Văn Mẫu Lớp 8: Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhớ Rừng Của Thế Lữ Dàn ý ...

TOP 11 bài Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn tâm trạng phẫn uất, chán chường và mong muốn tự do cháy bỏng của chúa sơn lâm khi bị giam cầm.

Nhớ rừng

Bài thơ Nhớ rừng đã mượn lời con hổ để nói lên tâm trạng chung của người dân Việt Nam thời bấy giờ, với khát khao tự do mãnh liệt, cùng tình yêu nước cháy bỏng. Vậy mời các em cùng tham khảo để có thêm nhiều vốn từ.

Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

  • Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng
  • Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng (2 mẫu)
  • Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn
  • Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ (9 mẫu)
  • Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng dưới góc độ thi pháp

Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng

Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng

Dàn ý cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng

1. Mở bài

* Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:

  • Giới thiệu tác giả: Thế Lữ là một trong những cây bút nổi tiếng của phong trào Thơ mới.
  • Giới thiệu tác phẩm: "Nhớ rừng" là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình.

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh ra đời:

  • Được viết năm 1934.
  • Được in trong tập "Mấy vần thơ" và được xuất bản năm 1935.

b. Tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú

  • Tâm trạng phẫn uất của hổ: được thể hiện ở khổ thơ đầu tiên với các từ ngữ như "gậm một khối căm hờn", "khinh lũ người kia"...
  • Hổ nhớ về thời vàng son, oanh liệt của mình: nhớ về nơi rừng thiêng với "bóng ngả cây già", với những khúc trường ca dữ dội của thiên nhiên cùng những khung cảnh thiên nhiên kỳ vĩ, tráng lệ, nhiều ánh sáng, màu sắc, âm thanh.
  • Hổ quay trở lại thực tại cùng những tiếng thở dài đầy ngao ngán: "Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu".

c. Đánh giá chung:

  • Thể thơ tự do, hình ảnh thơ kỳ vĩ, tráng lệ → hình ảnh một chúa sơn lâm đầy ám ảnh trong lòng độc giả.
  • Đặt thời gian sáng tác bài thơ vào hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ → bài thơ còn là tiếng nói, là khát vọng tự do của đông đảo quần chúng nhân dân giá trị nhân đạo cũng như tình yêu quê hương đất nước của nhà thơ.

......

Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn

Một trong những nhà văn xuất sắc có mặt ngay từ những ngày đầu là Thế Lữ. Nhiều tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển của thơ mới, đáng chú ý nhất là tác phẩm của Nhớ Rừng.

Trong Nhớ rừng, Thế Lữ bày tỏ sự phẫn nộ, buồn chán và mong muốn tự do cháy bỏng thông qua tâm trạng của con hổ trong sở thú. Đó cũng là lời tâm sự chung của những người yêu nước Việt Nam trong tình trạng mất đất nước.

Cùng chung thái độ nổi loạn, Thế Lữ đã viết những dòng thơ trong bài thơ Nhớ rừng. Mượn lời của một con hổ tại sở thú để thể hiện tâm trạng của riêng bạn. Thế Lữ đã thiết lập một cảnh tả rất thực tế và ẩn sâu bên trong. Tất cả những hình ảnh được đề cập trong bài viết là không gian xung quanh cuộc sống của con hổ.

Thực tế là con hổ bị nhốt trong cũi sắt và nó cảm thấy rằng cuộc sống của nó tràn ngập sự phẫn nộ trong điều kiện nuôi nhốt, những cảnh "tầm thường sai lầm" tại sở thú. Do đó, nó cảm thấy hoài cổ về quá khứ huy hoàng trong những ngọn núi và khu rừng hùng vĩ. Đây là hai cảnh hoàn toàn mâu thuẫn giữa thực tế và quá khứ.

Hổ ban đầu được coi là chúa tể của tất cả các sinh vật, nhưng bây giờ vì mùa thu, chúng phải sống "sự sỉ nhục" trong cũi sắt. Không gian sống của vua rừng đã bị thu hẹp và kể từ bây giờ đã được biến thành một "trò chơi lạ mắt", một "trò chơi" trong mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị vì sống ở một nơi không tương thích với việc trở thành một vị vua núi.

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắtTa nằm dài trông ngày tháng dần qua”

Con hổ cảm thấy bất lực vì không có cách nào thoát khỏi cuộc sống chật chội, vì vậy nó không thể không nhìn thời gian trôi qua vô ích. Nhưng bất kể hoàn cảnh nào, người thuộc về "con vật thiêng liêng" luôn biết danh tính thực sự của mình như một vị thần.

Chán nản làm thế nào cảnh phải sống cạnh nhau với "những con gấu điên", với "những tờ báo vô tư ở bên cạnh"! Làm thế nào để chịu đựng cuộc sống từ chức để chấp nhận số phận của "những người bạn" trong cùng một hoàn cảnh. Đó là nỗi buồn, sự tức giận nén lại để làm cho lòng căm thù chứa đựng trong trái tim. Mệt mỏi, mệt mỏi, bất lực! Trong những hoàn cảnh đáng thương này, con hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ vinh quang của mình:

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớThuở tung hoành hống hách những ngày xưaNhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây giàVới tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núiVới khi thét khúc trường ca dữ dội”

Con hổ hối hận khi nhớ lại kỷ nguyên "ông chủ" nơi "bóng cây cổ thụ". Đó là nỗi nhớ đau đớn về khu rừng sâu thẳm. Nhớ về khu rừng là tiếc nuối sự tự do, nhớ về "thời gian vinh quang", là nhớ về quý tộc, chân thực, tự nhiên. Ở đất nước trẻ hùng vĩ đó, con hổ đang thống trị một lực lượng ở giữa cuộc sống.

