức tạp. Ngửi trời là cách nói vui đùa của người lính qua đó nhà thơ cho thấy tâm hồn trẻ trung không sợ khó khăn, vất vả của người lính.Giữa mạch thơ với cái dữ dội của thiên nhiên là một ánh nhìn bay bổng: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi, đây là một phép liên tưởng thú vị. Giữa núi rừng trùng điệp, ngôi nhà ấm áp hiện lên làm xao xuyến lòng người xa quê.

Giữa phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy là sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."

Núi rừng Tây Tiến đầy thử thách khiến chúng ta nghe thấy rõ ràng hơi thở nặng nhọc của người lính trên mỗi chặng hành quân. Họ là những gương mặt dãi dầu sương gió rồi cuối cùng “gục lên súng mà bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” diễn tả tất cả sự vất vả của các anh lính trên chặng đường chiến đấu. Người lính không thể tiếp tục bước đi cùng đồng đội. Bên cạnh đó Quang Dũng còn tả về sự ngang tàng, anh dũng của những người chiến sĩ không sợ quân thù.

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."

Kết thúc hành trình gian khổ là hình ảnh cuộc sống thanh bình, êm đềm.

Làn khói lam và mùi hương nếp xôi quyến rũ gợi về một cuộc sống yên bình đáng mơ ước. Mai Châu bỗng trở nên thân thuộc biết bao nhờ câu thơ và cách diễn đạt nỗi nhớ không thể của Quang Dũng: nhớ ôi Tây Tiến...

Tây Tiến thơ mộng, trữ tình dưới ngòi bút Quang Dũng:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,

Kìa em xiêm áo tự bao giờ.

Khèn lên man điệu nàng e ấp,

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."

Buổi liên hoan văn nghệ thật vui vẻ với ánh sáng rực rỡ của đêm hội đuốc hoa và bừng lên tỏa sáng trong cái nhìn ngạc nhiên của người chiến sĩ. Man điệu bí ẩn, say đắm, ngọt ngào làm mê hoặc lòng người. Vẻ đẹp của cô gái mềm mại, e ấp bên cạnh tiếng khèn rộn ràng. Người lính Tây Tiến chiêm ngưỡng say đắm vẻ đẹp của đêm văn nghệ với tâm hồn trẻ trung, vui vẻ.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?

Có nhớ dáng người trên độc mộc,

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"

Nhà thơ đang hướng cảm xúc của mình về miền tây sông nước. Dòng người mềm mại, duyên dáng băng băng trên độc mộc thể hiện sự lãng mạn trong hồn thơ Quang Dũng và vẽ được cái hư ảo của hoài niệm, sự tinh tế của tình cảm.

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,

Quân xanh màu lá dữ oai hùm."

Đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với tư thế oai phong "dữ oai hùm”. Tuy nhiên sự thật là người lính đang phải hứng chịu những trận sốt rét khủng khiếp trong hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men, vật chất. Đoàn quân ấy đang phải đối mặt với bao khó khăn, gian nguy, thiếu thốn.

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."

Giữa khung cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn giữ tâm hồn lãng mạn đã mơ về hình ảnh yêu kiều của người con gái Hà Nội. Giấc mơ về Hà Nội yên bình vô cùng bay bổng lãng mạn và cũng là động lực tinh thần cho đoàn quân Tây Tiến.

Khát vọng chiến thắng, sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến được thể hiện qua câu thơ:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành."

Khát vọng của họ là được ra đi và xả thân. Đó cũng là lý tưởng cao cả nhất trong cuộc hành trình gian khổ của người chiến sĩ. “Áo bào thay chiếu anh về đất” chỉ sự hy sinh cao cả của người lính. Con sông Mã gắn với tiếng gầm thể hiện cái chết oai hùng mang tầm sử thi.

"Tây Tiến người đi không hẹn ước,

Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."

Bài thơ kết thúc đầy xúc cảm. Đường lên Tây Tiến, đường đến với chiến thắng quả thật rất gian nan, thăm thẳm, xa cách và chẳng có một lời hứa hẹn chắc chắn nào. Nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính chắc chắn sẽ đập tan quân thù.

Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của người lính Tây Tiến.

Tây Tiến sẽ mãi là bài thơ lưu trữ những ký ức đẹp đẽ của dân tộc, của một thời chiến đấu để đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay.

10. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con sông Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy Quang Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến sống vô cùng thiếu thốn khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành, thuốc men ít ỏi, vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.

Những người lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước đây lấy tên là "Nhớ Tây Tiến”) để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu về một thời chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say.

Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử. Bài thơ được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ấy.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc những câu chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên "sông Mã". Câu thơ giống như một tiếng gọi tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác giả. Cái đặc sắc chính là ở ba chữ "nhớ chơi vơi", chữ "chơi vơi” làm cho người đọc có cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng người, một chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến tưởng như xa mà lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man và lại có sức ám ảnh khôn xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong những chữ "nhớ chơi vơi" ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần "ơi" tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương giống như một sợi tơ tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể hóa nỗi nhớ của mình.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi

Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở nên thân gần kì lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi "Quang Dũng lại điểm thêm vào đó hình ảnh "sương lấp", "hoa về", "đêm hơi". Rõ ràng là ở đây chất hiện thực đã đi liền với chất lãng mạn tạo nên nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.

Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những kỷ niệm còn tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh một thời gian khổ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trời

Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất những gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm nhận về một sự trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy. Nhưng cái hay của câu thơ chính ở hai từ láy "khúc khuỷu, "thăm thẳm", nó gợi cho người đọc những cảm nhận về một không gian được mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc như sẻ chia được cùng với người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ "heo hút" được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút, nếu “hun hút” gợi được độ sâu thì heo hút không giới hạn, từ heo hút không chỉ gợi ra độ sâu mà còn thêm cả cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của người lính Tây Tiến quả thực đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ "súng ngửi trời" được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh "đầu súng trăng treo" của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng lãng mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế và ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh "súng ngửi trời", câu thơ nói về những gian khổ vất vả nhưng lại làm sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện một chút dí dỏm tinh nghịch, một phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh, hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm chủ, khẳng định bản lĩnh của một chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của con người. Không những thế, hình ảnh một thời gian khổ còn được biểu hiện qua những câu thơ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hình ảnh "oai linh thác gầm thét" và "Mường Hịch cọp trêu người" là những dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây Tiến đã phải trải qua khoảng thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" trở thành một khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu trong tiềm thức của chính tác giả. Viết về những gian khổ của người lính, ngòi bút của Quang Dũng cũng ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:

Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời

Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của người lính được thể hiện qua hai chữ "dãi dầu". Tuy nhiên từ "dãi dầu" vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần của người lính trên đường hành quân, phải chăng vì thế hình ảnh của họ thấp thoáng bóng dáng của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua những chữ "bỏ quên đời" ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính lại được ngời sáng từ chính những hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó mặc nhưng hơn hết là một tráng trí anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh thì họ vẫn coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ cũng đầy lãng mạn, mê say:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một buổi liên hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua lăng kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật rực rỡ lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ "bừng" được dùng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó đuốc đêm hội mà là sự bùng lên của niềm vui, niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu con mắt như đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo tự bao giờ" — một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây ngất đắm đuối và say mê. Từ Hán việt "xiêm áo" tạo ra nét trang trọng, ở đây hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hóa. Những chữ "tự bao giờ" như không giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như hình ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc tưởng người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là huyền thoại, đây chính là sắc thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là hình ảnh của nhạc, của khèn, nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say, tiếng nhạc của tâm hồn như lan tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say và lãng mạn của người lính Tây Tiến còn được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hình ảnh của cơm lên khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn mà tha thiết như quyện chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thanh bằng, tạo ra một cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da diết khắc khoải cũng đủ làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về một thời mê say ấy, Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống như một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã xa vắng trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ không xác định, tưởng là vu vơ bất chợt nhưng lại cứ ám ảnh và khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế, câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc cao. Như vậy người chiến sĩ cũng chính là người nghệ sĩ. Cuộc sống kháng chiến không chỉ có gian khổ mất mát mà còn đẹp lung linh trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống này, cuộc sống đầy chất thơ và mộng này, đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao trong đời sống chiến đấu của người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc đã có sự chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã mê say chuyển sang giọng điệu trầm lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm ngậm ngùi:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó thấy dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh "chiều sương ấy", không gian như thoáng phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ "ấy" có ý nghĩa định vị về mặt không gian như muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho người đọc cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ gợi nhiều hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là những hình ảnh cụ thể chi tiết mà chi là dáng, là hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được nhìn qua lăng kính nhớ thương, không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực. Không phải miêu tả lâu mà là "hồn lau”, không phải miêu tả người mà là “dáng người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu “có thấy”, "có nhớ", Đây không chỉ là câu hỏi má còn giống như một lời gợi nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng người ấy đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử dụng các cụm từ "có thấy", ”có nhớ” còn là sự thay đổi về giác quan, không chi là cái nhìn mà còn là tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo, nó xuất hiện hình ảnh "nước lũ" đối lập với hình ảnh “hoa đong đưa": một bên là cái mạnh mẽ dữ dội, một bên là cái nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh "hoa đong đưa" không còn là hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả tâm trạng nỗi niềm của tác giả. Từ láy "đong đưa" khác với từ láy "đu đưa", nó không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như từ "đu đưa" mà còn là đầy tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt đầy hoài niệm mê say, đầy sắc thái lãng mạn và phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây Tiến chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng những chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem đến cho người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm

Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị "đoàn binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy lại lấy chính hiện thực gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh và tự tôn cho chính mình. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt "tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra hai vế đối lập: "quân xanh màu lá" với "dữ oai hùm", một bên là cái thiếu thốn khó khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến cũng là những người lắm mộng nhiều mơ, những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ đã tạo ra nét vẽ chân thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ "mộng" và "mơ”. Từ "trừng“được dùng khá đặc sắc, nó cho thấy bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy lòng đêu dâng cả lên trên ánh mắt. "Mắt trừng" chỉ một hành động mạnh, nhưng không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện những nhung nhớ, ước ao đến khắc khoải. Chữ "mộng" khiến cho câu thơ như bị trùng xuống, ẩn chứa xúc cảm bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu nhớ "dáng kiều thơm” nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, nó như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người "lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.

Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đì chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành

Cái độc đáo là nhà thơ viết về sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu thương bị lụy sự ai oán não nùng mà nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ chợt trầm và trùng xuống, nó giống như một thước phim quay chậm.

Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ của những kẻ chết xa quê. Nhưng những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với ánh mắt bình thản bởi họ chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm cái "Bi" thì câu thứ hai tô đậm nét "Tráng", "Hùng". Câu thơ thứ hai giống như một cái hất đầu ngạo nghễ của anh lính Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, dũng cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng. Tác giả mượn hình ảnh "áo bào" để gợi tả sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, giảm bớt nỗi buồn thương bị lụy. Nó tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như một sự sẻ chia đồng cảm của tác giả đối với những người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp lại xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân của lịch sử. Sông Mã tấu lên "khúc độc hành" – khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ "gầm" – biện pháp nhân hóa, nồi nhớ thương của lòng người như hóa thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. “Anh về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một thời mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp lại Tây Tiến:

Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi

Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ, nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt li, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới gặp lại. Người đọc cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ. Hai câu cuối, giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang lên đầy kiêu hãnh như một lời thề, lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.

Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người lính vô danh” – bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. Vì vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.

11. Phân tích đoạn cuối của Tây Tiến

Quang Dũng là người làng Phượng Trì ở Hà Tây nhưng ông chủ yếu sống ở Hà Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài vừa làm thơ, vừa viết nhạ, họa nhưng thành công hơn cả là lĩnh vực thơ ca. Thơ ông thường tinh tế, nhẹ nhàng, sâu lắng. Trong những tác phẩm mà ông viết, Tây Tiến là một trong những tác phẩm đặc sắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Đặc biệt khổ cuối bài thơ là lời hẹn và trở về với Tây tiến của tác giả đầy xúc động.

Đơn vị tây tiến được thành lập vào năm 1947 mục đích phối hợp với Lào để bảo vệ biên cương Lào – Việt, đích tiêu hao địch ở Thượng Lào để hỗ trợ cuộc kháng chiến những vùng núi khác trên đất Lào. Địa bàn hoạt động tây tiến khá rộng, tất cả đều là những nơi hoang vu, hẻo lánh, hiểm trở, núi cao, sông rộng, rừng nhiều thú dữ. Bộ đội đoàn quân Tây Tiến vô cùng vất vả, khó khăn với căn bệnh sốt rét, thiếu lương thực, gầy xanh lét, họ chết vì bệnh tật còn nhiều hơn vì súng đạn, thậm chí khi chết cũng không có manh chiếu để đắp. Tuy nhiên, đoàn quân tây tiến rất lạc quan, yêu đời, họ phần lớn là thanh niên hà thành vẫn giữ được cốt cách hào hoa, lãng mạng hào hùng.

Tác giả vốn là đội trưởng của đoàn quân tây tiến, sau khi tạm biệt đoàn quân và đến chiến trường khác theo sự phân công của cấp trên, ông đã rất nhớ đoàn quân tây tiến và sáng tác nên bài thơ này. Trong khổ cuối bài thơ là lý tưởng của đoàn quân tây tiến và ngày hẹn gặp lại.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,Đường lên thăm thẳm một chia phôi.

Người đi không hẹn ước chính là tinh thần tự nguyện và quả cảm của người lính tây tiến. Đã xác định ra chiến trường là không hẹn ngày về. Đã từng có một thế hệ như vậy, một thế hệ với lý tưởng cứu nước, tinh thần xả thân thật đẹp đẽ , thật thiêng liêng biết bao. Vì dân tộc, họ chấp nhận dâng hiến trọn vẹn mà không chút tính toán cho mình, họ sẵn sàng đi mà chẳng tiếc đời xanh.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng từng viết:

Người ra đi đầu không ngoảnh lạiSau lưng thềm nắng lá rơi đầy…

Sự ra đi quả quyết của họ khiến chúng ta phải ngưỡng mộ. Ở độ tuổi họ ra chiến trường có lẽ cùng chạc tuổi 18, đôi mươi, tuổi trẻ nhiệt huyết còn bao nhiêu điều tươi đẹp phía trước. Vậy mà họ vẫn đi dẫu biết “đường lên thăm thẳm một chia phôi”, dẫu biết phía trước là khó khăn, đến gần hơn cánh cửa tử thần, nhưng vẫn quyết tâm đi.

Hai câu thơ chính là hình ảnh bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Đường lên thăm thẳm chính là những khó khăn chồng chất khó khăn, đó là điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, thiếu thốn khiến cho hành trình gian nan vất vả hơn, đó là tử thần luôn rập rình khiến cho hi vọng trở về càng mong manh.

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Hai câu thơ cuois càng khắc sâu hơn tinh thần bi tráng, sẵn sàng hi sinh cho nghiệp lớn của đoàn binh tây tiến. Mùa xuân 1947, binh đoàn tây tiến được thành lập và cũng có thể là mùa xuân sáng lạn nhất của đất nước khi hòa bình. Đoàn quân tây tiến đã đi trong niềm hân hoan và hi vọng về lí tưởng của mình. Và dẫu cho hi sinh nhưng vẫn mang những nguyện vọng thật đẹp hòa vào núi sông để mãi mãi bảo vệ tổ quốc non sông.

