Văn Bia Từ Chỉ Bằng Liệt Và Vị Khai Khoa Thăng Long Bùi Quốc Khái

Nghiên cứu Hán Nôm >> Chủ đề >> Văn khắc
Đinh Khắc Thuân
52. Văn bia Từ chỉ Bằng Liệt và vị khai khoa Thăng Long Bùi Quốc Khái (Tiên Du, Bắc Ninh) (TBHNH 2010)

Cập nhật lúc 15h51, ngày 19/10/2013

VĂN BIA TỪ CHỈ BẰNG LIỆT VÀ VỊ KHAI KHOA THĂNG LONG BÙI QUỐC KHÁI

ĐINH KHẮC THUÂN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Tại di tích miếu Gàn phường Hoàng Liệt quận Hoàng Mai, Hà Nội có một văn bia từ chỉ, ghi về các vị tiên hiền của xã Bằng Liệt huyện Thanh Trì, trong đó có vị Thái học sinh Bùi Quốc Khái thời Lý.

Bia hiện đang để tạm trước cửa nhà khách khu di tích miếu Gàn. Bia không còn bệ, chỉ có thân bia, cao 1,15m, rộng 0,65m. Bia khắc một mặt, trán bia chạm hình rồng cách điệu chầu mặt trời, diềm bên chạm doa dây. Văn bản chữ Hán, gồm 15 dòng. Niên đại dựng bia năm Giáp Thìn Cảnh Hưng thứ 45 (1784).

Nội dung văn bia như sau (lược bỏ nguyên văn chữ Hán và phiên âm):

Dịch nghĩa:

Văn bia phụng thờ xã Bằng Liệt huyện Thanh Trì

Văn thuộc giáp Lễ hội Tư văn xã Bằng Liệt huyện Thanh Trì phủ Thường Tín, gồm Tri huyện Thường Phái tử Nguyễn Trần Tiến, Nội giám phụng ngự Lưu Đình Cấp, Trùm trưởng Lưu Đình Huy, Lưu Bách Giảng, Lưu Bách Dụ cùng toàn thể trên dưới hội Tư văn.

Thường nghe văn vốn ở tại đây, lễ khởi xướng từ nghĩa. Kính cẩn thay, bậc tiên hiền bản xã ta họ Bùi tự là Quốc Khái, thi đình khoa Ất Tỵ đời vua Lý Anh Tông, có ba vị đỗ đầu thì ông đỗ thứ hai, làm quan đến chức Đô ngự sử. Đến nay có di bảo tại ruộng chùa ở xứ Trung Đồng, tỏa hương ngào ngạt, núi Đẩu ngưỡng vọng. Vì thế hội Tư văn mua thêm một khu đất tư ở xứ Ngõ Vĩnh Phúc dựng từ chỉ để làm nơi tế lễ dài lâu. Khi này, có ông Trùm trưởng cùng các viên mục bỏ ra ruộng tư để làm ruộng tế cho hội Tư văn lưu truyền mãi mãi. Thu tiền hoa lợi ở ruộng đó cúng lễ, từ nay về sau hàng năm hai kỳ tháng trọng mùa xuân, mùa thu và hai ngày tế Đinh, chuẩn bị đủ lễ vật dâng đến từ chỉ tế lễ.

Kính tế Bùi tướng công đỗ Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp Đệ nhị danh, Bảng nhãn khoa Ất Tỵ, làm quan chức Đô Ngự sử ở Ngự sử đài; cùng phối hưởng là Tả Thừa tướng Nguyễn tướng công, Hậu thần Chỉ huy Đồng tri Ngô tướng công, cùng các vị trúng thí các chức và các lệnh công đỗ Hương thí Tứ trường, Tam trường; các vị trùm trưởng, viên mục, hương sắc trên dưới cùng hâm hưởng. Các vị anh linh sinh trúng Đình nguyên, được thờ cúng muôn vạn năm, mãi mãi hương khói trường tồn cùng đất trời. Nhân đó khắc bia đá lưu truyền về sau.