Sự dũng cảm của một vị vua miền núi luôn xứng đáng với sức mạnh tối cao của mình với sức mạnh lớn. Những gì nó phải làm là làm cho mọi thứ sợ hãi thuần hóa. Ở đó, con hổ xuất hiện với tư thế kiêu hãnh và kiêu ngạo nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp hùng vĩ giữa những ngọn núi hùng vĩ:

“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàngLượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngVờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắcTrong bóng tối mắt thần khi đã quắcLà khiến cho mọi vật phải im hơiTa biết ta chúa tể của muôn loàiGiữa chốn thảo hoa không tên không tuổi”

Vẻ đẹp thực sự của hổ là ở đây! Từng bước một, từng mảng cơ thể, mỗi con mắt gợi lên một sự uy nghi và mềm mại hùng vĩ. Trong mỗi hành động, những con thú khác đã cho mọi thứ thấy sức mạnh tối thượng khiến mọi người "câm miệng". Cuộc sống trong tự do trong rừng mãi mãi là một điều rất cao quý. Có những con hổ thực sự tận hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên dành cho. Đó là khoảnh khắc con hổ "say", nhìn sự thay đổi của "Giang Sơn", đang ngủ và muốn chiếm lấy "phần bí mật".

Nó thoải mái ở đất nước của mình và khẳng định giá trị thực sự của cuộc sống với vẻ đẹp lộng lẫy, thơ mộng và cũng đầy quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả chỉ là những ký ức trong quá khứ. Hổ chưa bao giờ nhìn thấy cảnh "đêm vàng bên dòng suối", nhìn thấy "những ngày mưa bước sang bốn ngàn", nghe tiếng chim hót, đắm mình trong "bình minh, cây xanh và nắng. rửa ", đang chờ đợi" mảnh chết của mặt trời "của buổi chiều" lấp lánh máu phía sau khu rừng ".

Những cảnh đó chỉ để lại cảm giác hối hận trong con hổ, bị nhét vào bởi cảm xúc mạnh mẽ, tràn ngập của những câu hỏi đau đớn. Nỗi nhớ dài dòng với những cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ vinh quang trong một tiếng khóc cay đắng:

“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu”

Sống lại với những ký ức đẹp trong những ngọn núi và khu rừng hùng vĩ, con hổ đột nhiên nhận ra sự tầm thường sai lầm của những cảnh nơi nó sống. Trong vẻ kiêu ngạo của con hổ là những cảnh "không bao giờ thay đổi", những cảnh đơn điệu nhàm chán được chỉnh sửa bởi mọi người và cố gắng "bắt chước".

Vua của rừng rậm thể hiện thái độ khinh miệt và khinh miệt đối với những cảnh nhỏ bé và thấp kém của những lời nói dối nhân tạo. Nó không phải là một nơi xứng đáng để sống như một người cai trị. Ngay cả khi chúng ta cố gắng sửa chữa nó, thì đó chỉ là những "dải nước đen không chảy" dưới những "gò đất thấp kém", những "bông hoa chăm sóc, những mỏm cỏ, những con đường bằng phẳng, thực vật" không có gì là "bí ẩn" "hoang dã". Những cảnh sống ngụy trang này khiến những con hổ thậm chí còn hối tiếc hơn khi chúng nhớ đến nơi "ngàn năm cao cả và tối tăm".

Ghê tởm với cuộc sống thực, ôm lấy sự oán giận liên tục, con hổ khát một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả cảm xúc của con hổ thuộc về khu rừng tối tăm hàng ngàn năm. Cũng thông qua đó, vua núi đã gửi một thông điệp một cách nghiêm túc về những ngọn núi và rừng.

Mặc dù đang suy tàn, nhưng con hổ không thể che giấu niềm tự hào của mình khi nói đến "đất nước trẻ hùng vĩ". Giang Sơn là nơi những chú hổ đã có một ngày vui và vật lộn trong một không gian riêng biệt, rộng rãi. Ngay cả bây giờ họ sẽ không bao giờ được hồi sinh ở những nơi cũ, nhưng con hổ vẫn không bao giờ ngừng nghĩ về "giấc mơ lớn". Vị thần thất sủng đã cầu xin được sống mãi trong ký ức, ký ức về vẻ đẹp bất 400m:

“Để hồn ta phảng phất được gần ngườiHỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi”

Trái tim của con hổ là lời thú nhận của chàng trai trẻ, The Lu, mơ về một quá khứ cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ mới, mang theo mong muốn sống của con người.

Hãy nhớ rằng Forest không thể thoát khỏi nỗi buồn, "căn bệnh của tuổi tác" vào thời điểm đó. Nhưng bài thơ là duy nhất bởi vì nó tạo ra một điểm gặp gỡ giữa sự phẫn nộ của những người mất nước và tâm trạng bất hòa bất lực đối với thực tế của giới trí thức tư sản trẻ tuổi. Qua đó khơi dậy mong muốn tự do chính đáng.

Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh tâm, Hãy nhớ rằng Khu rừng đã lan tỏa một tâm hồn thơ mộng và nhiều hình ảnh thơ mộng ấn tượng mô tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Lu là thể hiện trí tưởng tượng phong phú khi anh mượn hình ảnh của một con hổ trong sở thú để nói về sự bí mật sâu sắc của mình. Qua đó thể hiện sự căm ghét cuộc sống chật chội, đồng thời khơi dậy tình cảm yêu nước của người dân lúc bấy giờ.

Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 1

Trước hết, ta cần hiểu vì sao tác giả bài thơ lại mượn "lời con hổ ở vườn bách thú"? Chú thích cho một hình tượng thơ có lẽ không ngoài một dụng ý: Tránh đi sự suy diễn, hiểu lầm. Hình tượng con hổ cho dù có là một sự hoá thân của thi sĩ, nó vẫn là một chủ thể trữ tình, nhất quán và toàn vẹn. Đó là phần nổi của bài thơ. Còn phía sau, phần chìm có thể liên tưởng đến hai lớp nghĩa có cả ý thức giải phóng cá nhân (cái tôi), có cả tâm trạng nhớ tiếc, ru hoài của một dân tộc đang bị xiềng xích, đang khao khát tự do, với thái độ phủ nhận thực tại mà hướng về quá khứ oanh liệt vàng son. Bởi vậy, khi phân tích bài thơ không thể bỏ qua cái nhìn chính diện.

