TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY- THỰC QUẢN (GERD)

1.Nội dung

1.1. Thuật ngữ và ý nghĩa của hiện tượng trào ngược:

Jacson mô tả loét thực quản từ 1924.

Mallory – Weiss mô tả loét ở tâm vị do trào ngược dịch vị năm 1932

Winkelstein đưa ra khái niệm bệnh trào ngược dạ dày – thực quản năm 1935.Một trong những bệnh quan trọng nhất của đường tiêu hóa.

  • Hết sức phổ biến.

  • Ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống

  • Gây ung thư thực quản, một bệnh đang tăng nhanh.

  • Biểu hiện đa dạng: thể điển hình, thể không điển hình, triệu chứng ngoài thực quản.

  • Thăm dò cận lâm sàng không thuận lợi: nội soi bỏ sót nhiều.

  • Chưa được sự quan tâm đúng mức của bác sĩ

  • Phần lớn bệnh nhân không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách.

  • Nguyên nhân: Khách quan – người bệnh, chủ quan – thầy thuốc.

    Sự trào ngược một lượng nhỏ dịch vị vào phần thấp của thực quản là bình thường.

    Bệnh trào ngược dạ dày-thực quản xảy ra khi hiện tượng trào ngược gây cho bệnh nhân nguy cơ có những biến chứng thực thể hay khi các triệu chứng của bệnh đưa đến sự giảm đáng kể chất lượng cuộc sống.

    Sự giảm chất lượng cuộc sống về mặt lâm sàng thường xảy ra khi các triệu chứng của bệnh xảy ra 2 ngày trong 1 tuần hay nhiều hơn.

    Bệnh trào ngược dạ dày thực quản gây ra nguy cơ viêm thực quản do trào ngược và các biến chứng khác như bệnh thực quản Barrett và ung thư thực quản. Tuy nhiên nguy cơ bị ung thư thực quản ở người bị trào ngược dạ dày- thực quản là rất thấp.

    Hầu hết bệnh nhân không có tổn thương thấy được qua nội soi. Chỉ khoảng 1/3 số bệnh nhân có bệnh trào ngược được chứng minh có viêm thực quản với sự hiện diện của các vết sướt niêm mạc hay niêm mạc Barrett.

    1.2. Cơ chế bệnh sinh:

    Có 3 yếu tố dẫn đến hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản:

    - Năng lực của cơ vòng dưới của thực quản.

    - Sự kích thích của chất trào ngược (dịch vị, acid mật).

    - Sự nhạy cảm của niêm mạc thực quản với chất trào ngược.

    Sự trào ngược dạ dày thực quản sẽ dẫn đến viêm thực quản và các biến chứng của nó như: Xuất huyết, loét thực quản, hẹp thực quản.

    1.3. Triệu chứng lâm sàng: Có thể chia làm 2 nhóm:

    1.3.1. Nhóm triệu chứng liên quan trực tiếp với hiện tượng trào ngược:

    1.3.1.1 Ợ nóng: Đây là triệu chứng chính của bệnh lý này. Nó được mô tả như cảm giác nóng rát xuất phát từ dạ dày hay phần ngực thấp lan lên cổ. Đặc biệt nó sẽ tăng lên khi ăn, nhất là thức ăn có nhiều mỡ hay gia vị, hoặc khi bệnh nhân cúi, ưỡn người hay nằm ngửa. Thường bệnh nhân thấy dễ chịu hơn khi uống thuốc kháng acid.

    1.3.1.2. Trớ: là triệu chứng điển hình khác của bệnh lý này. Các chất trớ thường chỉ cảm thấy vị và được nuốt lại, nhưng đôi khi lượng trớ nhiều đến nỗi người ta lầm lẫn triệu chứng này với nôn. Một số ít bệnh nhân có thể có triệu chứng chính là trớ .

    1.3.1.3. Tiết nước bọt: Hiện tượng acid hóa thực quản có thể gây ra sự kích thích tiết nước bọt đột ngột làm cho miệng bệnh nhân đầy nước bọt.

