Tục Ngữ Về "Bồ Đề" - Ca Dao Mẹ

Những bài ca dao - tục ngữ về "Bồ Đề":
  • Thượng Ải Quan, hạ Bồ Đề

    Thượng Ải Quan, hạ Bồ Đề

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
      • Lịch sử
    • Thẻ:
      • Bồ Đề
      • ải Nam Quan
    • Người đăng: Phan An
    • 20 July,2015
  • Tiếng chuông lay bóng bồ đề

    Tiếng chuông lay bóng bồ đề Con chim trắng cánh bay về Tây Thiên Mong sao dân tộc bình yên Đạo lành che chở dân hiền thương yêu Dù cho đất sập trời xiêu Lòng tôi vẫn nhớ những điều giá gương Khắp nơi đồng ruộng phố phường Nhớ lời Phật dạy phải thương nhau cùng Đạo vàng điểm núi tô sông Xây nền văn hóa Lạc Hồng thắm tươi

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • đồng bào
      • tôn giáo
      • Bồ Đề
      • Lạc Hồng
      • Tây Thiên
      • đạo Phật
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 25 November,2013
  • Khi xưa tôi ở với cô

    Khi xưa tôi ở với cô Cô đập, cô đánh, cô xô tôi về Tôi về ngang gốc bồ đề Cô ra cô hỏi tôi về làm chi Tôi về bắt ốc, hái rau Mai sau tôi lớn, tôi giàu hơn cô

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Đấu tranh, phản kháng
    • Thẻ:
      • Bồ Đề
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 16 September,2013
  • Hỡi cô mà thắt bao xanh

    Hỡi cô mà thắt bao xanh Có về Kim Lũ với anh thì về Kim Lũ có hai cây đề Cây cao bóng mát gần kề đôi ta Tình sâu không quản đường xa Nhà anh cao rộng cũng là nhà em Nhà anh có con sông êm Cho em tắm mát những đêm mùa hè.

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Tình yêu đôi lứa
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Thăng Long - Hà Nội
      • Bồ Đề
      • Kim Lũ
    • Người đăng: Phan An
    • 26 June,2013
  • Cô kia thắt cái lưng xanh

    Cô kia thắt cái lưng xanh, Có vô Nam Định với anh thì về. Nam Định có cây bồ đề, Có giếng tắm mát cô về nhà chơi.

    Thông tin thêm
    • Chủ đề:
      • Tình yêu đôi lứa
      • Quê hương đất nước
    • Thẻ:
      • Nam Định
      • Bồ Đề
      • giếng nước
    • Người đăng: Nguiễn Sơn
    • 8 June,2013
Chú thích
  1. Ải Nam Quan Tên cửa ải cực Bắc của nước ta, nên còn gọi là ải Bắc. Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí:

    Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Ðại Nam Quan", phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có "Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Ðình tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có "Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ.

    Trong văn học nghệ thuật, lãnh thổ nước ta thường được mô tả là kéo dài "từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau." Tuy nhiên, hiện nay ải Nam Quan lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.

    Ải Nam Quan

    Ải Nam Quan

  2. Bồ Đề Tên một bến nước xưa thuộc làng Phú Viên (tức Bồ Đề) ở ven sông Hồng về phía Gia Lâm. Cuối năm 1426, Lê Lợi đem quân từ Lam Sơn (Thanh Hóa) ra đánh quân Minh, đã đóng quân ở đây để vây thành Đông Quan (tên thành Hà Nội thời quân Minh đô hộ). Ở đây có hai cây bồ đề lớn, nay không còn. Nghĩa quân Lam Sơn đóng quân quanh đấy nên doanh trại còn được gọi là "doanh Bồ Đề."
  3. Thượng Ải Quan, hạ Bồ Đề Theo một số tư liệu, câu này nói về Thân Vũ Thành (Thân Cảnh Phúc), tù trưởng động Giáp châu Lạng tức châu Quang Lang (hay châu Ôn, Lạng Sơn) (ngày nay thuộc Lạng Sơn). Ông lãnh đạo một đội quân người dân tộc dựa vào rừng núi, dùng chiến thuật du kích, tập kích sau lưng đạo quân nhà Tống, góp phần không nhỏ vào cho chiến thắng của nhà Lý trước nhà Tống năm 1077 ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Sau khi ông hi sinh, người dân lập nhiều đền, miếu thờ ông từ ải Nam Quan đến Bồ Đề.
  4. Bồ đề Còn gọi tắt là cây đề, một loại cây lớn, có ý nghĩa thiêng liêng trong quan niệm của Ấn Độ giáo, Kì Na giáo và Phật giáo. Tương truyền thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm ngồi thiền định dưới một gốc cây như vậy và đạt giác ngộ, trở thành một vị Phật (Thích Ca), từ đó cây có tên bồ đề (theo âm tiếng Phạn bodhi, có nghĩa là giác ngộ, thức tỉnh).

    Cây bồ đề

    Cây bồ đề

  5. Tây Thiên Hay Tây Vực, Thiên Trúc, Tây Phương, những tên gọi trong Phật giáo chỉ Ấn Độ, vì nước này nằm ở phía Tây của Trung Quốc.
  6. Điều giá gương Xem chú thích Nhiễu điều.
  7. Lạc Hồng Con Lạc cháu Hồng (Con của loài chim Lạc, cháu của dòng giống Hồng Bàng). Chim Lạc là một loài chim trong truyền thuyết, được xem là biểu tượng của Âu Lạc, nhà nước thứ hai trong lịch sử nước ta (sau Văn Lang của các vua Hùng). Hồng Bàng là tên gọi chung cho giai đoạn thượng cổ nước ta, chủ yếu dựa trên các truyền thuyết, truyện kể và một số ít bằng chứng khảo cổ học.

    Nhân dân ta tự nhận là con Lạc cháu Hồng. Từ "Lạc Hồng" đôi khi được đảo thành Hồng Lạc, tương tự như đối với "con Hồng cháu Lạc."

    Hình ảnh chim Lạc trên trống đồng

    Hình ảnh chim Lạc trên trống đồng

  8. Kim Lũ Một làng cổ thuộc huyện Thanh Trì, nay thuộc phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, bên bờ sông Tô Lịch. Ngoài tên Hán Việt Kim Lũ nghĩa là sợ tơ vàng, làng còn có tên Nôm là làng Lủ hay kẻ Lủ. Làng Lủ ngày xưa gồm ba xóm là Lủ Cầu, Lủ Trung và Lủ Văn, sau đó phát triển thành ba làng: Kim Giang, Kim Lũ và Kim Văn. Làng có truyền thống khoa bảng, là quê hương của các danh nhân Nguyễn Công Thái, Nguyễn Văn Siêu, Tản Đà...
  9. Nam Định Một địa danh nay là một tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Nam Định có bề dày truyền thống lịch sử và văn hoá từ thời kì dựng nước, là quê hương của nhiều danh nhân như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh, Trần Tế Xương, Nguyên Hồng, Văn Cao... Ở đây cũng có nhiều di tích, lễ hội dân gian, đặc sản...

    Đền Trần ở Nam Định

    Đền Trần ở Nam Định

Từ khóa » Thơ Về Lá Bồ đề