Cái nhìn đối mặt với cảnh ngộ bị cầm tù của con hổ, cơ sở của niềm u uất không nguôi, là một cái nhìn đầy bi kịch. Tính chất bi kịch này cần được hiểu theo hai cấp độ: Một là hoàn cảnh đổi thay, nhưng con hổ không đổi thay. Sự "không đổi thay" của con hổ ở cả hai phương diện chủ quan và khách quan: Một mặt nó không cam chịu hạ mình và một mặt nữa: Nó không chấp nhận hoàn cảnh. Không chịu hạ mình vì con hổ luôn ý thức mình là một bậc đế vương, ngự trị trên cái ngai vàng vĩnh hằng của bậc vua chúa. Còn thái độ không chấp nhận hoàn cảnh cũng là từ đó mà ra: Chấp nhận môi trường sống đã đổi thay, nó không còn là chính nó. Không chấp nhận, không tự đổi thay tạo nên độ chênh và sự giằng xé dữ dội. Tâm trạng nguyên khối ấy tượng hình lên một con hổ với niềm u uất không nguôi chạy đọc bài thơ, đi vào từng câu thơ như những hồng cầu để nuôi cơ thể.

Hai đoạn thơ nói về hoàn cảnh đã đổi thay (đoạn 1 và đoạn 4) tạo nên xung đột, một xung đột không thể dung hoà, thật là ngột ngạt. Nhưng trong cái vòng xoáy của tâm tư ấy, mỗi đoạn thơ là một nỗi đau riêng. Có nỗi đau của sự bất đắc chí, bị "sa cơ", lỡ vận phải rơi vào cảnh ngộ trớ trêu (đoạn 1), phải chấp nhận một cảnh ngộ không thể nào chấp nhận: Vừa giả tạo vừa tầm thường (đoạn 4). Đối lập thứ nhất (đoạn 1) là đối lập giữa hai giống loài không thể nào là "ngang bầy", là đồng loại, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với cặp báo yên phận, vói bọn "gấu dở hơi". Ý thức về sự không thể "ngang bầy" nay đang phải chịu "ngang bầy" tạo nên cú sốc đầu tiên vô cùng chua chát:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Khác với hình thức của câu thơ thất ngôn kiểu cũ, câu thơ tám chữ đó là một sự cách tân, nhưng sự đột biến của cuộc cách mạng thi ca phái nói đến âm điệu, ở tỉ lệ những thanh bằng, thanh trắc của câu. Trong câu thơ Đường luật, tỉ lệ đó ngang bằng hoặc xấp xỉ ngang bằng, có sự phối hợp đan xen, còn đây tần số những thanh bằng bị áp đảo, không những thế, các thanh trắc đều dồn trọng tải vào đầu và cuối câu như những gọng kìm rắn chắc, những kim khí va chạm nhau. Uất ức và bất lực là tâm thế của các sinh vật bị giam cầm, nhất là với giống loài không chịu đựng được xiềng xích, giam cầm như loài hổ. Bất lực uất ức công với bất lực buồng xuôi là đặc tả chân dung đầy ấn tượng ở hai câu đầu. Nó được phân bố tinh vi đến từng âm tiết. Nếu câu đầu, những âm thanh chối tai đặc quánh lại thì đến câu sau, nó mất hút, nó bị thay thế: Những thanh bằng buông xuôi, trải rộng, lan xa không còn sinh khí nữa. Cái khinh và cái tức của con hổ chỉ còn được nén lại trong lòng như một nỗi niềm u ẩn. Nó cứ dày thêm trầm tích của niềm đau. Không phải ngẫu nhiên trong đoạn thơ tiếp nối sáu câu, có đến bốn câu nói đến loài người. Đành rằng ở đây, giữa con hổ với con người, giữa con hổ với đồng loại (gấu, báo) đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, nhưng có lẽ niềm căm phẫn với con người, với giống người mới đủ sức tạo nên một giọng thơ hằn học. Là bởi vì với con hổ thì loài báo, loài gấu vốn là những con vật hiền lành, vô hại, nhưng với con người đã diễn ra một tương quan đối nghịch giữa thắng và thua.

Mà sự thua thắng này, oan uổng thay, không do thực tài thực sức (có lẽ loài người chỉ hơn loài hổ ở sự túc trí đa mưu). Cái lẽ ra phải thua đã thắng, đôi mắt hạt đậu đã có thể chế giễu cả rừng thiêng. Sự hạ nhục đối với loài hổ, đau đớn thay là vị thế phải tôn thờ, sùng bái (ông ba mươi) chỉ còn là "trò lạ mắt, thứ đồ chơi". Còn câu thơ nói về cặp báo, bọn gấu chẳng qua chỉ là một thứ vĩ thanh của cái mặt bằng hèn kém mà con hổ phải rơi vào. Nếu đoạn một của bài thơ nói về sự đổi thay vị trí thì đoạn bốn của bài thơ nói về tâm trạng của con hổ khi phải đối mặt với cái mà nó không muốn đối mặt. Tâm trạng ấy giống như một quả bóng bị xì hơi, ấy là tâm trạng của giống chim trời bị trói cánh. Cũng là cảnh rừng thiêng nhưng chỉ là sự "học đòi bắt chước vẻ hoang vu", nó tầm thường nhạt nhẽo. Nó có đủ nhưng thật ra không có gì, vì cảnh thiên nhiên tưởng như là có cả, nhưng linh hồn của nó thì không:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòngLen dưới nách những mô gò thấp kém…

Nếu sự đổi mới của thơ ca bắt đầu từ nhịp điệu, thì đây là một trường hợp mở đầu, một ví dụ điển hình. Nếu ngắt nhịp, ta có câu một: 2/2/2/2, câu hai: 5/3, câu ba: 3/5 thật là phóng túng. Nó diễn tả sự chật chội, bị bó buộc, gò bó cần phải phá tung ra để nói được cái thật của cảm nghĩ, cái khao khát được tháo cũi sổ lồng.

Ghìm nén và tung phá, ấy là xung lực đồng khởi của từng đoạn thơ. Nó cũng còn là cảm hứng của toàn bộ bài thơ nếu nhìn một cách vĩ mô tổng thể. Ngay sự đan cài giữa cái hôm nay và cái hôm qua, cái mất, cái còn, cái nhạt tẻ và cái huy hoàng ngày xưa của nó, tất cả đều hỗ trợ cho nhau, soi chiếu vào nhau mà trở nên lấp lánh. Tuy nhiên, về cơ bản, bài thơ như một hoài niệm. Ngày xưa mới là cái đích cuối cùng, là cứu cánh. Cội rễ mà niềm say đắm hướng về không phải là hôm nay mà từ hôm nay hướng về hôm qua, về cái một đi không trở lại: "Nơi ta không còn được thấy bao giờ", "Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa". Tiếng nấc nghẹn ngào ấy hướng về cái phía rừng thiêng – nguồn cội của niềm tự hào khi "hầm thiêng" đang là bá chủ.

