Tư Tưởng, đạo đức, Phong Cách Hồ Chí Minh Về Cán Bộ Và Công Tác ...
Có thể bạn quan tâm
Người cũng đặt ra yêu cầu đối với cán bộ phải là người có nhân cách, phát triển toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Những phẩm chất đó được Người khái quát trong 2 chữ “ĐỨC” và “TÀI”. Người chỉ rõ: “Có tài phải có đức, có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nhà nước. Có đức không có tài, như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích được ai”([2]). Trong đức và tài thì Người khẳng định đức là gốc: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khống lãnh đạo được nhân dân”([3]). Vì thế, Người rất quan tâm đến công tác xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Về đạo đức cách mạng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về đạo đức cách mạng, là biểu tượng sinh động, gần gũi, là tấm gương sáng ngời về thực hiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng với nhân dân. Tấm gương Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được nhân dân cả nước và nhân dân thế giới ca ngợi, noi theo.
Đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương yêu con người, sống có nghĩa, có tình; cần cù lao động; ngay thẳng, thật thà; đoàn kết, gắn bó tình làng nghĩa xóm; bang giao hữu hảo với các nước anh em. Đó là truyền thống quý báu của dân tộc. Truyền thống ấy trở thành bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam, trở thành sức mạnh vật chất, tinh thần của nhân dân ta từ nghìn đời nay trong chiến đấu và chiến thắng các loại giặc ngoại xâm, thiên tai.
Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng”([4]), “Đạo đức là gốc”, người cán bộ phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, mới có thể trở thành người cán bộ chân chính. Bởi vì: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”([5]). Đánh giá về vai trò của cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”([6]).
Đạo đức của người cán bộ cách mạng được thể hiện trước hết ở chỗ: Luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết, biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đạo đức cách mạng là sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, không hủ hóa, tham ô, không đặc quyền, đặc lợi. “Đạo đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Người chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” ([7]).
- Cần: Là “siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai([8]). “Muốn cho chữ cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”([9]). Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”([10]).
- Kiệm: Là “tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”([11]). Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của nhân dân, của nước, của bản thân mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm là phải kiên quyết không xa xỉ”([12]). “Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người”. Hồ Chí Minh yêu cầu “Phải cần kiệm xây dựng nhà nước”([13]).
- Liêm: Là “Trong sạch, không tham lam”([14]), là liêm khiết, “Luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công, của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”([15]). “Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm. Cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm mới có liêm được”([16]).
- Chính: Là “không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà”([17]). Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với việc. ĐỐI VỚI MÌNH phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[18], vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”. Đối với mình: Phải tìm học hỏi cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo... phải siêng năng, tiết kiệm”. ĐỐI VỚI NGƯỜI, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”. ĐỐI VỚI VIỆC, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình), dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to…”([19]).
- Chí công vô tư: Là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công bằng, không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Vì “chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm”, “là kẻ thù hung ác”, “nó rất gian giảo, xảo quyệt, nó kéo người ta xuống dốc không phanh”… Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng. Người thường nói: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân”([20]).
Trong suốt cuộc đời làm cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân, là tấm gương mẫu mực về đạo đức của người cách mạng, được thể hiện ở nhiều mặt, khắp các lĩnh vực công tác, sinh hoạt, đời sống thường ngày, có thể khái quát ở những điểm chính để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo, đó là: Lòng yêu nước, thương dân, tuyệt đối trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân; tinh thần quốc tế trong sáng; rèn luyện nếp sống văn minh, tiến bộ; luôn trau dồi; không ngừng rèn luyện bản lĩnh, năng lực công tác của người cách mạng; đấu tranh phê bình, tự phê bình, đấu tranh bảo vệ chân lý, phê phán cái xấu, cái phi đạo đức.