    1.3.1.4. Các triệu chứng không điển hình: Trào ngược có thể gây ra một số triệu chứng như: đau ngực, ợ hơi, ăn không tiêu, cảm giác khó chịu hay buồn nôn không điển hình .

    Một số bệnh nhân đau thượng vị lan dọc theo xương ức, nặng có thể lan lên cổ, góc hàm hoặc xuống cả hai cánh tay, có trường hợp đau ngực dạng co thắt dễ nhầm với bệnh tim.

    1.3.2. Nhóm triệu chứng gây ra bởi biến chứng của bệnh trào ngược:

    1.3.2.1 Các triệu chứng hô hấp: Bệnh trào ngược dạ dày -thực quản được quy như là nguyên nhân gây ra một số bệnh lý thanh quản và đường hô hấp như hen, ho mãn tính, viêm thanh quản và viêm xoang. Ho, thở khò khè, khàn tiếng hay đau họng có thể xảy ra và đôi khi là triệu chứng nổi bật. Tầm quan trọng của trào ngược trong nhóm triệu chứng này vẫn chưa rõ ràng, chỉ gặp ở một số ít bệnh nhân.

    1.3.2.2 Khó nuốt: Thường xảy ra nhưng hay thay đổi do sự khiếm khuyết của nhu động thực quản hay sự tăng nhậy cảm của thực quản. Khó nuốt nếu kèm theo hiện tượng nghẹn thức ăn thì gợi ý nhiều đến hẹp thực quản.

    1.3.2.3 Nuốt đau: đây là triệu chứng nổi bật gây ra bởi sự tăng nhạy cảm quá mức của niêm mạc thực quản, thường kèm theo viêm thực quản nặng.

    1.3.2.4 Chảy máu do viêm thực quản: nôn ra máu có thể xảy ra nhưng hiếm khi nặng, thỉnh thoảng có thể gây thiếu máu thiếu sắt.

    1.4. TRIỆU CHỨNG CẬN LÂM SÀNG:

    Khi GERD có đầy đủ triệu chứng lâm sàng thì chẩn đoán rõ ràng, tuy nhiên những trường hợp không điển hình cần phải làm các xét nghiệm để chẩn đoán.

    1. 4.1. Các test hữu ích trong chẩn đoán GERD:

    Cận lâm sàng được chia làm 3 nhóm:

    1.4.1.1 Test xác định khả năng GERD: (Có thể có GERD)

    - Chụp cản quang thực quản, dạ dày, tá tràng

    - Đo áp lực cơ vòng dưới của thực quản (LES)

    - Nội soi thực quản

    1.4.1.2 Test cho thấy hậu quả của GERD

    - Bernstein test (test truyền acid)

    - Nội soi thực quản

    - Sinh thiết niêm mạc thực quản

    - Chụp thực quản đối quang kép

    1.4.1.3 Test đo lường trào ngược dạ dày thực quản thực sự

    - Chụp thực quản cản quang

    - Test trào ngược acid mẫu

    - Theo dõi pH thực quản kéo dài bằng monitoring

    - GE scintiscan

    1.4.2.Chụp thực quản - dạ dày - tá tràng cản quang :giúp loại trừ các tổn thương khác ở đường tiêu hóa trên (thí dụ loét dạ dày - tá tràng)

    1.4.3. Đo áp lực cơ vòng thực quản: Giúp đánh giá bệnh nhân không điển hình với đau ngực, bệnh nhân điều trị thất bại và xem xét để phẫu thuật chống trào ngược.

    Test này ít khả năng để dự đoán GERD trừ khi áp lực cơ vòng dưới thực quản dưới 6 mmHg.