Phủ nhận cái trước mắt, cái hiện thời, lối thoát chỉ còn hai hướng: Trở về quá khứ hoặc ngưỡng vọng tới tương lai. Con hổ không có tương lai, nó chỉ còn quá khứ. Đối lập hai vùng không gian ấy, cảm hứng lãng mạn trào dâng những giai điệu say mê. Quá khứ đã trở nên một vầng hào quang chói lọi khác thường do những tưởng tượng được đẩy lên đến mức tột cùng sảng khoái. Thơ mới nói riêng và chủ nghĩa lãng mạn nói chung đã tự tạo cho mình một miền đất, một khoảng trời riêng để tự do vùng vẫy. Cái lớn lao, cái dữ dội, cái phi thường trong màn sương bí ẩn lung linh, huyền ảo của quá khứ hiện ra có ý nghĩa giải thoát "một khối căm hờn" không tan của hiện tại. Ấy là một quá khứ rất đặc trưng của loài hổ: Cả thời gian, cả không gian, cả niềm nhớ tiếc cái thuở huy hoàng một đi không trở lại. Các yếu tố thuộc ngoại cảnh và thuộc nội tâm trên đây được nhào nặn lại nhằm khắc hoạ, làm nổi bật chủ thế trữ tình là nhân vật tự gọi là "ta" nhưng thực chất là "cái tôi" bừng thức, "cái tôi" trung tâm của một "thời oanh liệt". Cảnh rừng thiêng vì sao có lúc được gợi ra với "bóng cả, cây già", khi thì bóng tối âm thầm với "lá gai cỏ sắc", cả những cỏ hoa không tuổi không tên? Ba cung bậc của tự nhiên gắn với độ trường cửu, vĩnh hằng, với sự hoang dã, âm u và với cả một nền hoa cỏ vô danh nhằm tôn vinh một nhân vật thần thánh mà tất cả phải cúi đầu "Ta biết ta chúa tể cả muôn loài". Nhân vật thần thánh đường bệ, uy nghiêm ấy hiện ra bằng một bức tranh đặc tả, cả ngoại hình và sức mạnh bên trong ghê gớm. Một bước chân của loài hổ, một vũ điệu lượn vờn tự nhiên của nó không giống đồng loại, không giống một ai. Sự phong phú và nhất quán trong hệ thống động tác ngoại hình này là để chuẩn bị cho một phút cao trào khi tất cả trở thành sở hữu riêng của nó, do nó chế ngự:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bơi trong dòng hoài niệm miên man không phải là vô cớ. Chính con hổ cũng tự nhận: "Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ". Những câu thơ tám chữ vốn có dung lượng lớn hơn câu thơ thất ngôn được liên kết bằng những từ nối ở đầu nhịp, đầu câu chẳng phải là vô tình như những điệp khúc bắc cầu cho "tình thương nỗi nhớ" ấy dài ra:

Nhớ cành sơn lâm, bóng cả, cây già,Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

Cũng đều là những hoài niệm về quá khứ, nhưng đoạn ba không giống với đoạn hai vì trước hết nó gắn với nỗi xót xa, nhớ tiếc (còn đoạn hai là đặc tả chân dung). Nỗi nhớ tiếc đến quặn thất nỗi lòng ấy tạo ra bởi ngữ điệu riêng. Những chữ "đâu" như xát muối cứ như kiếm tìm vào một hoang vắng, xa xôi đứng ở đầu câu để kết thúc bằng những dấu hỏi tu từ như oán than, như ngơ ngác:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn…Đâu những bình minh…

Cũng là cái thực (trong quá khứ) với con hổ, nhưng từ đoạn hai, rồi đoạn ba, và kết thúc bằng đoạn năm, cái thực ấy cứ bị đẩy đi để mỗi lúc một xa hơn. Cảm xúc thơ mỗi lúc một chới với. Chỗ đứng thời gian không còn xác định nữa, câu thơ vội vàng, gấp gáp như níu kéo lại một chút gì đó của ngày xưa.

Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 2

Bài thơ mượn lời một con hổ ở vườn Bách thú, đề tài đầy kịch tính. Cảnh ngộ là một thân tù hèn mọn, bất lực, hồn vía là một chúa sơn lâm. Ông chúa này đã hết thời đập phá hung dữ đòi tự do. Ông chúa đã thấm thía sự bất lực và ý thức được tình thế của mình, cam chịu cảnh gặm nhấm một mối căm hờn, nằm dài trông ngày tháng qua, mặc cho thân thế bị tụt xuống ngang cấp với các loài hèn kém. Nhìn bề ngoài, người ta có thể nói con hổ này đã được thuần hóa, chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Nhưng đấy chỉ là bề ngoài thôi, còn thế giới bên trong của mãnh thú, tội nghiệp thay, vẫn ngùn ngụt lửa. Bút pháp lãng mạn của Thế Lữ có dịp tung hoành, có dịp chứng tỏ sức diễn đạt phong phú của Thơ mới khi dựng lại khung cảnh kỳ vĩ trong mộng tưởng của chúa sơn lâm.

Mối bi kịch thân ở nơi tù, hồn ở giang sơn cũ đã tạo nên chất men ngưỡng mộ đối với hoài niệm. Qua tâm linh của loài hổ, rừng núi hiện lên trong vẻ kỳ vĩ đắm say. Kỳ vĩ vì thâm nghiêm bóng cả cây già, kỳ vĩ vì dữ dội oai hùng với các từ gào, hét, thét, dữ dội; kỳ vĩ hoang vu bí ẩn: Hang tối, thảo hoa không tên tuổi, riêng phần bí mật.

