Văn Bản: Viếng Lăng Bác - Viễn Phương | Ngữ Văn 9

I. Những nét chính về tác giả – tác phẩm

1. Tác giả

– Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.

– Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam.

– Thơ Viễn Phương tập trung khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong công cuộc chiến đấu trường kì, gian khổ của dân tộc.

– Đọc Viếng lăng Bác, chúng ta có thể phần nào cảm nhận được phong cách sáng tác rất riêng của Thanh Hải: cảm xúc sâu lắng, thiết tha; giọng thơ nhỏ nhẹ, trong sáng; ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc.

Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến “Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay “Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”… Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ”. Quả thật như vậy, các sáng tác của Viễn Phương đã thể hiện rất rõ điều đó.

2. Tác phẩm Viếng lăng Bác

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là khoảng thời gian lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mới khánh thành. Viễn Phương là một trong số ít đồng bào chiến sỹ miền Nam sớm được ra viếng lăng Bác. Trước lăng Bác, trong phút xúc động thiêng liêng, sự thành kính, lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ này.

– Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” năm 1978.

b. Cảm hứng và mạch vận động bài thơ

* Cảm hứng bao trùm: là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi đau xót lẫn niềm tự hào.

* Mạch cảm xúc: đi theo trình tự của một cuộc vào lăng viếng Bác, từ khi đứng trước lăng đến khi bước vào Lăng và trở ra về. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương đất nước. Tiếp đó là cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở lại bên lăng Bác. Mạch cảm xúc như trên đã tạp nên một bố cục khá đơn giản, tự nhiên và hợp lý của bài thơ.

c. Bố cục bài thơ Viếng lăng Bác: Ba phần

– Phần một: Khổ 1: Cảm xúc ban đầu khi đứng trước lăng Bác.

– Phần hai: Khổ 2: Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác.

– Phần ba: Khổ 3: Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài Bác.

– Phần bốn: Khổ 4: Cảm xúc của nhà thơ khi từ biệt lăng Bác.

II. Trọng tâm kiến thức bài thơ Viếng lăng Bác

1. Cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác

Viễn Phương là một người con miền Nam, tham gia hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như nhiều đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi một ngày ra thăm Bác. Bởi vậy, khi đứng trước lăng Người, nhà thơ không giấu nổi niềm xúc động: cảm xúc bồi hồi pha lẫn nỗi xúc động sâu xa:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

– Với lời lẽ giản dị, câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn: Nhà thơ ở miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm mong mỏi nay cũng được về thăm Người.

Cụm từ “Con ở miền Nam” không chỉ nói đến khoảng cách địa lý mà còn muốn nói tới một chặng đường bao nhiêu năm chiến đấu hy sinh, Bắc – Nam chia cắt, ngày hôm nay mới được đoàn tụ, trở về báo tin vui cho Bác.

Sử dụng đại từ nhân xưng “Con – Bác”:

+ Đó là lối nói, lối xưng hô quen thuộc của người miền Nam để gợi sự gần gũi, thân thiết.

+ Thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt.

+ Gợi một liên tưởng, đó là Viễn Phương như một đứa con xa nay mới được trở về bên vị cha già của dân tộc.

Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh khi sử dụng từ “thăm” để thay cho từ “viếng”:

+ Để giảm bớt nỗi đau thương, mất mát của những đứa con xa về muộn.

+ Đồng thời, bất tử hóa hình tượng Bác trong lòng những người con miền Nam và đối với cả dân tộc Việt Nam.

=> Câu thơ giản dị như một lời kể, song nó lại gói gém bao tình cảm của người con miền Nam sau bao mong nhớ, đợi chờ mới được về thăm lăng Người.

Đứng trước lăng vị cha già kính yêu của dân tộc, ấn tượng đậm nét nhất trong lòng nhà thơ chính là hàng tre xanh mát:

“Đã thấy trong sương hàng tre hát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Từ cảm thán “Ôi!” biểu thị niềm xúc động, tự hào trước hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác.