Tinh thần của họ khiến ta liên tưởng tới những dòng thơ của nhà thơ Trần Bá Căn:

Có một thời để nhớ mãi trong tôiĐã tiến bước dưới quân kì quyết thắngBất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắngSúng chắc tay- thời đó mãi sao quên.

Đối với họ có một thời như thế đó, bất chấp bom đạn, hi sinh sẵn sàng ra chiến trường vì lý tưởng của mình. Và mục đích cuối cùng là đánh đuổi kẻ thù mang lại hòa bình cho dân tộc, gần hơn đó là mang lại sự bình yên hạnh phúc cho chính những người thân của mình.

Có một thời như thế và có những người lính đã như thế. Người lính Tây Tiến của Quang Dũng cũng mang lí tưởng như vậy, dẫu hi sinh vẫn dõi theo nhau, quyết không về xuôi, hòa mình vào núi rừng để luôn ở bên đồng đội.

Quang dũng đã sử dụng bút pháp lãng mạn để nói về lí tưởng và tinh thần hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến. Dưới ngòi bút của nhà thơ tài hoa, đoàn quần tây tiến được khắc lenen là tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí đồng đội thắm thiết của Quãng Dũng.

12. Bài phân tích Tây Tiến đạt điểm cao

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là tác phẩm tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Trong tâm trí nhà thơ, Tây Tiến là một vùng đất đầy ắp kỉ niệm nên mở đầu bài thơ là tiếng gọi thể hiện nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng ; gợi nhắc một địa danh đong đầy bao kí ức của đời lính. Sông Mã là nỗi nhớ đầu tiên của Quang Dũng. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt chặng đường hành quân, chứng kiến bao buồn vui, mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè của một thời chinh chiến.

“Tây Tiến ơi!” – câu cảm vang lên là tiếng lòng da diết gắn liền với bao kỉ niệm thân thương về đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ đó vừa cụ thể vừa gắn liền với địa danh Tây Bắc: “nhớ về rừng núi” : vừa xa xôi vừa không định hình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” tạo âm hưởng kéo dài, lan rộng, gợi mở một tâm trạng, cảm xúc vang xa đến mênh mông vô tận. Nghệ thuật sử dụng vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu được. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ. Ta bắt gặp ở đó con đường hành quân đầy gian khổ nhưng thật trữ tình nơi núi rừng miền Tây hùng vĩ, thơ mộng. Liệt kê hai cái tên: “Sài Khao”, “Mường Lát” xa lạ, Quang Dũng như gieo vào lòng người đọc ấn tượng về một vùng đất xa xôi, hoang dã.

Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” giàu sức gợi tả. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Chữ “lấp” là động từ mạnh gợi cảm giác về sự khắc nghiệt dữ dội của thiên nhiên. Đoàn quân đi trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi, rã rời.

Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” không chỉ gợi ra cái giá lạnh mà còn là một hình ảnh nên thơ. Đoàn quân Tây Tiến mất hút trong “sương lấp” rồi lại xuất hiện trong khung cảnh “hoa về trong đêm hơi” đầy lãng mạn. Chữ “hoa về” rất gợi, có thể là hoa đang nở, hương hoa đang dậy lên trong đêm; mà cũng có thể là bó đuốc trên tay người lính qua “đêm hơi” trở nên lung linh như hoa; cũng có thể hiểu – mỗi anh lính như những bông hoa đang về với bản làng.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây, súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Điệp từ “dốc” cùng cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” tạo thành hai vế gợi cảm giác những con đường dốc nối tiếp nhau. Dốc cao dựng đứng hiểm trở, dốc tiếp dốc, trùng điệp. Những từ láy tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt trong câu thơ nhiều thanh trắc góp phần miêu tả cảnh hùng vĩ, đầy hiểm trở của núi rừng miền tây. Con đường hành quân qua dốc núi vừa gập ghềnh, trắc trở; vừa cao vừa sâu hun hút, con đường như dài ra theo bao nhiêu nguy hiểm khó khăn, vất vả với “cọp trêu người” (“chiều chiều”, “đêm đêm”) và thác cao nghìn thước.

Các từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co, khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người) gợi hình ảnh những con dốc quanh co, gập ghềnh. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.

Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” cho thấy đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới.