Trong cảnh núi rừng kỳ vĩ đó hiện lên hình ảnh oai linh của chúa sơn lâm. Trọng tâm của bức tranh rừng này là con hổ. Nhưng trước khi để hổ hiện ra, Thế Lữ đã dựng cảnh để gợi không khí oai hùng, kinh sợ. Vào đúng lúc tiếng gào thét của thiên nhiên đang ở đỉnh cao dữ dội, chúa sơn lâm xuất hiện. Đầu tiên chỉ thấy bàn chân, một bước chân dõng dạc, đường hoàng. Câu thơ như đoạn phim cận cảnh quay chi tiết, thu hút sự chú ý của khán giả. Sau bàn chân là tấm thân, xuất hiện rất từ tốn nên càng oai hùng, to lớn. Chiều dài của tấm lưng trải ra theo câu thơ, một sự mềm mại tích chứa sức mạnh.

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngVờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Cách miêu tả từng động tác, lại là những động tác có chọn lựa của bàn chân, tấm thân và ánh mắt đã thể hiện được sự chế ngự của mãnh thú trước phông cảnh. Mấy câu thơ sau đã hoàn tất nốt bức chân dung chúa sơn lâm. Cái oai của chúa rừng còn chế ngự cả cảnh vật khi chúa đã đi qua khiến cho mọi vật đều im hơi. Câu nói kiêu hãnh của loài hổ không có gì quá đáng:

Ta biết ta chúa tể cả muôn loàiGiữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Chỉ một đoạn thơ này đã đủ nói cái quá khứ oai hùng, giang sơn nhất khoảnh của chúa rừng. Thế Lữ còn dư sức bút, một đoạn nữa, cũng chủ ý ấy nhưng chi tiết lấy từ sinh hoạt của ác thú. Óc tưởng tượng của nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới thật phong phú, từ chi tiết thật của đời thú, ông đã dựng được chân dung tâm hồn của vị chúa tể. Có bốn cảnh: Đêm trăng – ngày mưa – sáng xanh – chiều đỏ. Bức tứ bình này (Thế Lữ cũng là hoạ sĩ đã từng học Cao đẳng mỹ thuật) ít chi tiết, nhưng nét đậm rõ, màu lên từng mảng lớn, trong cảnh có cả âm thanh khi tưng bừng tươi sáng, khi câm lặng bí ẩn. Bút pháp tả cảnh ở đây hiếm thấy trong thơ Việt Nam. Vẫn là tả tập tính của thú nhưng sức gợi của câu thơ rộng xa, giúp người đọc thấy cái hồn của cảnh và “tâm trạng” con thú.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suốiTa say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Sự im lặng thiêng liêng có chút ghê rợn nhưng thật kỳ ảo quyến rũ: Bên suối trăng một mãnh thú uống nước, rình mồi. Tác giả nâng uy quyền của chúa rừng bằng cách để hắn đối diện với thiên nhiên, tạo hóa trong cả bốn bức tranh đó – đối diện với trăng, với mưa, với bình minh, với hoàng hôn. Và ở cả bốn khung cảnh, con hổ đều ở thế chế ngự – chú ý các động từ tả hoạt động của hổ trong bốn cảnh:

Say mồi đứng uốngLặng ngắm giang sơnĐợi mặt trời chết, để chiếm lấy

Đẹp nhất, dữ dội, bi tráng nhất là cảnh hoàng hôn. Bức tranh rực rỡ trong gam đỏ: Đỏ của máu lênh láng, đỏ của mặt trời gay gắt. Tác giả dùng chữ mảnh để gọi mặt trời, tưởng như mặt trời cũng bé đi trong mắt nhìn loài hổ. Không khí chết chóc bao trùm, gợi lên do máu lênh láng, do giây phút hấp hối gay gắt của mặt trời. Chỉ ít phút nữa vũ trụ sẽ chết lặng, ngự trị trong bóng tối, chỉ còn có oai linh của hổ. Đấy là điểm cao trào nhất của quyền lực, gần như sự bất tử. Từ trên đỉnh cao huy hoàng của hồi tưởng, hổ đã sực tỉnh cái thân tù:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?.

Lời than có sức lay động và ngân vang do sự tương phản ấy. Hùm thiêng khi đã sa cơ. Bản thân sự hồi tưởng này đã cụ thể hóa cảnh ngộ của câu thơ: Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt. Mỗi lần hồi tưởng là một lần ý thức thêm sự bất lực, là một lần gặm nhấm thất bại.

Nhiều người đã bình luận có lý về ý nghĩa xã hội của bài thơ: Hổ trong cũi sắt nhớ tự do là biểu tượng cho tình cảm của người dân Việt mất nước. Bài thơ có ý nghĩa thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí tự tôn dân tộc một cách kín đáo. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy ý nghĩa đó, chúng ta chưa thấy hết bài thơ và cũng rất nên đề phòng trường hợp khi đi vào ý nghĩa xã hội, ta dễ sa vào bình tán mà tách dần khỏi hình tượng thẩm mỹ vốn có của bài thơ. Đoạn cuối bài thơ không xuất sắc bằng các đoạn trên, nhưng lại bộc lộ rõ khuynh hướng tư tưởng của bài thơ qua tâm sự chúa sơn lâm:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâuGhét những cảnh không đời nào thay đổiNhững cảnh sửa sang, tầm thường giả dốiHoa chăm, cỏ xén; lối phẳng, cây trồngDải nước đen giả suối, chẳng thông dòngLen dưới nách những mô gò thấp kémDăm vừng lá hiền lành, không bí hiểmCũng học đòi bắt chước vẻ hoang vuCủa chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Niềm uất hận đương nhiên là vì tù túng, nhưng cái uất nhất do sự tù túng gây nên là phải chấp nhận cái tầm thường. Hổ nhớ rừng không chỉ là nhớ tự do mà còn là, theo tôi lại là chủ yếu nếu căn cứ theo văn bản của bài thơ, nhớ cái cao cả, cái chân thực, cái tự nhiên. Tới đây, chúng ta gặp thuộc tính của chủ nghĩa lãng mạn: Buồn tẻ, đơn điệu, bé nhỏ trong tầm tay trần tục của con người: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng. Xuân Diệu thuở ấy từng mơ ước:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tốiCòn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

Đây không phải là chỗ để luận cái đúng sai của nhân sinh quan này, chỉ xin nói tới nó như một đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Thế Lữ cũng thường say đắm những cảnh siêu phàm, những tương phản rất xa nhau của thiên nhiên:

Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác đổNét mong manh, thấp thoáng cánh hoa bay.