Ngày 18 tháng 2 năm Giáp Thìn Cảnh Hưng thứ 45 (1784).

Rõ ràng đây là văn bia văn chỉ của Hội Tư văn xã Bằng Liệt huyện Thanh Trì được dựng vào năm Giáp Thìn đời vua Lê Hiển Tông (năm 1784). Cũng vì ở thời điểm này ghi lại khoa thi của Bùi Quốc Khái vào khoa Ất Tỵ thời Lý (năm 1185), nên đã theo truyền ngôn mà quy đổi ra các chức danh khoa bảng đương thời (thời Lê) như “Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp Đệ nhị danh Bảng nhãn...”.

Thực ra, nhà Lý tổ chức khoa thi đầu tiên vào năm Ất Mão- 1075, gọi là khoa Minh kinh bác học. Khoa thi này được chép trong chính sử như sau: “Ất Mão (1075). Mùa Xuân tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và Nho học Tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển cho vào hầu vua học”.

Tuy nhiên, sử liệu cũng không cho biết cụ thể hơn. Tiếp đó, chính sử còn ghi chép được 5 khoa thi vào các năm Bính Dần đời Lý Nhân Tông (năm 1086), Ất Dậu đời Lý Anh Tông (năm 1165), Ất Tỵ (năm 1185) và Quý Sửu (năm 1193) đời Lý Cao Tông. Do việc học, việc thi mới hình thành nên các khoa thi thời kì này chưa định cụ thể, từ 15 đến 20 năm mới có một khoa thi. Số người đỗ đại khoa là 11 vị.

Riêng khoa thi có Bùi Quốc Khái tham dự, được chính sử ghi như sau: “Ất Tỵ (1185), mùa Xuân, tháng Giêng, thi sĩ nhân trong nước, người nào từ 15 tuổi mà thông thi thư thì được vào hầu học ở Ngự diên. Lấy đỗ Bùi Quốc Khái, Đặng Nghiêm 30 người, còn thì đều ở lại học”.

Cũng chính vì sử liệu không ghi cụ thể, nên người đời sau quy đổi sang các chức danh tương tự như “Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp Đệ nhị danh Bảng nhãn”. Thực ra, tên gọi Bảng nhãn không ghi liền với chức danh “Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất giáp Đệ nhị danh”, mà chỉ tương ứng với danh vị này mà thôi. Ngoài ra, còn có sự nhầm lẫn về triều vua năm Bùi Quốc Khái thi đỗ là vua Lý Cao Tông chứ không phải Lý Anh Tông như văn bia đã ghi.

Dẫu sao thì, Bùi Quốc Khái đã tham gia kỳ thi của triều đình nhà Lý, khoa thi đó là năm Ất Tỵ (năm 1185) và được gọi chung là Minh kinh bác học, tiền thân của khoa thi Tiến sĩ sau này.

Về quê quán của Bùi Quốc Khái, tài liệu Đăng khoa lục ghi: "Bùi Quốc Khái, người xã Bình Lãng huyện Cẩm Giàng, nay là thôn Thu Lãng xã Ngọc Liên huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Đỗ khoa thi chọn người giỏi thi thư năm Ất Tỵ niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185) đời Lý Anh Tông" (Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, 2006, tr.36). Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Tăng Bá Hoành, thì tại làng Thu Lãng hiện nay không có di tích nào về Bùi Quốc Khái.

Thực tế, thì Đăng khoa lục cũng là tài liệu ghi chép về sau, nên rất khó tách bạch nơi sinh ra và nơi sinh sống, như Nguyễn Trung Ngạn đỗ Thái học sinh thời Trần được ghi quê ở xã Thổ Hoàng, huyện Ân Thi (Hưng Yên), nhưng vẫn còn quê khác là ở Nam Đàn, Nghệ An. Dòng tộc Nguyễn này xác nhận Thổ Hoàng là nơi ông sinh ra, còn Nghệ An là nơi ông từng làm quan sinh sống và để lại dòng tộc Nguyễn Trung ở đây.

