Trang Thơ Matsuo Basho - 松尾笆焦, Tùng Vĩ Ba Tiêu (66 Bài Thơ)

Bụt hiện ở nơi nào? thì cũng như: vầng trăng hiện ở nơi nào, cũng như gió thổi qua nơi nào và mây bay nơi nào.Trong thơ của Huyền Quang tôn giả, Bụt hiện ra như gió như mây:

Nương am vắng,Bụt hiện từ bi,Gió hiu hiu,Mây nhè nhẹ.
Khi tâm là gió, là mây thì Bụt hiện. Khi tâm là am vắng thì Bụt hiện. Thế thôi mà. Bụt còn biết hiện vào đâu ngoài nơi chốn của niềm êm dịu từ tâm? Khi lên chùa Vân Yên (xứ Khói Mây), Huyền Quang tôn giả hẳn đã muôn lần chiêm quan cảnh Bụt hiện từ bi.Thì cũng như khi Bashô hành hương đến một ngôi chùa hoang phế ở Awa:
Nền đá hoang tànlung linh bóng nắngBụt hiện dung nhanBashô(Jôroku nikagerô takashiishi no ue)
Đấy là một ngôi chùa thực sự hoang phế. Nền đá trống trải, trơ trọi không còn dấu vết một pho tượng Phật nào. Chỉ còn ánh nắng toả chiếu như sóng gợn. Và trong ánh nắng mùa Xuân ấm áp ấy, Bashô chiêm ngưỡng dung nhan của Bụt. Với Bashô, nắng Xuân tự hoá thân thành Bụt.Đấy là cách mà Huyền Quang ở Việt Nam thế kỷ XIV và Bashô ở Nhật Bản thế kỷ XVII đã nhìn thấy Bụt.Nhìn thấy Bụt trong nắng, trong mây, trong gió, trong ánh trăng.Như Thiền sư Như Mãn đời Đường. Vua Đường Thuận Tông hỏi Thiền sư:- Phật đản sinh phương nào, nhập diệt về nơi nào? Phật thường trụ ở đời nhưng bây giờ thì ở đâu?Thiền sư đáp:- Phật từ vô vi đến, khi diệt về vô vi. Pháp thân đồng hư không, thường trụ chốn vô tâm, có niệm về vô niệm, có trụ về vô trụ, đến vì chúng sinh đến, đi vì chúng sinh đi... Có duyên Phật ra đời, hết duyên Phật nhập diệt, mỗi nơi giáo hoá chúng sinh như bóng trăng hiện dưới nước...
(Ngũ đăng hội nguyên tiết dẫn, Thích Phước Hảo dịch)Như vầng trăng thu, Bụt theo duyên mà hiện mà tan.Vầng trăng tan nhanhtrong giọt mưa đọngđó đây trên cành.Bashô(Tsuki hayashikozue wa ame womochinagara).
Chung quanh bài thơ, Bashô còn nói rõ: “Bầu trời đã rạng đông một chút... Trong ánh trăng, âm thanh của những giọt mưa đầy niềm bi cảm; tâm hồn tôi như thể dâng tràn, nhưng lời thì bất khả”.Bụt ra đi trong những giọt mưa trăng ấy, trong muôn nghìn giọt sương. Bụt là Như Lai, là Đến, là Đi như thế, từ vô lượng thời gian đến nay. Đến và Đi như tiếng gõ trên cánh cổng chùa xưa:
Cổng mờ phaichùa Mii tôi gõdưới trăng đêm nay.Bashô(Miidera no montatakaba yakyô no tsuki)
Bụt ở đâu khi ta gõ cửa chùa? Đó tựa như là một công án. Nhưng vầng trăng thu viên mãn sáng ngời kia không phải là hào quang của Bụt sao? Và đó cũng chính là ánh sáng của tâm. Như cái nhìn của Thiền sư Myoe từ thế kỷ XIII:
Tâm tôi rạng ngờiánh sáng tinh khôimà trăng cứ ngỡđấy là ánh sángcủa mình trăng thôi.(Kuma no nakusumeru kokoro nokagayakebawaga hikari to yatsuki omou kana)
Điều đó có nghĩa là ánh sáng trong trái tim ta “đồng chất” với ánh sáng của vũ trụ. Chính là Bụt ở trong tim ta được phóng chiếu vào vũ trụ này. Ta mang trái tim đi là mang cả vũ trụ đi.Ta mang trái tim đi, đi về cõi vô tâm. Như Huyền Quang tôn giả đã nói:
Bao nhiêu phong nguyệt,về cõi vô tâm.
Trong cõi vô tâm ấy, Huyền Quang trở thành Bồ tát của cuộc tiêu dao vũ trụ:Ta nay:
ngồi đỉnh Vân Tiêucỡi chơi Cánh Diều.