Về năng lực, chuyên môn (tài) của người cán bộ: Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải có năng lực (tài), nhưng TÀI phải được đi cùng với ĐỨC. Người nói: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ có những cán bộ có đức, có tài mới có đủ năng lực đảm đương công việc, dù công việc khó khăn, vất vả đến đâu, trong hoàn cảnh khó khăn thế nào cũng có thể hoàn thành. Năng lực của cán bộ, đảng viên được thể hiện ở trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết công việc, làm chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải thành thạo về chính trị và giỏi về chuyên môn. Người chỉ rõ, những cán bộ vừa “hồng”, vừa “chuyên” là những người để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân; “Phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau” ([21]). Người cũng đòi hỏi người cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực hành để hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Để có được một đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng, thì cán bộ phải luôn luôn học tập về mọi mặt để nâng cao trình độ. Cán bộ phải là những người tiên tiến, nếu bị tụt hậu thì không thể xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ"([22]). Người cho rằng, người cán bộ chỉ có đạo đức trong sáng cùng lòng nhiệt tình hăng hái sẵn sàng hy sinh thôi thì chưa đủ, mà còn phải có năng lực, trí tuệ, biết nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật của tự nhiên và xã hội vào hoạt động thực tiễn của mình. Năng lực đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người cán bộ cách mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả năng tổ chức động viên quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì cán bộ chính là cầu nối, là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ đến với nhân dân, nên đòi hỏi cán bộ phải có năng lực này, nếu không thì không xứng đáng là cán bộ cách mạng. Và để tuyên truyền thực hiện tốt được đường lối của Đảng và Nhà nước trong quần chúng, đòi hỏi cán bộ phải có năng lực thực hành dân chủ, nghĩa là phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, tin ở quần chúng và học hỏi ở chính quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, năng lực tổ chức thực hành của người cán bộ thể hiện ở những điểm là: quyết định vấn đề một cách cho đúng, tổ chức thi hành cho đúng và tổ chức kiểm soát cho đúng. Để quyết định vấn đề một cách cho đúng cần phải có năng lực, trí tuệ, nắm được thông tin và xử lý thông tin, đưa ra phương án để lựa chọn, quyết định. Người cho rằng, năng lực tổ chức thực hành còn thể hiện ở chỗ phải biết: "Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng"([23]).
Người cán bộ còn luôn phải học tập, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ lý luận bởi lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, kém lý luận thì gặp công việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo, không thấy rõ điều kiện khách quan, chỉ làm theo suy nghĩ chủ quan, nên thường thất bại; vì thế. Nhưng cũng phải tránh tình trạng lý luận suông, lý luận không xuất phát, không áp dụng được vào thực tiễn. Để nâng cao lý luận, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, mổ xẻ xem xét kỹ càng thực tiễn, để "làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn"([24]). Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ nâng cao lý luận không có nghĩa là thuộc lòng hay mô tả lý luận, mà phải khái quát, tìm ra quy luật của vấn đề, làm phong phú lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn. Đồng thời cũng đòi hỏi cán bộ tự giác xem học tập lý luận là một nhiệm vụ phải hoàn thành.
Về phong cách của người cán bộ, đảng viên: Theo Người, phong cách người đảng viên, cán bộ cách mạng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đức và tài trong tác phong, hành động của người cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức đi đôi tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi liền với hành động và hiệu quả thực tế. Người nói “Phải lấy hiệu quả thiết thực đã góp bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất” ([25]).
Đức và tài phải là những phẩm chất thống nhất của con người. Nếu đạo đức là tiêu chuẩn cho mục đích và hành động, thì tài là phương tiện thực hiện mục đích đó. Vì vậy, con người cần có cả đức và tài, nếu thiếu tài thì làm việc gì cũng khó, nhưng thiếu đạo đức thì vô dụng, thậm chí có hại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực phải thống nhất làm một. Trong đó, đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Người đòi hỏi tài năng phải gắn chặt và đặt vững trên nền tảng của đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường khuyên: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” ([26]).
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ có đức, có tài là người cán bộ có tác phong công tác, làm việc, sinh hoạt sâu sát thực tiễn, gần gũi nhân dân, mở rộng dân chủ, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn, thể hiện tinh thần trách nhiệm. Dù ở cương vị nào, làm công tác gì, khó hay dễ, chức vụ to hay nhỏ, cũng đem cả tinh thần và sức lực làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công; luôn nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng và làm tròn nhiệm vụ.
Cùng với đức và tài, người cán bộ còn phải có phong cách công tác quần chúng, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, khéo tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người yêu cầu cán bộ càng phải: “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi..., cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
Bởi vậy, để hoàn thành nhiệm vụ của mình, người cán bộ, đảng viên dù ở cương vị nào, hay lĩnh vực nào cũng phải tích cực học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt. Học tập càng khá, thì giải quyết các vấn đề càng dễ dàng, công việc càng trôi chảy. Để học tập tiến bộ, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học ở nhân dân là một khuyết điểm rất lớn”.
Để có phong cách của người cán bộ cách mạng để được dân tin yêu, kính trọng, người cán bộ tốt phải biết tránh xa những căn bệnh, những thói xấu thường gặp và dễ mắc phải, như: Bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi, bệnh ba hoa, bệnh cá nhân chủ nghĩa... Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý bệnh “cá nhân chủ nghĩa”, vì nó là một thứ “vi trùng rất độc”, nó là thứ “bệnh mẹ”, “do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm” ([27]). Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình để trở thành cán bộ tốt.