Thực tế cho thấy, thời xưa, để quản lý con người, giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến một con người, dòng họ nào đó, Nhà nước thường truy tìm đến nguyên quán của họ. Khi đi thi, thí sinh phải khai lý lịch đến ba đời, khai cả quê gốc, mặc dù trên thực tế, nhiều người rất có thể đã không được sinh ra ở quê gốc của bố mẹ, hoặc có sinh ra, nhưng đã rời khỏi quê gốc từ rất sớm. Nhiều người gắn bó với quê mới nhiều hơn là với quê gốc. Rất nhiều vị Tiến sĩ khi đi thi thường phải khai theo nguyên quán cho đúng thủ tục, còn trên thực tế, họ đã được sinh ra, lớn lên, ăn học và đỗ đạt ở một làng quê thuộc địa bàn Hà Nội hiện nay. Nói một cách khác, môi trường chính để thành đạt hoặc nhanh chóng thành đạt của các nhà khoa bảng này là Thăng Long - Hà Nội. Trường hợp anh em của Thám hoa Vũ Thạnh, gốc ở làng Đan Loan huyện Đường An (nay thuộc xã Nhân Quyền huyện Bình Giang tỉnh Hải Dương) song đã chuyển lên phường Báo Thiên ở Kinh đô Thăng Long từ lâu, ăn học tại Thăng Long là ví dụ điển hình. Cách khai quê quán theo nguyên gốc của nhà nước phong kiến vẫn còn áp dụng việc kê khai lý lịch trong xã hội ta thời gian gần đây.

Từ những căn cứ trên, có thể đưa ra hai giả thiết:

- Một là, Bùi Quốc Khái có gốc gác từ làng Bình Lãng huyện Cẩm Giàng, sau định cư, sinh sống ở làng Bằng Liệt huyện Thanh Đàm.

- Hai là, gia đình Bùi Quốc Khái có gốc gác ở Bình Lãng, song đã chuyển lên Bằng Liệt và Bùi Quốc Khái đã được sinh ra tại đây, ăn học và thi đỗ tại làng kề cận Thăng Long.

Vì thế mà dân làng và hội Tư văn làng Bằng Liệt phụng thờ ông, tôn thờ ông là bậc tiên hiền của xã. Văn bia và lời truyền khẩu ở địa phương đều cho biết di mộ của ông tại xứ Trung Đồng, nên có vị Trùm trưởng Tư văn làng mua đất dựng từ chỉ phụng thờ ông và Hội Tư văn cúng ruộng làm ruộng tế của bản Hội.

Ông từng được dựng bia, phụng thờ ở Văn chỉ làng Bằng Liệt và hiện nay được nhân dân phường Hoằng Liệt dựng lại nhà Văn chỉ phụng thờ ông. Văn chỉ gồm 3 gian, lợp ngói, có trụ biểu khá khang trang. Tuy nhiên, bia cũ của Văn chỉ thì hiện vẫn để tạm ở hiên nhà khách khu di tích miếu Gàn. Thiết nghĩ, dòng tộc Bùi cần kết hợp với chính quyền và nhân dân địa phương chuyển dựng bia này vào trong nhà Văn chỉ mới dựng, nơi có bài vị thờ Bùi Quốc Khái.

Tài liệu tham khảo

1. Bùi Xuân Đính,:Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội, Nxb. Thanh Niên, H. 2005.

2. Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 2006.

3. Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, Tập II, Nxb. KHXH, H. 1998.

4. Đinh Khắc Thuân: Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu Hán Nôm, Nxb. KHXH, H. 2009./.

(Thông báo Hán Nôm học 2010, tr.369-373)

In
Lượt truy cập:

Từ khóa » Họ Bùi Chữ Hán