Điệp từ “ngàn thước”, “lên” đối lập “xuống”, nhịp thơ 4/3 như tô đậm chiều cao, độ sâu và tạo một nét gãy đầy ấn tượng của núi đèo. Chiều cao và chiều sâu của dốc núi dựng đứng đã đặc tả được sự nguy hiểm đối với chiến sĩ. Dường như trong thế đứng hùng vĩ ấy, trong âm hưởng câu thơ có cả dáng mệt mỏi và nhịp thở đứt quãng nhọc nhằn của chiến sĩ Tây Tiến. Vất vả, gian lao nên không ít người đã mệt mỏi “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cách nói giảm làm dịu bớt đau thương – họ hi sinh như đi vào giấc ngủ thanh thản – nhưng cũng không che giấu bớt những gian khổ, nhọc nhằn đã vắt kiệt sức của các chiến sĩ. Tuy vậy, trên đỉnh núi cao, họ vẫn giữ cho mình cái nhìn, cách nói hóm hỉnh, vui tươi của một tâm hồn trẻ trung “súng ngửi trời”.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cái chết đậm chất bi hùng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” tả gian khổ, vất vả. Ba chữ “bỏ quên đời” gợi tâm thế ngang tàng, kiêu bạc, coi thường cái chết, coi thường hiểm nguy. Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính, chết không rời bỏ đội hình, đội ngũ.

Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Hai câu thơ gợi hình ảnh núi rừng hoang sơ, huyền bí. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều “gầm thét” hòa điệu với tiếng gầm của cọp beo “đêm đêm” hợp thành một bản hòa tấu rùng rợn vang động núi rừng. Điệp từ: “Chiều chiều, “đêm đêm” chỉ thời gian, sự lặp lại, nhưng còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến luôn phải đối mặt với những hiểm nguy ngày đêm rình rập, đe dọa.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hai câu thơ cuối gợi cảm xúc bồi hồi tha thiết. “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đậm tình quân dân. Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó gợi lên vẻ đẹp xuân tình, nồng nàn hương sắc, hương xuân của những thiếu nữ Mai Châu và còn hàm chứa trong đó là bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Câu thơ với nhiều thanh bằng như tiếng thở phào nhẹ nhõm, thanh thản sau khi vượt qua khó khăn. Từ đỉnh núi, ánh nhìn vươn dài theo cơn mưa rừng xa tận Pha Luông, không gian thơ mộng mở ra với những mái nhà thấp thoáng gợi tình cảm gia đình ấm áp, gần gũi; tiếp thêm sức mạnh vật chất và tinh thần cho người chiến sĩ sau chặng đường dài.

Cách nói “mùa em” vừa nhẹ nhàng, tình tứ vừa mới lạ, độc đáo. Tâm hồn lãng mạn, tinh tế của người lính Tây Tiến đang hòa một nhịp với những sinh hoạt bình dị và tấm lòng của người dân vùng cao dành cho chiến sĩ. Những bữa cơm đầm ấm tình quân dân, những bát xôi nếp thơm nồng kỉ niệm khiến câu thơ cuối khổ như một tiếng lòng da diết, khắc khoải của hoài niệm.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ .

Từ “bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” gợi không khí hạnh phúc, ấm cúng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Không chỉ thế người lính Tây Tiến còn mê say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ. Từ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, Thái, Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Câu thơ cuối tả độ phiêu du của âm nhạc, cái phiêu du của hồn người đang thăng hoa cùng văn hoá Tây Bắc – “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa

“Chiều sương ấy” là một buổi chiều đặc biệt, đầy kỉ niệm đáng nhớ. Từ “ấy” gợi thời gian hoài niệm, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói, gợi nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Lau lách vốn vô tri, không có hồn nhưng dường như nó đã nhuốm màu tâm trạng nên nó mang linh hồn người: “hồn lau nẻo bến bờ”.

Giữa không gian ấy, con người xuất hiện khoẻ khoắn, kiên cường. “Độc mộc” là một loại thuyền được làm từ thân gỗ lớn, dài. “Dáng người trên độc mộc” phải chăng là dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc đang đua chiến sĩ vượt sông hay dáng người kiêu hãnh, hiên ngang của người lính đang chèo thuyền tiến lên phía trước. Hình ảnh ấy càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.

Dòng sông Mã với Tây Bắc ẩn chứa biết bao dữ dội nay lại hiện lên “dòng nước lũ”: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai hai vế tiểu đối: “dòng nước lũ” tương phản với “hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” gợi ấn tượng sâu sắc. “Đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”, “đong đưa” vừa tả được chuyển động của hoa, vừa gợi được nét quyến rũ của hoa rừng Tây Bắc, vừa gợi cánh hoa rừng Tây Bắc cũng như quyến luyến con người. Điệp từ: “Có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc hoạ thêm nỗi nhớ bồi hồi, lưu luyến.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Quang Dũng dùng bút pháp hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính. Đầu tiên có thể thấy cái bi thương: Ngoại hình người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc”, da dẻ xanh như màu lá “quân xanh màu lá”. Đoàn quân trông thật kì dị. Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.

Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn đã làm nên cái chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”, câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui: không cần tóc mọc . Lại có thêm “quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẽ đều sắc, góc cạnh. Hình ảnh những “vệ túm”, “vệ trọc” một thời gian khổ được nói đến một cách hồn nhiên.

Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Cách dùng từ Hán Việt “đoàn binh” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong thơ Tố Hữu, của “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm”, gợi dáng vẻ oai phong lẫm liệt, người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu ý chí diệt thù.

Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn của chất lãng mạn của chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng, cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng của những người con gái Hà thành yêu kiều, diễm lệ.

Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu, anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành

Câu “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy.

Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Phép tương phản: chiến trường – đời xanh. “Chiến trường” là đạn bom, chết chóc, hi sinh, gian khổ. “Đời xanh” là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp tuổi trẻ, tuổi hoa niên. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh ” vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc. Bởi vì hơn ai hết người lính hiểu rằng: Không gì quan trọng bằng Tổ quốc, hai tiếng giản dị mà thiêng liêng đến vô cùng:

“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịtNhư mẹ cha ta như vợ như chồngÔi Tổ Quốc nếu cần ta chếtCho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

Chói ngời hơn nữa ở bức tượng đài người lính bộ đội Cụ Hồ là thái độ hi sinh. Quang Dũng viết về cái chết thật nhẹ nhàng như một khúc tráng ca:

“Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.

Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là sự trở về với đất mẹ, đất mẹ giang rộng vòng tay đón lấy các anh để từ đó:

“Người hi sinh đất hồi sinhMáu người hóa ngọc lung linh giữa đời”.

Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Cái chết không chỉ làm xúc động lòng người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Vì thế khúc độc hành của dòng Sông Mã như lời tiễn đưa các anh bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.

Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường lên thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Vì vậy, cái chết với họ nào có là gì khi hồn của họ đã hòa vào hồn thiêng sông núi, bay lên, bay lên mãi, “hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Dù chết, linh hồn họ vẫn theo đồng đội hành quân, chiến đấu. Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “nhất khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ vẫn hào hùng.

Với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, cách sử dụng từ ngữ đặc sắc, kết hợp chất nhạc và chất họa, bài thơ “Tây Tiến của Quang Dũng khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta.

13. Phân tích bài thơ Tây Tiến ngắn gọn

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư vang dư hình của nó thì vẫn luôn còn đó, sống mãi bên đời. Người ta sẽ chẳng thể quên “có cái chết đã hóa thành bất tử” khi gặp ở trang thơ Tố Hữu, càng không thể quên hình ảnh người chiến sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” đã in sâu trong thơ Chính Hữu. Tự bao giờ, người lính đã trở thành những tượng đài bất tử như thế trong thơ? Đi qua gian khó, bước tới vinh quang, những người lính Tây Tiến cũng trở thành những hình tượng “còn mãi”, “sống mãi”, “đẹp mãi”. Ta gặp lại họ trong những vần thơ thấm đẫm cảm xúc mà Quang Dũng gửi lại đoàn quân, cùng theo đó là bao nỗi nhớ…

Vốn là một trong những chiến sĩ của đoàn quân, Quang Dũng viết bài thơ bằng tất cả nỗi nhớ một người đồng chí, một người từng cộng khổ và sánh vai, chứ không phải của một người miền xuôi từng lên thăm miền ngược. Nỗi nhớ gửi từ Phù Lưu Chanh gọi về bao cảm xúc…

Nhớ về Tây Tiến, trước hết là nhớ về những tháng ngày đoàn quân ròng rã trên chặng đường hành quân. Nỗi nhớ trào dâng ngay từ những câu mở đầu:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Tiếng gọi thân thương đi cùng bước chân kí ức. Sông Mã – nơi chứng kiến và chia sẻ những buồn vui. Sông Mã – nơi đựng đầy những kỉ niệm và hoài ức. Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải rộng theo thời gian và ngút ngàn trong không gian, theo những cung đường Tây Bắc.

Hiện lên trong nỗi nhớ là bức tranh về núi rừng Tây Bắc vừa hoang vu, hiểm trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình. Cái hoành tráng dữ dội hiện lên ngay ở những cái tên mới mẻ lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch; ở những hình ảnh thiên nhiên độc đáo, lạ thường: sương lấp, cồn mây, heo hút, khúc khuỷu…Bằng lối diễn tả độc vận, lối phối thanh bằng trắc linh hoạt, Quang Dũng đã diễn tả thành công cái thế heo hút của đèo cao, cái thế mênh mang của mây rừng. Đọc những câu thơ, ta như mường tượng ra những nơi thâm sơn cùng cốc, nơi hang cùng thủy tận, nơi đoạn đường trúc trắc, nơi đèo cao gồ ghề mà đoàn quân từng đi qua. Trong câu thơ Quang Dũng viết: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ta nhìn thấy cả một dốc núi mở ra, hai miền không gian đối cực nới dài, cao chót vót và sâu khôn cùng. Những hiểm trở ấy của cảnh rừng từng có lần ta gặp trong thơ Thế Lữ:

Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây giàVới tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núiVới khi thét khúc trường ca dữ dội.

Nơi rừng thiêng nước độc cũng từng có bao tuổi xanh phải bỏ lại, bao mất mát hi sinh luôn còn đó, để khi nhớ lại người ta vẫn phải nhói lòng:

Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời

Hai chữ “dãi dầu” dồn tụ trong đó bao nhiêu gian lao. Nói đến hi sinh, nhà thơ không tô đậm cái buồn thương mà nhấn vào cái kiêu bạc của những người lính vốn xuất thân từ Hà Thành hoa lệ. Bởi thế mà dẫu là bỏ lại tuổi trẻ nơi chiến trường khi đầu hãy còn xanh thì những người lính vẫn phải nhìn thấy trong đó những động lực để bước tiếp.