    1.4.4 Test truyền acid (Bernstein test): Bệnh nhân ngồi với ống sond mũi-dạ dày đến giữa thực quản (30 cm từ mũi). Dùng HCl 0,1N truyền tốc độ 100 - 200giọt /phút đến khi có triệu chứng (khoảng 30 phút)

    Test (+) khi bệnh nhân đau nóng sau xương ức

    Độ nhậy và độ chuyên biệt # 80%

    Test này chỉ phát hiện sự nhậy cảm của phần xa thực quản với acid, không dùng cho bệnh nhân đã viêm thực quản và cũng không đo lường sự hồi lưu. Do đó, nó hữu ích ở bệnh nhân nhiều triệu chứng hoặc triệu chứng không điển hình.

    Test (-) không loại trừ GERD

    1.4.5. Test trào ngược acid chuẩn: Phát hiện trào ngược acid bằng 1 dụng cụ đo pH, đặt trên cơ vòng dưới 5 cm. Sau truyền 300ml HCl 0,1N vào dạ dày.

    Khi pH thực quản <4 à test (+)

    Độ nhậy và độ chuyên biệt # 80%

    1.4.6. Chụp nhấp nháy thực quản dạ dày với Te 99m. Độ nhậy và độ chuyện biệt #90%.

    1.4.7. Theo dõi pH thực quản kéo dài bằng monitoring: Là tiêu chuẩn vàng để đo GER acid. Đo 24 giờ (bữa ăn, tư thế, hoạt động, ngủ), dụng cụ đo cách 5 cm trên cơ vòng thực quản dưới. Bệnh nhân viết ra những hoạt động và thời gian.

    Khi pH < 4 à có hồi lưu.

    1.4.8. Nội soi và sinh thiết: phát hiện viêm thực quản, loét, xuất huyết, hẹp…

    1.4.9. Mô học

    1.5. BIẾN CHỨNG CỦA GERD:

    Gồm các biến chứng sau:

    - Hẹp thực quản

    - Loét và chảy máu thực quản

- Bệnh ở phổi: viêm phổi do hít phải chất trào ngược, hen phế quản, ho ra máu . . .

- Ung thư thực quản do viêm thực quản mãn tính

1.6. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT:

Trong GERD cần phân biệt với hai bệnh ở lồng ngực:

- Cơn đau thắt ngực do bệnh mạch vành

- Đau lói ngực do viêm phổi

1.7. CHẨN ĐOÁN:

1.7.1. Triệu chứng:

Chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày -thực quản chủ yếu dựa vào triệu chứng chức năng. Hầu hết bệnh nhân đều có triệu chứng điển hình là ợ nóng. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân hiểu không rõ triệu chứng này. Vì thế cần phải mô tả triệu chứng này như là cảm giác nóng rát từ dạ dày hay phần ngực thấp lan lên cổ. Hỏi như thế giúp ta tìm được nhiều bệnh nhân trào ngược hơn là chỉ hỏi về ợ nóng.

Chú ý sự trùng lắp triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày - thự quản và loét dạ dày – tá tràng, rối loạn tiêu hóa không do loét và hội chứng ruột kích thích. Khoảng 2/3 bệnh nhân cũng có triệu chứng ăn không tiêu (đau hoặc khó chịu vùng thượng vị) và khoảng 40 % bệnh nhân bị hội chứng ruột kích thích cũng có triệu chứng trào ngược dạ dày thực quản.

Độ nặng của triệu chứng không phải là dấu hiệu tin cậy để nói lên độ nặng của viêm thực quản. Tuy nhiên, triệu chứng khó nuốt, nuốt đau, khó thở về đêm, ói máu hay sụt cân là cảnh báo cho ta nghĩ đến khả năng bệnh nặng, có biến chứng hay bệnh lý khác.

Hiện nay, người ta áp dụng bảng GERDQ trong chẩn đoán lâm sàng và theo dõi đánh giá diễn tiến, đáp ứng điều trị:

- Chẩn đoán chính xác

- Đánh giá tác động của triệu chứng

- Theo dõi đáp ứng điều trị

1.7.2. Điều trị thử:

Chẩn đoán dựa trên hỏi bệnh có thể được bổ sung bằng điều trị thử với thuốc ức chế bơm proton liều gấp đôi trong 2 tuần. Phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đương với theo dõi pH thực quản và hơn cả nội soi thực quản.