Về tính tiên phong, gương mẫu của người cán bộ: Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người là tấm gương mẫu mực về đạo đức và nhân cách người đảng viên cộng sản, luôn tiên phong, gương mẫu trong lời nói, việc làm, hành động; những điều đó đã kết tinh thành những giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phương pháp nêu gương để giáo dục cán bộ, đảng viên, làm gương cho nhân dân noi theo; để giáo dục và học tập lẫn nhau cùng xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới văn minh, tiến bộ.
Theo Người, để nêu gương, thì trước hết bản thân mình phải làm gương trong mọi việc từ nhỏ đến lớn, trở thành phong cách, thói quen tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày. Điều đó không thể tự nhiên mà có, mà phải do chính người cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày, thông qua quá trình phấn đấu không ngừng mới có được. Người nhiều lần nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” ([28]). Người yêu cầu cán bộ, đảng viên “Phải làm gương mẫu trong lao động, sản xuất và trong học tập” ([29]); “Phải xung phong gương mẫu trong mọi công việc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân” ([30]); “Phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói tay làm để làm gương cho nhân dân” ([31]). Từ đó, nhân dân cũng noi gương theo Đảng mà tin và làm theo. Thực tế chứng minh, phương châm ấy đã làm nên sức mạnh vô địch về trí tuệ, tâm hồn, khí phách người Việt Nam ta, đưa nhân dân Việt Nam vượt qua muôn vàn thách thức, đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Người chỉ rõ: Để mọi người noi gương thì bản thân cán bộ, đảng viên phải là “người tốt, việc tốt”, phải là “tấm gương tốt” về mọi mặt trong đời sống xã hội và trong công tác, thực sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. “Nêu gương” theo Người là phương pháp tốt nhất vận động quần chúng, thuyết phục quần chúng, tập hợp quần chúng làm cách mạng. Quần chúng nhìn cán bộ, đảng viên tiên phong làm trước, phấn đấu hy sinh vì mục tiêu cách mạng cao cả, họ sẽ tự giác nghe theo, tin và làm theo.
Người cho rằng, trong mọi công việc, người cán bộ phải đi đầu, từ chỉ đạo đến vận động, tập hợp lực lượng, triển khai thực thi nhiệm vụ. Trong quá trình lãnh đạo hay thực thi công việc, người cán bộ đều phải ở vị trí tiên phong, nêu gương, sẵn sàng xông pha đi đầu vào những nơi khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đối với các dân tộc phương Đông giàu tình cảm, thì một tấm gương sống, còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Phương Thảo
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
([1]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.309.
([2]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2001, tập 8. Tr.184.
([3]) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr.292.
([4]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.354.
([5]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.9, tr.354.
([6]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.5, tr.68.
([7]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.7, tr.220.
([8]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.6, tr.118.
([9]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.6, tr.118.
([10]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.13, tr.69.
([11]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.6, tr.122.
([12]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, t.6, tr.123.
([13]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.13, tr.69.
([14]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.6, tr.12.
([15]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.5, tr.292.
([16]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.6, tr.126.
([17] )Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.6, tr.129.
([18]) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t.6, tr.129-130.
([19]) Hồ Chí Minh: toàn tập, Sđd, t.6, tr.131.
([20]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.5, tr.292.
([21]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.5, tr.290 - 291.
([22]) Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2000, tr.224
([23]) Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2000, tr.288
([24]) Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.2000, tr.497
([25]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.13, tr.68.
([26]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.14, tr.400.
([27]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.5, tr.295.
([28]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.15, tr.546.
([29]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.13, tr.107.
([30]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.14, tr.110.
([31]) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, t.14, tr.168.
Từ khóa » Dân Chúng Nghĩa Là Gì
-
Từ Điển - Từ Dân Chúng Có ý Nghĩa Gì - Chữ Nôm
-
Nghĩa Của Từ Dân Chúng - Từ điển Việt
-
Từ điển Tiếng Việt "dân Chúng" - Là Gì? - Vtudien
-
Dân Chúng - Wiktionary Tiếng Việt
-
Dân Chúng Nghĩa Là Gì? - Từ-điể
-
Từ điển Tiếng Việt - Dân Chúng Là Gì?
-
Dân Chúng Nghĩa Là Gì Trong Từ Hán Việt? - Từ điển Số
-
'dân Chúng' Là Gì?, Từ điển Tiếng Việt
-
Dân Chúng Là Gì, Nghĩa Của Từ Dân Chúng | Từ điển Việt
-
DÂN CHÚNG - Nghĩa Trong Tiếng Tiếng Anh - Từ điển
-
Nhân Dân – Wikipedia Tiếng Việt
-
Tính Cách Mạng Trong Tư Tưởng Hồ Chí Minh - Tầm Nhìn, Bản Lĩnh Và ...
-
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về đại đoàn Kết Dân Tộc
-
Từ đồng Nghĩa Là Những Gì Cho Dân Chúng - Từ điển ABC