Cũng như cuộc tiêu dao đêm thu của Bashô:
Trăng thucùng tôi phiêu lãngsuốt đêm quanh hồ.(Meigetsu yaike wo meguriteyomosugara)
Cả hai đều là trẻ thơ vô tâm, đùa chơi với trăng, với núi, với hồ. Đùa chơi với cỏ, với mưa với gió.Chỉ cần cỏ chiều lả lướt trong gió, đỉnh non tắm gội mưa chiều cũng đủ là pháp vui cho Huyền Quang, một thiền sư xem cái đẹp của vũ trụ này là hiện thân của Bụt: Cái Đẹp chính là Bụt hiện từ bi.
Cỏ chiều gió lướtdợm vui vuiNon tạnh mưa dầmmàu thúc thúc.(Huyền Quang)
Ta có cảm tưởng như thiền sư thi sĩ kỳ tài này trú thân trong gió thổi qua cỏ và mưa bay qua núi, cái trú thân kỳ lạ mà Bashô có nhắc tới:
Ngồi đâytôi xây gió mátmà trú thân này(Suzushisa wowaga yado ni shitenemaru nari)
Trú thân trong gió mát. Nhưng gió từ đâu vậy? Ngọn gió mát thực sự chỉ thổi trong trái tim con người. Đó là cái êm dịu từ tâm mà Huyền Quang và Bashô luôn mang theo trong mình, trong những cuộc phiêu lãng hành cước mênh mông của họ. Vài thế kỷ ngăn cách họ (Huyền Quang sinh năm 1254 và Bashô sinh năm 1644) nhưng tâm hồn của hai nhà thơ Thiền vĩ đại này lại rất gần nhau.Cách mà họ an trú giữa cõi đời bụi:
Buông niềm trần tụcnáu tới Vân Yên.(Huyền Quang)
Muốn náu thân tôitrong rừng mùa hạdưới bóng cây sồi.(Bashô)(Mazu tanomushii no ki mo arinatsu – kodachi)
Núi Yên Tử của Huyền Quang hay khu rừng mùa hạ của Bashô không phải là những nơi xa đời. Đó chỉ là biểu tượng của nơi an trú tâm linh của mỗi người.Bởi vì Huyền Quang tôn giả không chỉ náu mình ở chùa Vân Yên, Yên Tử. Ông còn là “Con thuyền nhỏ lướt gió mà chơi trên dòng sông mênh mang” (Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang – Huyền Quang).Và tất nhiên Bashô không chỉ trú thân trong khu rừng mùa hạ. Ông luôn luôn tự gọi mình là “từ nhân” (Tabibito).
Tên tôi trên đời:một người lữ kháchmưa mùa thu ơi!(Tabibito towaga na yobarenhatsushigure)
Từ bỏ một chức quan trị thuỷ, Bashô rong chơi khắp xứ, làm thơ, làm bạn với hoa đào.Huyền Quang cũng rời bỏ quan trường, lang thang khắp Kinh Bắc, mang theo mình pháp vui, làm bạn với hoa mai hoa cúc.Nhìn ngắm hoa mai, Huyền Quang không giấu nổi niềm cảm phục vô bờ. Hoa đứng một mình trên núi tuyết, cao nhã vô song. Dường như có oai nghi của Bụt, thanh cao của Bụt trong cành mai trắng mùa xuân đó:
Dục hướng thương thương vấnsở tòngLẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung?(Vọng hỏi trời xanh –tự chốn nàoMột mình dẫm tuyết giữanon cao?)