1.7.3. Các phương pháp thăm dò:

Không phải tất cả bệnh nhân nghi ngờ có triệu chứng trào ngược đều phải được cho làm các phương pháp thăm dò. Bệnh nhân nào có triệu chứng nhẹ, điển hình của trào ngược và không có nhóm triệu chứng cảnh báo thì nên điều trị thử trước mà không cần làm phương pháp thăm dò nào khác.

Các phương pháp thăm dò nên được thực hiện khi:

- Chẩn đoán không rõ và không điển hình cho trào ngược hay lẫn với các triệu chứng bệnh dạ dày - tá tràng khác như đau thượng vị kèm theo.

- Triệu chứng kéo dài hay không giảm sau điều trị.

- Triệu chứng gợi ý viêm thực quản nặng hoặc có biến chứng (ói máu, nuốt khó kéo dài)

- Chưa loại trừ các bệnh lý khác:

. Viêm thực quản nhiễm trùng hay do thuốc

. Bệnh ác tính thực quản

. Bệnh dạ dày – tá tràng

. Nhồi máu hay thiếu máu cơ tim

1.7.4. Chọn lựa phương pháp thăm dò:

1.7.4.1 Nội soi thực quản -dạ dày – tá tràng là chọn lựa đầu tiên vì:

- Là test nhạy nhất để chẩn đoán viêm thực quản trào ngược .

- Cung cấp chẩn đoán chính xác nhất đối với các sang thương niêm mạc khác như viêm thực quản nhiễm trùng, loét dạ dày –tá tràng, các bệnh lý ác tính hay các bệnh khác của đường tiêu hóa mà khó phân biệt với trào ngược nếu chỉ dựa vào bệnh sử .

- Là cách hữu hiệu nhất để phân độ viêm thực quản, điều này quan trọng trong việc chọn lựa cách điều trị cho bệnh lý này.

- Là phương pháp nhạy nhất để chẩn đoán bệnh thực quản Barrett.

- Hữu ích cho việc phát hiện và điều trị hẹp thực quản do loét.

Các chỉ định và ứng dụng nội soi:

- Có triệu chứng báo động (nuốt khó, nuốt đau, sụt cân, chảy máu, khối u ổ bụng, thiếu máu)

- Khó chẩn đoán (triệu chứng lẫn lộn, không đặc hiệu, không điển hình).

- Triệu chứng không đáp ứng với điều trị ban đầu.

- Đánh giá trước mổ.

- Tăng cường sự tin tưởng khi lời nói không đủ sức thuyết phục .

- Có triệu chứng kéo dài, thường xuyên và gây khó chịu.

- Để theo dõi việc điều trị bằng thuốc .

Hệ thống phân loại viêm thực quản qua nội soi theo LOS ANGELES

Độ

Định nghĩa

A

Có một (hay hơn) vết sướt niêm mạc nhưng dưới 5 mm, và không vượt quá hai đỉnh của nếp gấp niên mạc

B

Có một (hay hơn) vết sướt niêm mạc vượt quá 5 mm, và không vượt quá hai đỉnh của nếp gấp niêm mạc

C

Có một (hay hơn) vết sướt niêm mạc qua hai hoặc hơn đỉnh nếp gấp niêm mạc, nhưng không vượt quá 75% chu vi thực quản.

D

Có một (hay hơn) vết sướt niêm mạc vượt quá 75% chu vi thực quản.

1.7.4.2 Chụp thực quản -dạ dày cản quang: là chẩn đoán không phù hợp vì không nhạy và không đặc hiệu với bệnh trào ngược. Tuy vậy, nó hữu ích để đánh giá và lên kế hoạch điều trị cho bệnh nhân nuốt khó kéo dài nghi ngờ có hẹp hoặc khảo sát có thoát vị hay không .