Và như một lẽ tất nhiên, với những con người nhạy cảm như người lính Tây Tiến, không khi nào họ chỉ nhìn thấy cái khốc tàn của núi rừng. Ngay trong sự hoang vu, hiểm trở, những vẻ đẹp trữ tình vẫn ngời lên lấp lóa dưới đôi mắt tinh tế của những chàng trai Hà Thành. Đó là kí ức “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, là nỗi nhớ thấp thoáng về “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một đêm hơi với hoa về trong tay, nó lãng mạn biết nhường nào. Là “đêm hơi” chứ không phải đêm khuya, cũng không phải đêm sương, dường như nó vừa gợi thời gian, vừa gợi một cảm giác mờ ảo – mờ đi trong tâm hồn người chiến sĩ. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được buông nhẹ ra bởi một loạt những thanh bằng như làm dịu lại nhịp thơ, gợi cảm giác bâng khuâng, nhè nhẹ, vừa gần gũi, vừa ấm áp tình thân, tựa bước chân dừng nghỉ sau những chặng đường dài. Nhớ về cái nên thơ ấy, nhà thơ không bỏ quên cảm giác ấm áp tỏa ra từ hương vị riêng của núi rừng, được gợi lên từ thứ “cơm lên khói” vẫn đượm mùi “thơm nếp xôi”.

Kí ức chiến tranh không chỉ lưu giữ những chiến công, những tàn tích, mà còn lưu giữ bao kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết, về những chặng đường dừng chân yêu thương ngọt ngào. Tây Tiến trên những chặng đường dừng chân sau bao ngày hành quân nhọc nhoài tự bao giờ cũng trở thành một phần không thể bỏ quên trong nỗi nhớ. Hồi ức về những đêm liên hoan dần dần sống dậy:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các cô gái vùng cao đang uốn lượn theo tiếng khèn dìu dặt, bổng trầm như nâng lên hồn rừng sâu núi thẳm. Hai chữ “bừng lên” thật giàu ý nghĩa, giàu sức gợi. Bừng lên trong những ngọn đuốc sáng, bừng lên trong niềm vui người lính Hà Thành đến từ xứ lạ phương xa, bừng lên trong tiếng reo vui khi người phụ nữ bất ngờ hiện ra vừa lộng lẫy, vừa tình tứ. “Đuốc hoa” mà người lính mang về trên tay, là hoa lửa đuốc thắp sáng như ngọn đèn rừng, hay là chúc hoa vẫn rọi sáng niềm tin người chiến sĩ? Những đêm liên hoan cứ ấm nồng như thế không chỉ rực rỡ sắc màu của lửa đuốc, của xiêm áo mà còn rộn rã âm thanh của “khèn lên”, của “nhạc về”. Những câu thơ thắm tình quân dân, tựa như cá gặp nước, tựa như con một nhà. Từng hơn một lần ta gặp thứ tình cảm ấm nồng êm đẹp đó trong thơ:

Các anh về mái ấm nhà vuiTiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ

Hay:

Thương nhau chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Nhưng nếu những câu thơ của Hoàng Trung Thông và Tố Hữu viết bằng cảm hứng hiện thực với những hình ảnh dịu dàng thì câu thơ của Quang Dũng lại mang một vẻ đẹp bay bổng lãng mạn. Âm hưởng lãng mạn đó còn tiế tục ngân dài ở những câu thơ sau:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của người nơi đèo cao núi thẳm. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt ngàn sắc trắng hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng người trên độc mộc. Âm điệu thơ ở đây thay đổi, không còn vui tươi như trong đêm liên hoan lửa trại mà dần trở nên man mác bâng khuâng. Hình ảnh thơ cũng không còn rực rỡ tươi sáng mà trở nên ảo mờ, mơ hồ. Những nét dáng mảnh mai duyên dáng từ lâu đã trở thành linh hồn riêng của Tây Bắc. Một Mai Châu mênh mang sương sớm, phơ phất hồn lau, đong đưa dòng nước. Sự quyện hòa giữa cảnh và người qua vài nét chấm phá đã đủ gọi về không khí Tây Bắc đầy lãng mạn, đọng lại trong nỗi nhớ bao cảm xúc chơi vơi. Thấm đẫm trong từng nét vẽ là một hoài niệm sâu nặng khó quên, bâng khuâng không nói hết. Tất cả đã thay bằng lời “có thấy”, “có nhớ” ngọt ngào chân thành.

Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về hình ảnh những đoàn binh không mọc tóc:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm

Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.

Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.” Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng nói về cảm xúc ấy:

Những đêm dài hành quân nung nấuBỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hi sinh, nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSống Mã gầm lên khúc độc hành.

Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao mất mát hi sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hi sinh là chí khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc. Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn ? Một lần nữa, Quang Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựaGieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao

Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính vào cõi trường cửu.

Những câu thơ cuối khép lại bài được viết như những dòng thường ghi trên mộ chí, cũng là lời hẹn thế của một người lính từng gắn bó sâu nặng với đoàn quân:

Tây Tiến người đi không hẹn ướcĐường đi thăm thẳm một chia phôiAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả đoàn quân Tây Tiến. Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho nhiệm vụ cứu nước. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về.