Mai sống một mình trên núi, trở thành trang kinh của Người biết sống một mình. Một mình Huyền Quang tôn giả trên đỉnh Vân Yên đó chăng?Hoa mai của Bashô cũng thế, đứng một mình trên con đường núi, ngát hương một mình. Ấy thế mà, làn hương của nó đã thức dậy một mặt trời:
Hương hoa mơ ơicon đường núi mọcbỗng nhiên mặt trời(Ume ga ka ninotto hi no deruyamaji kana)
Hoa mơ xông hương bởi vì mặt trời hay mặt trời mọc lên bởi vì mùi hương hoa mơ. Mặt trời cũng lẫm liệt đứng một mình trên cao, cũng là một bông hoa lạ. Và một mình Bashô trên đường núi, làm thơ một mình.Với hoa cúc, Huyền Quang tôn giả càng ưu ái hơn:
Hoa tại trung đình, nhân tại lâuPhần hương độc toạ tự vong ưuChủ nhân dữ vật hồn vô cạnhHoa hướng quần phương xuất nhất đầu.(Hoa ở trong sân, người tại lầuNgồi im, hương đốt, tự quên sầuTa cùng với vật không tranh cạnhĐi giữa muôn hoa, cúc dẫn đầu)
Vẫn là một Huyền Quang ấy, ngồi một mình trên núi, ngồi một mình đốt hương. Hoa và người cùng xông hương. Cùng xông hương, chứ không cạnh tranh hơn thua, không phân biệt người vật, không định ngôi chủ khách.Vì người là hoa. Vì hoa là người. Vì vũ trụ là hồn nhiên.Và đây là cái nhìn của Bashô đối với hoa cúc:
Dẫu thân hao gầycành hoa cúc ấynụ đang căng đầy(Yase nagarawari naki kiku notsubomi kana)
Mai gầy, cúc yếu... cành hoa nào cũng gầy yếu. Nhưng có thật là yếu ớt không, những bông hoa ấy? Hãy nhìn vào nụ đi, nhựa đang căng trong ấy. Hãy nhìn vào nhuỵ đi, phấn đang bay trong ấy.Hãy nhìn những bước đi dịu dàng, những nụ cười dịu dàng, những ánh mắt dịu dàng. Trong mỗi cái dịu dàng đều có một sức mạnh lớn lao, lớn hơn mọi quyền uy.Đây là uy lực của mùi hương hoa đào trong thơ Bashô:
Chuông chùa tàn dầnhương hoa đào buổi tốivẫn còn vang ngân.(Kane kietehana no ka wa tsukuyùbe kana)
Mùi hương có âm vang ư? Có thể nghe âm vang của một mùi hương? Bashô đã nghe như thế. Ông đã nghe hoa đào thì thầm với ông biết bao nhiêu điều khi ông trở về Ueno sau hai mươi năm xa cách: Hoa đào ta ơi, xui hồn ta nhớ, bao điều xa trôi.Bashô nghe hoa, ăn hoa và ngủ với hoa:
Tôi muốn ngà sayngủ mơ trên đáhoa cẩm chướng đầy.(Youte nemunadeshiko sakeruishi no ue)
Bài thơ cũng gợi đến giấc ngủ trưa (ngọ thuỵ) của Huyền Quang tôn giả:
Vũ quá khê sơn tịnhPhong lâm nhất mộng lươngPhản quan trần thế giớiKhai nhãn tuý mang mang.(Mưa qua, khe núi trongRừng phong say giấc mộngNgoảnh nhìn đời bụi bặmMắt mở mà say mòng)
Đó là giấc mộng và cơn say của những hiền nhân. Họ ngủ với hoa, với rừng, với sự thanh tịnh của đá và cái trong trẻo của khe núi. Họ say mòng với mùi hương cẩm chướng và hơi mát của mưa.Họ thực sự sống dẫu đang mộng và say. Có thể nói họ tỉnh giác bằng cơn say và giấc mộng.Cho nên, đừng ngạc nhiên khi Huyền Quang tôn giả hết ngủ trưa (ngọ thuỵ) lại ngủ ngày (trú miên):
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịchNhất chẩm thanh phong trú mộng dư(Chim cưu vắng tiếng ngoài song quếGối mát còn dư giấc mộng ngày)
Hoặc là trong giấc đêm thu, ông và mái nhà đìu hiu cùng gối đầu vào lùm dây leo xanh biếc, cùng gối đầu vào tiếng dế kêu thiết tha:
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nhaSơn vũ tiêu nhiên chẩm lục laDĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiếnCùng thanh tức tức vị thuỳ đa!(Gió thu đêm vắng phất qua mànhNhà núi đìu hiu dựa nhánh xanhCó kẻ thành thiền tâm nhất phiếnVì ai tiếng dế vọng vang thanh!)
Gió thu và tiếng dế cứ xao động, cứ vang vọng. Tâm thiền vẫn trong suốt và tịch liêu, gối vào những nhành xanh biếc của dây leo, của thiên nhiên, của đêm thanh.Như một bài haiku về tiếng ve của Bashô:
Tịch liêuthấu xuyên vào đátiếng ve kêu.(Shizukasa yaiwa ni shimi irusemi no koe)
Tiếng dế của Huyền Quang vẫn vang vọng qua nghìn đêm mùa thu. Tiếng ve của Bashô vẫn xuyên thấu muôn trùng vách đá.Để làm gì vậy? Để tạo dựng thế giới của tâm thiền, của an nhiên và tịch liêu, nơi mọi âm thanh có thể vang ngân mà vẫn không gây một chút vọng động nào, nơi Huyền Quang và Bashô nằm ngủ dưới hoa rơi, nơi Bụt hiện trong hoa đào, hoa mơ, hoa cúc.Và Bụt hiện trong một làn hương vô danh:
Từ cây hoa nàomà ta không biếtmột làn hương trao!Bashô(Nan no ki nohana towa shirazunioi kana)
Làn hương vô danh đó chính là bụt hiện từ bi.

Nhật Chiêu

Từ khóa » Cậu Tư Dùng Chuồn Chuồn Cỏ để đổi Lấy Gì Cho Cận Tiêu