1.7.4.3 Theo dõi pH thực quản trong 24 giờ: để khảo sát các triệu chứng có liên quan đến việc xảy ra hiện tượng trào ngược hay không, rất hữu ích cho các trường hợp chẩn đoán không rõ sau khi điều trị thử và nội soi.

1.7.5. ĐIỀU TRỊ

Trào ngược dạ dày -thực quản là một rối loạn mãn tính. Việc quan trọng là giáo dục bệnh nhân để sửa đổi lối sống của họ và thói quen mà có thể thúc đẩy trào ngược dạ dày - thực quản và khuyến khích họ chọn thói quen mới để mang lại kết quả có lợi lâu dài.

1.7.5.1. Mục tiêu:

- Giảm triệu chứng và khôi phục chất lượng cuộc sống

- Lành viêm thực quản nếu có, ngăn ngừa tái phát

- Giảm nguy cơ xảy ra biến chứng

1.7.5.2 Điều trị không dùng thuốc (Thay đổi lối sống):

Những thay đổi lối sống cũng có giá trị ở bệnh nhân có triệu chứng nhẹ và xảy ra không thường xuyên, chỉ cần thay đổi lối sống và dùng thuốc kháng acid hay thuốc kháng thụ thể H2 cũng có thể đủ.

Thay đổi chế độ ăn uống: Bệnh nhân thường xác định cho chính mình những thức ăn nào gây triệu chứng trào ngược và tự họ sẽ tránh .

Thức ăn thường gây trào ngược bao gồm thức ăn có nhiều mỡ và gia vị. Một số thức uống có thể làm tăng thêm triệu chứng bao gồm cola, cà phê đậm, nước cà chua và nước cam.

Những thay đổi khác cũng hữu ích bao gồm:

- Tránh bữa ăn trễ và ăn nhiều.

- Tránh nằm ngữa ngay sau bữa ăn.

- Tránh mặc đồ quá chật ngay sau bữa ăn.

- Nâng cao đầu giường: Có thể tốt cho bệnh nhân có triệu chứng xảy ra về đêm hay triệu chứng thanh quản, nhưng không phải bao giờ cũng có hiệu quả. Nằm gối cao được ưa chuộng hơn vì không ảnh hưởng đến người chung giường.

- Rượu: Uống rượu quá mức có thể làm tăng triệu chứng cho nên không được uống quá nhiều.

- Thuốc: Nhiều thuốc có thể làm tăng triệu chứng trào ngược bao gồm:

. Progresterone hoặc thuốc ngừa thai có progresterone.

. Anticholinergic

. . Thuốc ngủ, gốc thuốc phiện.

. Thuốc an thần.

. Theophyllin.

. Beta adrenergic agonists.

. Thuốc ức chế can xi.

. Nitrate

. Aspirin và kháng viêm không steroid có thể làm viêm thực quản nặng hơn.

- Béo phì: Là yếu tố nguy cơ cho trào ngược cho dù việc giảm cân cải thiện triệu chứng tùy theo từng người.

- Hút thuốc: Làm tăng sự trào ngược và tăng nguy cơ bị ung thư thực quản và các ung thư khác.

1.7.5.3. Điều trị thuốc :

- Việc tự dùng thuốc của bệnh nhân: bệnh nhân thường tự uống các thuốc kháng acid, phối hợp antacid /anginate và kháng thụ thể H 2. Điều này giúp cho các trường hợp nhẹ và triệu chứng xảy ra không thường xuyên. Những bệnh nhân uống thuốc thường xuyên nên được bác sĩ tư vấn để việc điều trị hiệu quả hơn. Sử dụng thuốc kháng acid không hiệu quả ở bệnh nhân có triệu chứng mức độ vừa và không làm lành viêm thực quản.

- Điều trị thuốc cho bệnh nhân lần đầu:

+ Mục đích: có 4 mục đích với mức độ quan trọng theo thứ tự:

. Xác định chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày - thực quản qua đáp ứng với điều trị bởi vì phần lớn bệnh nhân, dù có nội soi hay không, sẽ được chẩn đoán qua hỏi bệnh.