Hình ảnh “hàng tre bát ngát” là một hình ảnh tả thực về quang cảnh quanh lăng Bác; đồng thời gợi sự gần gũi, thân thương của những xóm làng Việt Nam.

– Hình ảnh “hàng tre xanh xanh Việt Nam” là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng:

+ Tả thực một loại cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam.

+ Hàng tre ấy tượng trưng cho những con người, dân tộc Việt Nam với biết bao phẩm chất tốt đẹp: Bền bỉ, kiên cường, hiên ngang, bất khuất trước những khó khăn, thử thách.

+ Gợi tả một quân đội với tinh thần kiên cường, bất khuất, trong “bão táp mưa sa” vẫn đứng bên canh giữ giấc ngủ ngàn thu của Người.

Lối miêu tả “đứng thẳng hàng” gợi những hàng tre mang dáng dấp cứng cỏi, kiên cường, hiên ngang, bất khuất như tính cách của người dân Việt Nam.

Thành ngữ “bão táp mưa sa” gợi về những khó khăn, gian khổ mà nhân dân ta đã cùng nhau “chung lưng, đấu cật” để dựng nước và giữ nước.

=> Khổ thơ là niềm xúc động sâu sắc, niềm thành kính của Viễn Phương khi đến thăm và đứng trước lăng Bác.

2. Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác

Đứng trước lăng, sau ấn tượng về “hàng tre xanh xanh” là hình ảnh của dòng người vào lăng viếng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết ơn sâu nặng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

– Nghệ thuật sóng đôi: Giữa hình ảnh “mặt trời” thực và “mặt trời” ẩn dụ:

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng”, là hình ảnh thực. Đây là mặt trời của thiên nhiên soi sáng không gian vũ trụ và mang lại sự sống cho muôn loài.

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ: “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”, là hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ: Bác chính là mặt trời chân lí, soi sáng cuộc sống tối tăm, cơ cực, giúp dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ khổ đau, và mang đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

=> Từ đó, ta thấy được sự tôn kính, lòng biết ơn sâu sắc mà cả dân tộc dành cho Bác.

– Mặt trời thiên nhiên được nhân hóa với hai hành động: ngày ngày “đi qua trên lăng” và nhìn thấy mặt trời “trong lăng rất đỏ” đã tô đậm hơn tầm vóc vĩ đại của Người.

+ Mặt trời thiên nhiên – một thiên thể kì vĩ bậc nhất trong vũ trụ hàng ngày vẫn chiêm ngưỡng, cúi đầu và thán phục một mặt trời “trong lăng rất đỏ”.

+ Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì tổ quốc, vì nhân dân của Bác. Mặt trời đó sẽ mãi mãi soi sáng, sưởi ấm, tô thắm cho đời.

– Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày”:

+ Gợi một dòng thời gian vô tận, từ ngày này sang ngày khác, biết bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn cứ lặng lẽ vào lăng viếng Bác.

+ Mang giá trị tạo hình, gợi quang cảnh những đoàn người nối hàng dài vào lăng để viếng Bác.

– Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ, gợi liên tưởng đến dòng người vào lăng viếng Bác với tấm lòng thành kính, dâng trào như được kết từ hàng vạn trái tim, tấm lòng con người Việt Nam.

Hình ảnh hóa dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để chỉ 79 năm trong cuộc đời của Người và cũng là 79 mùa xuân Người mang lại mùa xuân tươi đẹp cho đất nước, cho nhân dân, cho cuộc đời.

=> Khổ thơ đã diễn tả được một cách sâu sắc tấm lòng của nhân dân cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

3. Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài Bác

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, thật tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

– Sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm, nói tránh để phủ nhận một sự thật đau lòng: Người đang ngủ một giấc bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Bác bất tử trong suy nghĩ của thi nhân nói riêng, và của toàn dân tộc nói chung.

Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền”:

+ Gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, nhân cách sống cao đẹp, sáng trong của Bác.

+ Bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc của tác giả dành cho Bác.

+ Gợi đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người: Cảnh khuya; Vọng nguyệt, Rằm tháng Giêng;…

Cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống để nhưỡng chỗ cho nỗi đau trào dân không thể kìm nén: 

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim”

– Nhà thơ tiếp tục sáng tạo ra những hình của vũ trụ bao la để ví với Bác.

– Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.

+ “Trời xanh”, trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực, đó là thiên nhiên gần gũi  với chúng ta, tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Và Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng.

+ Gợi nhắc về sự vĩ đại, cao cả, bất diệt của của Bác. Sự nghiệp của Người là bất tử.

– Dù tin như thế, lý trí đã khẳng định là như vậy nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác; vẫn không thể chấp nhận được nỗi mất mát quá lớn ấy: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

+ “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận đáy sâu tâm hồn mình, nỗi đau ấy uất nghẹn tột cùng không nói thành lời.

+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả sự mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Giữa tình cảm và lí trí có sự mâu thuẫn. Và con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng.

=> Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.

4. Cảm xúc của nhà thơ khi từ biệt lăng Bác

Nghĩ về ngày mai phải từ biệt Người để trở về miền Nam, Viễn Phương đã thương nhớ vô cùng:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

– Là một câu thơ mà cũng là một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời giã biệt ấy thật nghẹn ngào sâu lắng.

Từ chỉ thời gian “Mai” đi liền với địa danh “miền Nam” gợi sự chia xa, gợi khoảng cách, gợi cả tấm lòng, tình cảm của những người con miền Nam.

Lối nói “thương trào nước mắt” đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương da diết, cảm xúc đến cuộn trào gợi chiều sâu của sự gắn bó với miền Bắc, với Bác Hồ của những người miền Nam.

– Từ “trào” đã diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bị rịn của tác giả. Đó không chỉ là cái tự trào của riêng Viễn Phương, mà còn của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau mất Bác.

Trong niềm xúc động nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa được một lần gặp Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Nhịp điệu dồn dập và điệp từ “muốn làm” khởi đầu cho mỗi dòng thơ giúp nhà thơ tô đậm mức độ thiết tha, khao khát đến mãnh liệt của niềm mong ước.

Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”

+ Lớp nghĩa thực: Tác giả muốn góp cuộc đời mình để làm đẹp cho cảnh quan quanh lăng, ao ước được hóa thân thành con chim để cất tiếng hót làm vui lăng Bác; làm đóa hoa để đem lại sắc hương, tô điểm cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “muốn làm cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bát ngát, tỏa bóng mát cho lăng.

+ Lớp nghĩa ẩn dụ: Khát vọng ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho người; Bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc; góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang, trung hiếu của tâm hồn Việt Nam.

– Hình ảnh cây tre có tính tượng trưng, một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.

=> Bài thơ khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tạo nên một kết cấu đầu cuối tương ứng, nhằm bày tỏ khát vọng và tấm lòng nhà thơ dành cho Bác.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Viếng lăng bác là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Namvừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.

2. Nghệ thuật

– Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.

– Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối, nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.

– Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ  -biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và mang giá trị biểu cảm.

IV. Một số dạng đề tham khảo

Câu 1. Về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, sách Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam – 2017, trang 60 có viết: “Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.” Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ sau để làm sáng tỏ nhận định trên.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong làng rất đỏ. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ . Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

(Viếng lăng Bác, Viễn Phương, Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam – 2017, tr.58)

Câu 2. Phân tích đoạn thơ sau, trích Viếng lăng Bác – Viễn Phương và nêu suy nghĩ cùng định hướng của bản thân để xứng đáng với những hi sinh của Bác. 

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ. Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…

(Ngữ văn 9, Tập hai, Nxb Giáo dục Việt Nam)

Câu 3. Trình bày cảm nhận của anh (chị) về hai khổ thơ sau và nêu lên những suy nghĩ, hành động để xứng đáng với những công lao to lớn của Bác.

(…) ” Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này .”

(Trích “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương), Ngữ văn 9, tập hai, NXB Giáo dục, 2018)

Làm chủ kiến thức ngữ văn 9 – Luyện thi vào 10

Tác giả: Phạm Trung Tình

Từ khóa » Tìm Hiểu Về Bài Viếng Lăng Bác