Thơ Thế Lữ, do vậy, nhiều lần đắm vào cảnh tiên. Niềm khát khao của con hổ nhớ rừng là khát khao trở về với cái kỳ vĩ, siêu phàm, không chung sống được với cái tầm thường, thấp kém giả tạo. Đó cũng là vẻ đẹp của nhân cách, tuy rằng mang nỗi-khát khao ấy trong mình là đã mang niềm thất vọng, vì cái phi thường của các nhà lãng mạn cũng là cái phi thực. Vả lại, siêu phàm cũng dễ đồng nghĩa với cô đơn.

Nỗi lòng của Hi mã lạp sơn trong thơ Xuân Diệu cũng là nỗi lòng con hổ trong cũi sắt của Thế Lữ, nó thuộc về bản chất của chủ nghĩa lãng mạn. Quá nhấn mạnh, đến chỉ thấy ý nghĩa xã hội, e làm hẹp đi chất nhân bản của bài thơ và cũng làm mờ đi qui luật thẩm mỹ của chủ nghĩa lãng mạn. Còn một lý do nhỏ nữa: Tự do của con hổ là tự do của một ông chúa, ta biết ta là chúa tể của muôn loài, khát khao tự do của hổ, qua một hình tượng của bài, là khát khao ngự trị, khát khao tước đoạt tự do của kẻ khác. Cho nên coi hổ trong cũi là thân phận của dân tộc ta e có chỗ khó giải thích khi nói tới tính thống nhất của hình tượng.

Nhớ rừng” là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào ‘Thơ mới”. Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ “Nhớ rừng” đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỉ qua.

Con hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. Nó đang nằm trong cũi sắt vườn Bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vô cùng cay đắng uất hận “gậm một khối căm hờn”, muốn cắn nát, muốn nhai vụn mọi uất ức căm hờn đã tích tụ, đã chứa chất thành “một khối” trong lòng bấy lâu nay. Không căm hờn sao được khi phải “nằm dài trông ngày tháng dần qua” trong cũi sắt? Không uất ức, cay đắng sao được khi chúa sơn lâm “oai linh rừng núi” đang bị lũ người ”giương mắt bé giễu”, đang trở thành “thứ đồ chơi”, với cặp báo “vô tư lự’ trong vườn Bách thảo? Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cay đắng, căm hờn của con hổ mất tự do đầy ám ảnh:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắtTa nằm dài trông ngày tháng dần quaNay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

Qua đó, ta càng thấy rõ: “Anh hùng thất thế sa cơ cũng hèn” (Truyện Kiều)’, ta càng thấm thìa: “Trên đời nghìn vạn điều cay đắng – cay đắng chi bằng mất tự do” (Nhật kí trong tù).

Năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng. Nhớ “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”, nhớ vương quốc “miền đất thiêng” mà “ta” ngự trị:

“Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”

Nhớ tư thế cao sang, oai hùng của “ta”. Một cái bước chân. Một tấm thân lượn sóng. Một cái vờn bóng… Tất cả đều “dõng dạc, đường hoàng”. Một chữ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh tự hào của chúa sơn lâm:

“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc”.

Quyền uy của “ta” là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải “im hơi” khi “mắt thần” của ta “đã quắc’.”Ta biết” giữa chốn thảo hoa, “ta chúa tể cả muôn loài”:

“Trong hang tối, mắt thần khi đã quắcLà khiến cho mọi vật đều im hơiTa biết ta chúa tể cả muôn loàiGiữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi”.

Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.

Hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời oanh liệt. Cảnh vật tráng lệ. Nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn......Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?“

Các luyến láy, điệp ngữ: “đâu những đêm vàng…”, “đâu những ngày mưa…”, “đâu những bình minh…”, “đâu những chiều…”, “nay còn đâu” xuất hiện nối tiếp trong năm câu hỏi tu từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt nay đã trở thành hoài niệm, quá vãng. Chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng. Nhớ cảnh giang san trong màn mưa rừng. Nhớ “cây xanh nắng gội”. Nhớ chim hót tưng bừng lúc bình minh. Nhớ mặt trời gay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn. Nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buồn bị tước đoạt mất tự do, cũng là nỗi khát khao tự do. Thế Lữ đã sáng tạo nên những vần 1 thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc để thể hiện nỗi nhớ rừng của hùm thiêng sa cơ… Một tiếng than như xiết lấy lòng người, khêu gợi và lay tỉnh:

“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?“

Bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất hận biết đến bao giờ có thể nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu”.

Hổ “nhớ cánh sơn lâm, bóng cả, cây già” rồi “uất hận” căm ghét những cảnh “không đời nào thay đổi”, tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa “tầm thường giả dối”, nhỏ bé:

“Hoa chăm, cỏ xén, lối thẳng, cây trồng; Dài nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém”. Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do “lũ người kia ngạo mạn” bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi “cảnh nước non hùng vĩ’. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:

“Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trịNơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”.

Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo “giấc mộng ngàn”. Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:

“Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

“Nhớ rừng” là một trong mười bài thơ hay nhất của “Thơ mới” (1932-1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kì vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc “nhớ rừng” dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.

Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934), tâm trạng tủi nhục, đau đớn, uất hận… của con hổ nhớ rừng đồng điệu với bi kịch của nhân dân ta đang rên xiết trong xích xiềng nô lệ. Nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. Bài thơ mang hàm nghĩa như một lời nhắn gửi kín đáo, tha thiết về tình yêu giang sơn đất nước. Tư tưởng lớn nhất của bài thơ là cái giá của tự do. Hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.

Cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 3

Một trong những cây bút xuất sắc có mặt ngay từ lúc ban đầu là Thế Lữ. Rất nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ Mới mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ Rừng.

Ở trong Nhớ Rừng, Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.

Trong những ngày đầu mới ra đời, phong trào Thơ Mới đã có những sự phát triển trong cả phong cách và nội dung. Trên các chặng đường phát triển, Thơ Mới đã dần giải phóng khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ có tính “phi ngã” của thi ca cổ điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng chính những giác quan, những cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc xuất hiện cái tôi rõ nét trong thơ. Ở đó là sự vươn lên của những cảm xúc mãnh liệt của con người vượt thoát khỏi thực tế khách quan. Chính vì vậy Thơ Mới có khuynh hướng thoát ly thực tại, thể hiện tâm trạng bất hòa, bất lực trước thực trạng xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng đã bộc lộ sự phản kháng gay gắt trước thực tại tầm thường giả dối, tù túng giam hãm ước mơ con người.

Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa. Tất cả hình ảnh được nhắc đến trong bài đều là không gian xoay quanh cuộc sống của con hổ. Thực tế là con hổ đang bị giam hãm trong một cũi sắt và nó cảm nhận cuộc sống của mình chứa đựng những u uất ngao ngán trong cảnh giam hãm tù túng, những cảnh “tầm thường giả dối” ở vườn bách thú. Chính vì thế, nó cảm thấy tiếc nhớ về quá khứ oanh liệt nơi núi rừng hùng vĩ. Đó là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau giữa thực tại và dĩ vãng.

Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể của muôn loài, nhưng nay vì sa cơ mà phải chịu sống cảnh “nhục nhằn” trong cũi sắt. Không gian cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu hẹp và từ nay bị biến thành một “trò lạ mắt”, một “thứ đồ chơi” trong con mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị nhạt nhẽo bởi đang phải sống nơi không tương xứng với tư cách của một vị chúa sơn lâm.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắtTa nằm dài trông ngày tháng dần qua

Hổ đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào thì kẻ thuộc “giống hùm thiêng” cũng luôn biết thân phận thực sự của mình là một vị chúa. Ông ba – mươi đã tỏ thái độ khinh mạn, coi thường trước những sự thiếu hiểu biết về sức mạnh thật sự của thiên nhiên của những con người “ngạo mạn ngẩn ngơ” chỉ biết “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”. Chán nản làm sao cảnh phải chịu sống ngang bầy cùng với “bọn gấu dở hơi”, với “cặp báo chuồng bên vô tư lự”! Làm sao chịu được cảnh sống cam chịu chấp nhận số phận của những “người bạn” đồng cảnh ngộ. Đó là nỗi buồn, nỗi uất hận dồn nén để làm nên những hờn căm chất chứa trong lòng. Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, con hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớThuở tung hoành hống hách những ngày xưaNhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây giàVới tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núiVới khi thét khúc trường ca dữ dội

Con hổ đã tiếc nhớ về thuở “hống hách” nơi “bóng cả cây già”. Đó là nỗi nhớ đau đáu về nơi rừng thẳm. Nhớ rừng là tiếc nhớ tự do, nhớ về “thời oanh liệt”, là nhớ về cái cao cả, chân thực, tự nhiên . Ở chốn nước non hùng vĩ ấy, con hổ đang ngự trị một sức mạnh giữa cuộc đời. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao của mình với sức mạnh phi thường dữ dội. Những gì nó cần phải làm là khiến mọi vật đều phải nể sợ thuần phục. Ở đó, con hổ đã hiện lên với tư thế hiên ngang ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp oai phong lẫm liệt giữa núi rừng hùng vĩ:

Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàngLượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngVờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắcTrong bóng tối mắt thần khi đã quắcLà khiến cho mọi vật phải im hơiTa biết ta chúa tể của muôn loàiGiữa chốn thảo hoa không tên không tuổi

Vẻ đẹp thật sự của hổ là đây! Từng bước chân, từng tấm thân ,từng ánh mắt đã khơi gợi lên một vẻ vừa dũng mãnh uy nghi vừa nhẹ nhàng uyển chuyển. Trong từng hành động, loài mãnh thú kia đã cho mọi vật thấy được sức mạnh tuyệt đỉnh khiến cho tất cả phải “im hơi”. Cuộc sống tự do giữa chốn rừng thẳm mãi mãi là một điều rất cao quý. Ở đó hổ thực sự được hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên đã dành cho. Đó là những thời khắc mãnh hổ đang “say mồi”, đang ngắm sự đổi thay của “giang sơn”, đang say giấc và đang muốn chiếm lấy riêng “phần bí mật” .

Nó đã được thoải mái trong chính giang sơn của mình và khẳng định giá trị thật sự của cuộc sống với những khung cảnh lộng lẫy tươi đẹp nên thơ và cũng đầy sức quyến rũ. Nhưng bây giờ, tất cả cũng chỉ còn là những hoài niệm thuộc về quá khứ. Hổ chẳng bao giờ còn được chứng kiến những cảnh “đêm vàng bên bờ suối”, được nhìn thấy cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, được nghe thấy tiếng chim ca, được đắm mình trong cảnh “bình minh cây xanh nắng gội”, được đợi chờ “chết mảnh mặt trời” của những chiều “lênh láng máu sau rừng”. Những cảnh ấy chỉ để lại trong con hổ những cảm giác tiếc nuối, ngậm ngùi trong sự xúc động mạnh mẽ, dồn dập của những câu hỏi đau đớn xót xa. Nỗi nhớ miên man tuôn trào với cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ huy hoàng trong một tiếng than thảm thiết:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu

Được sống lại với những ký ức tươi đẹp ở chốn núi rừng hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thường giả dối của những khung cảnh nơi nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của hổ là những cảnh “không đời nào thay đổi”, những cảnh đơn điệu nhàm chán do con người sửa sang và cố đòi “bắt chước”. Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của những sự giả dối nhân tạo. Đó không phải là nơi xứng đáng để sống của một đấng thống lĩnh. Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó cũng chỉ là những “dải nước đen giả suối chẳng thông dòng” lên dưới những “mô gò thấp kém”, là những “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” không có gì là “bí hiểm” “hoang vu”. Những cảnh sống ngụy tạo ấy khiến cho hổ càng tiếc nhớ chốn “ngàn năm cao cả âm u”.

Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gửi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng. Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn “nước non hùng vĩ”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc mộng ngàn to lớn”. Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài niệm của những vẻ đẹp một đi không trở lại:

Để hồn ta phảng phất được gần ngườiHỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi

Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.

Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hòa bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.

Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ Rừng đã lan tỏa một hồn thơ hối thúc và nhiều hình ảnh thơ đầy ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là đã thể hiện một trí tưởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ cho những tâm sự kín đáo sâu sắc của mình. Qua đó diễn tả nỗi chán ghét cảnh sống tù túng, đồng thời khơi lên tình cảm yêu nước của người dân thuở ấy.