. Làm giảm triệu chứng trào ngược bởi vì triệu chứng sẽ gây thương tật

. Trấn an bệnh nhân do một số người sợ ung thư.

. Điều trị lành viêm thực quản nếu có vì viêm thực quản có thể gây hẹp, chảy máu và bệnh thực quản Barrett. Việc điều trị lành có thể kéo dài.

+ Chọn lựa thuốc điều trị đầu tiên:

Ức chế bơm proton là thuốc điều trị đầu tay, thời gian 4 tuần

Không nên điều trị như trên cho bệnh nhân có triệu chứng không đủ nặng như định nghĩa của bệnh .

- Điều trị duy trì:

+ Mục đích: có 3 mục đích với mức độ quan trọng xếp theo thứ tự thường được áp dụng cho giai đoạn mãn tính của bệnh.

. Kiểm soát triệu chứng hiệu quả bởi vì triệu chứng là quan trọng nhất đối với bệnh nhân.

. Kiểm soát nguy cơ, vì bệnh lý này có thể gây ra biến chứng .

. Giảm tối thiểu chi phí cho việc điều trị lâu dài.

+ Cách tiếp cận với điều trị lâu dài: Mỗi bệnh nhân sẽ đáp ứng với điều trị lâu dài khác nhau.

+ Thử ngưng thuốc:

. Một số ít bệnh nhân không thấy triệu chứng tái phát sau khi ngưng điều trị. Điều đó có nghĩa là thử ngưng thuốc là đúng.

. Bệnh nhân có viêm thực quản nặng (độ C và D theo phân độ Los Angeles) không nên thử ngưng thuốc vì triệu chứng sẽ tái phát và nên uống thuốc ức chế bơm proton duy trì mỗi ngày.

+ Điều trị lại các trường hợp tái phát và điều trị giảm dần theo triệu chứng:

. Phần lớn bệnh nhân sẽ bị tái phát, lúc đó nên lập lại điều trị như trước đây đã sử dụng thành công.

. Khi bệnh nhân đáp ứng thuốc, việc điều trị cách khoảng theo triệu chứng nên được thử với thuốc kháng thụ thể H2 hay ức chế bơm proton.

. Bệnh nhân nên dùng liều chuẩn 1 lần duy nhất trong ngày trong những ngày có triệu chứng .

. Dùng thuốc kháng acid cũng có lợi ích tương tự.

- Dùng thuốc ức chế tiết acid mỗi ngày liên tục:

+ Điều trị theo triệu chứng sẽ được thực hiện mỗi ngày nếu như việc điều trị cách khoảng tỏ ra không hiệu quả.

+ Vì thuốc ức chế bơm proton tốt hơn thuốc ức chế thụ thể H2 nên nó được dùng khi thuốc ức chế thụ thể H2 thất bại.

+ Việc tăng liều thuốc ức chế H2 không hiệu quả rõ ràng.

- Các thuốc điều hòa nhu động, thuốc làm tăng áp suất cơ vòng thực quản dưới: thường kém hiệu quả hơn thuốc ức chế bơm proton.

- Vai trò của nội soi trong điều trị lâu dài: Những bệnh nhân điều trị thuốc ức chế bơm proton hàng ngày cần nội soi để kiểm soát nguy cơ của bệnh.

- Các trường hợp đặc biệt: Khi bệnh nhân không đáp ứng với thuốc ức chế bơm proton hàng ngày với liều chuẩn có thể do:

+ Tác dụng không đủ của thuốc ức chế bơm proton trên pH dạ dày.

+ Chẩn đoán lầm hay có biến chứng nặng của viêm thực quản.

Tăng liều điều trị gấp đôi có thể có hiệu quả, nhưng bệnh nhân cần tư vấn ở bác sĩ chuyên khoa.

Xu thế hiện nay trong điều trị GERD

1.7.5.4. Phẫu thuật:

- Chỉ định :

. Không đáp ứng với điều trị nội khoa dù đã uống đủ liều.