Tây Tiến là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hoa, vừa chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã góp thêm cho nền thi ca kháng chiến một tuyệt phẩm về người lính mà ai đi qua cũng phải lưu lại những ấn tượng cho riêng mình.

14. Cách mở bài bài thơ Tây Tiến hay

Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp được đưa vào chương trình giáo dục THPT từ nhiều năm nay. Nó mang vẻ đẹp từ ý thơ đến nghệ thuật ca từ, thể hiện tâm hồn tự do, phong khoáng, đầy chất thơ của nhà thơ Quang Dũng. Trong phần này, Hoatieu.vn sẽ giới thiệu đến bạn đọc một số cách mở bài phân tích, cảm nhận, nghị luận bài thơ Tây Tiến hay, hấp dẫn nhất giúp các bạn tham khảo cho bài làm văn của mình nhé.

Phần viết do Hoatieu biên soạn, không sao chép qua website khác. 

14.1. Mở bài Tây Tiến - Mẫu 1

Quang Dũng là một nhà thơ thực chiến, từng tham gia chiến đấu trong binh đoàn Tây Tiến. Ông trưởng thành trong cuộc kháng chiến can trường của quân và dân ta thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, cùng đồng đội trải qua những ngày tháng gian nan, khổ cực. Chính những kỷ niệm ấy đã để lại trong trái tim ông biết bao ký ức không thể nào quên, mặc dù sự nghiệp văn học của nhà thơ Quang Dũng không quá đồ sộ như nhiều nhờ thơ cùng thời, nhưng thơ ca của ông có những chất riêng, chính là những trải nghiệm chân thật của ông về chiến tranh, về cuộc sống của người lính. Trong đó, bài thơ Tây Tiến chính là tác phẩm nổi trội, tiêu biểu nhất, thể hiện phong cách và con người của nhà thơ. Tây Tiến được sáng tác năm 1947 khi nhà thơ đã rời binh đoàn và nhận nhiệm vụ ở đơn vị khác. Có lẽ chính vì lẽ ấy mà lời thơ không chỉ bày tỏ tình cảm của ông với những người đồng đội cũ và miền núi rừng Tây Bắc, mà còn khắc họa vô cùng sống động chân dung những người lính Tây Tiến quả cảm nơi rừng thiêng nước độc với những phẩm chất tốt đẹp, đáng trân trọng.

14.2. Mở bài Tây Tiến - Mẫu 2

Quang Dũng không chỉ là nhà thơ, mà còn là một người lính quả cảm trên chiến trường. Do đó, hơn ai hết, ông hiểu cuộc chiến tranh hào hùng mà cũng tàn khốc ra sao, những người lính đã anh dũng chiến đấu như thế nào. Chính vì lẽ ấy mà hình ảnh thơ ca của nhà thơ luôn gắn liền với hình ảnh người lính, miêu tả đúng bản thân ông cũng như những người đồng đội đã sát cánh bên nhau chiến đấu. Tây Tiến là một trong những tác phẩm nổi bật như thế, được sáng tác năm 1947, giữa tâm cuộc kháng chiến vẫn diễn ra vô cùng ác liệt, nhà thơ được chuyển công tác sang đơn vị khác. Rời binh đoàn Tây Tiến, rời rừng thiêng Tây Bắc, bằng bút pháp nghệ thuật lãng mạn xen lẫn tả thực, thông qua Tây Tiến, Quang Dũng đã thành công khắc họa hình ảnh những người lính trong binh đoàn Tây Tiến luôn có khí thế hiên ngang, bất khuất và tâm hồn, phẩm chất cao đẹp, tiêu biểu cho hình ảnh người lính trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Đồng thời, lời thơ còn là những miền ký ức khó quên, những tình cảm khó phai mờ của tác giả đối với những người đồng đội và mảnh đất Tây Bắc.

14.3. Mở bài Tây Tiến - Mẫu 3

Với một đất nước đã trải qua đau thương, mất mát của chiến tranh, một đất nước đã đấu tranh kiên cường cho cuộc sống độc lập - tự do - hạnh phúc thì chiến tranh và người lính luôn là hình ảnh, nguồn cảm hứng lớn của thơ ca, văn học cách mạng Việt Nam. Bên cạnh những tác phẩm thơ ca nổi tiếng về tình đồng đội, về phẩm chất tốt đẹp của người lính, miêu tả thực tế cuộc chiến tranh như Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Đồng chí, Bếp lửa, Hương thầm..., tác phẩm Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng sáng tác năm 1947 cũng là một trong những áng thơ xuất sắc. Bài thơ mang nét phong cách riêng của một người lính đã cầm súng chiến đấu, thể hiện tình cảm nhớ thương của tác giả với những đồng đội cũ và mảnh đất rừng thiêng Tây Bắc. Đồng thời, nêu bật ý chí quật cường, tinh thần quả cảm của lớp thanh niên thời ấy, họ sẵn sàng gác lại bút sách, để lại người thân, gia đình, lên đường chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Ý chí "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" là hào khí của cả một thế hệ, được tác giả đưa vào những con người cụ thể là những người lính trong binh đoàn Tây Tiến, đồng đội của tác giả.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

Từ khóa » Dốc Gì Anh Vệ Quốc Quân