.....

Cảm nhận bài thơ Nhớ rừng dưới góc độ thi pháp

Nhớ rừng là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ Nhớ rừng đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỷ qua.

Thi pháp Nhớ rừng có kết cấu độc đáo, tạo hiệu ứng thẩm mỹ đặc biệt. Đó là sự đan cài hai không gian thẩm mỹ riêng biệt và tương phản, trái ngược nhau bằng cảm nhận của nhân vật trữ tình, ta – con hổ, trong tâm trạng nhớ rừng. Bởi nhớ rừng nên cảnh rừng được ngợi ca như là cái đẹp của tự do, phóng khoáng, mạnh mẽ, tung hoành. Theo đó, cảnh ở vườn bách thú bị đẩy vào đầu mút đối lập với cảnh rừng, là cảnh giả dối, tù túng, chật hẹp, quẩn quanh, ngột ngạt.

Kết cấu đó được tạo nên bởi hai mảng không gian trái ngược: Mảng thứ nhất là không gian rừng qua nỗi nhớ và tái hiện của nhân vật con hổ. Đó là không gian tự nhiên với những vẻ đẹp bản thể của nó trong sự phối kết giữa những sắc thái hoang dại mà hùng vĩ; phong phú, đa dạng, sinh động cả về âm thanh, đường nét, hình khối, sắc màu. Nỗi nhớ rừng xưa gọi về, tái hiện không gian đầy sức cuốn hút, hấp dẫn của tự do: Cảnh lâm sơn, bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, lá gai, cỏ sắc, đêm vàng bên bờ suối, mưa chuyển bốn phương ngàn, bình minh cây xanh nắng gội, chiều lênh láng máu sau rừng… Nổi bật lên trong mảng không gian này là chân dung, khí phách, tinh thần của nhân vật hổ:

Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàngVờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,Là khiến cho mọi vật đều im hơi,Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Một số thời gian có dấu ấn đặc biệt cũng được gọi về trong nỗi nhớ ngập tràn lòng tự hào và kiêu hãnh:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suốiTa say mồi đứng uống ánh trăng tan?Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngànTa lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?Đâu những chiều lênh láng máu sau rừngTa đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Mảng thứ hai là không gian nơi vườn bách thú, không gian của ngục tù, chật hẹp, tù túng, giả tạo, buồn chán và tẻ nhạt. Mảng không gian này được thể hiện bằng các chi tiết tiêu biểu: cũi sắt, hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng, dải nước đen chẳng thông dòng, là hiền lành không bí hiểm; đối lập và trái ngược với mảng không gian thứ nhất bởi không gian của rừng già là mênh mông, hoang sơ, hùng vĩ, tươi đẹp, thì không gian này gò bó, chật hẹp; không gian rừng là tự do, phóng khoáng thì không gian này là tầm thường, giả dối:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;Giải nước đen giả suối chẳng thông dòngLen dưới nách những mô gò thấp kém;Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vuCủa chốn ngàn năm cao cả, thâm u.

Trong mảng không gian của hiện tại này, ta cũng xuất hiện, nhưng trong tâm thế uất hận gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, trái ngược với ngày xưa tung hoành, hống hách, dõng dạc, đường hoàng… Xuyên suốt trong hai mảng không gian địa lý ấy là mạch không gian tâm trạng và mỹ cảm của nhân vật ta. Trong kiểu không gian này, nhân vật ta tự kể, tự miêu tả, tự bộc lộ cảm xúc. Do vậy, bên cạnh bức tranh thiên nhiên trong hai mảng không gian trái ngược nhau, còn có chân dung tự họa của nhân vật trữ tình. Chính tính tư tưởng và thẩm mỹ của bài thơ phần lớn được bộc lộ trong những dáng nét của không gian tâm trạng và mỹ cảm của nhân vật trữ tình.

Phối kết với không gian là thời gian của quá khứ và hiện tại. Thời gian của quá khứ là huy hoàng, tự hào, hạnh phúc, viên mãn; thời gian của hiện tại là uất ức, nhạt nhẽo, buồn tẻ, vô vị. Nhiều kiểu câu được lặp lại cấu trúc, trong có những từ ngữ chỉ thời gian như nào đâu, đâu những…, được day đi day lại; những câu hỏi tu từ như những vết xoáy nỗi đau vừa để ngợi ca, tiếc nhớ ngày xưa, vừa để phủ nhận thực tại.

Thi pháp giọng điệu và ngôn từ của Nhớ rừng cũng là những phương diện thể hiện sự sáng tạo của tác giả, tạo ấn tượng tốt tới độc giả và góp phần quan trọng trong việc diễn tả thái độ, tình cảm và tư tưởng. Giọng điệu thơ vừa hùng hồn, khảng khái vừa buồn hận, sầu thương. Trong những kí ức về ngày xưa thì nhịp thơ nhanh, mạnh; với bây giờ thì chậm, buồn.

Ngôn từ thơ là cả những lớp sóng liên tiếp, dồn dập mang xúc cảm của nhân vật trữ tình đang dâng tràn cả ở hai thái cực đối lập trong quá khứ huy hoàng, kiêu hãnh, tự do và hạnh phúc, với hiện tại ngục tù, gò bó, chật hẹp, giả dối và buồn chán. Toàn bộ hệ thống ngôn từ của bài thơ là ngôn từ của nhân vật, nhân vật ta.

Tóm lại, với cái nhìn hướng về cõi rừng ngày xưa trong nỗi nhớ thương những vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nó, tương phản với cảnh nơi vườn bách thú, thi pháp kết cấu của Nhớ rừng được xây dựng thành hai mảng đối lập nhau về tình điệu thẩm mỹ. Theo đó, giọng điệu, ngôn từ cũng mang hai dòng chính là vừa hào sảng, hùng tráng vừa uất hận, buồn thương, tương ứng với hai mảng không gian và thời gian nghệ thuật của ngày xưa với bây giờ, nơi rừng sâu núi thẳm với chốn vườn bách thú. Nhớ rừng là bài ca về tự do, về giá trị đích thực của cuộc sống; là sự phê phán, phủ nhận cuộc sống nô lệ, tầm thường và giả dối.

...

>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại

Từ khóa » Nhớ Rừng Quê Hương Thuộc Thể Thơ