. Thuốc có tác dụng phụ hoặc bệnh nhân không hợp tác.

. Mong muốn khỏi phải uống thuốc dài hạn

- Nguy cơ và lợi ích:

. Kỹ thuật khâu phình vị qua mổ nội soi đã được ứng dụng, có ưu điểm là giảm đau hậu phẫu, thời gian nằm viện ngắn và trở lại làm việc nhanh hơn mổ hở.

. Các di chứng có sau mổ như ăn không tiêu tăng lên, nuốt khó với thức ăn đặc như thịt và bánh mì và ăn mau no.

. Thông thường , 88-93% bệnh nhân đáp ứng với phẫu thuật trong một thời gian dài (10 năm) và họ thấy triệu chứng giảm hẳn, tinh thần khỏe hơn nhất là ai đã từng điều trị nội lâu dài mà không khỏi bệnh.

1.7.5.5. Điều trị biến chứng:

- Hẹp thực quản:

. Nếu không khó nuốt: tiếp tục dùng ức chế bơm proton duy trì

. Nếu khó nuốt: kết hợp thêm nong thực quản, nếu thất bại thì phẫu thuật.

- Thực quản Barrett :

. Chẩn đoán khởi đầu: Nếu niêm mạc Barrett có kèm viêm thực quản, loạn sản hay tế bào không điển hình của lớp biểu mô có thể bị chẩn đoán lầm. Trong trường hợp này, nội soi cần được lập lại 3 tháng sau điều trị.

. Theo dõi sau chẩn đoán: Ở bệnh nhân có loạn sản nặng hay ung thư giai đoạn sớm để can thiệp thích hợp làm tăng thời gian sống còn cho bệnh nhân. Nội soi được thực hiện 2 năm 1 lần kèm theo sinh thiết 4 góc của thực quản cách nhau 2 cm dọc theo chiều dài của niêm mạc Barrett.

. Điều trị loạn sản:

* Nếu loạn sản mức độ thấp, làm lại nội soi và sinh thiết trong vòng 6 tháng sau khi bệnh nhân được điều trị thuốc ức chế bơm proton đủ liều để đánh giá xem có bỏ sót lọan sản mức độ cao không. Nếu vẫn là loạn sản mức độ thấp, đánh giá lại sau 6 tháng và sau đó mỗi năm. Nếu loạn sản mức độ cao mà còn nghi ngờ nên cần làm lại sinh thiết.

* Nếu loạn sản mức độ cao được xác định và không có ung thư, cắt thực quản có thể là một lựa chọn. Ngoài ra có thể theo dõi tích cực mỗi 3 tháng cho đến khi ung thư trong niêm mạc được phát hiện thì sẽ mổ cắt thực quản. Tuy nhiên, bệnh nhân loạn sản cao thường là người già với nhiều bệnh lý khác kèm theo, nếu không thích hợp phẫu thuật thì có thể chọn điều trị bằng quang đông (photodynamic) hay đông đặc bằng Argon plasma kèm hay không kèm cắt sang thương qua nội soi. Tuy nhiên, các biện pháp này không hiệu quả đối với sang thương loạn sản mức độ cao.

2. Tài liệu tham khảo

2.1. Hoàng Trọng Thảng (2006), Bệnh tiêu hóa gan mật. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.

2.2. Nguyễn Khánh Trạch (2007), Điều trị học nội khoa tập 1. NXB Y học Hà Nội, trang 163-167.

2.3. Trường Đại học Y Hà Nội (2007), Nội khoa cơ sở. NXB Y học Hà Nội, trang 209-212.

2.4. Dennis L. Kasper (2008), Harrison’s principles of internal medicin, Mc Graw-Hill companies.

2.5. Frank A. Granderath , Thomas Kamolz, Rudolph Pointner (2006). Gastroesophageal reflux disease principles of disease, diagnosis and treatment. Springer Wren Newyork .

BSCKII:HUỲNH MINH NGỌC

Từ khóa » đo áp Lực Cơ Vòng Thực Quản