Về Tình Tiết định Tội, định Khung Của Tội “Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy”

Ngày 01/6/2020, Công an huyện X, tỉnh Y bắt quả tang H đang sử dụng ma túy tại nhà, kết quả giám định xác định ma túy với khối lượng 0,3 gam, loại Heroin.

Về nhân thân: H có tiền án về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm a, b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 (nay là Điều 251 BLHS năm 2015), bị Tòa án nhân dân huyện X tuyên 9 năm tù; đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 10/5/2019, chưa được xóa án tích.

Đối với vụ việc này, có ý kiến cho rằng, cần truy tố H về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết theo các điểm a, c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

....

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...”

Ý kiến này ủng hộ việc xác định H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3 gam Heroin và trước đó H đã bị kết án về Tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm a, b Điều 194 BLHS năm 1999 (nay là Điều 251 BLHS năm 2015), bị Tòa án huyện X tuyên 9 năm tù, đã chấp hành xong, chưa được xóa án tích, nên cần truy tố H theo điểm a, c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 giống như giải đáp vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Phần IV Công văn số 5887/VKSTC-V14 ngày 05/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao).

Tuy nhiên, ý kiến thứ hai cho rằng, việc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 để truy tố bị can H và không áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 là không phù hợp với nguyên tắc chung khi xử lý vụ án hình sự. Bởi vì, tiền án chỉ được dùng làm tình tiết định tội trong trường hợp hành vi vi phạm không đủ định lượng cơ bản để xử lý hình sự. Ví dụ: Hành vi trộm cắp tài sản dưới 2.000.000 đồng hoặc đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, nếu người thực hiện hành vi có tiền án về các tội phạm tương ứng thì tiền án này được dùng làm tình tiết định tội trộm cắp tài sản hoặc đánh bạc và nhiều tội phạm khác có cấu thành tương tự.

Điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 chỉ được áp dụng trong trường hợp người có hành vi vi phạm với khối lượng ma túy không đủ định lượng được quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 của điều luật này. Nếu khối lượng ma túy dưới mức định lượng mà không có các điều kiện như đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án chưa được xóa án tích theo điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 thì hành vi đó không cấu thành tội phạm mà chỉ bị xử lý hành chính hoặc biện pháp hành chính. Trong trường hợp khối lượng ma túy đủ định lượng từ điểm b đến điểm i khoản 1 điều luật này thì tiền sự được xem là nhân thân xấu, tiền án được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Dựa trên những lập luận đó, ý kiến thứ hai cho rằng H có hành vi tàng trữ trái phép 0,3 gam Heroin nên cấu thành tội phạm theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, không thuộc trường hợp điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, mặc dù đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về Tội mua bán trái phép chất ma túy.

Ngoài ra, quan điểm này cũng nhận định trường hợp “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này… mà còn vi phạm” được xem là nhân thân xấu nhưng bị dùng làm tình tiết cấu thành tội phạm khi hành vi vi phạm đủ định lượng theo quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 là trên mức cần thiết, chưa đúng tinh thần chung của pháp luật.

Như vậy, việc áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 còn có vướng mắc, do điểm này chưa quy định rõ về đối tượng áp dụng. Bên cạnh đó, trong quá trình áp dụng pháp luật cần phân biệt rõ tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Thông thường, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, trước hết phải xác định hành vi của người nào đó có phạm tội không, nếu có thì phạm tội gì, nghĩa là phải định tội danh đối với hành vi đã thực hiện. Sau đó, xác định xem hành vi phạm tội đó thuộc khung hình phạt nào, rồi mới xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi một khung hình phạt.

Khi áp dụng lý thuyết khoa học hình sự vào tình huống thực tiễn nói trên, cần phân biệt tình tiết “đã bị kết án... chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” là tình tiết định tội với tình tiết “tái phạm” hoặc “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trong một số điều luật, nhà làm luật quy định tình tiết “đã bị kết án ... chưa được xoá án tích” cùng với các tình tiết khác là tình tiết định tội của tội phạm khi hành vi vi phạm chưa đủ định lượng. Ví dụ, các điều 172, 173, 174, 175, 321, 322… BLHS năm 2015. Do vậy, cũng chưa thể coi những trường hợp đó là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm để áp dụng tình tiết định khung hình phạt tăng nặng (tái phạm nguy hiểm) hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm).

Tương tự như vậy, đối với tình huống thực tế ở trên, H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng là 0,3 gam Heroin đã thỏa mãn được tình tiết định tội được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 mà không cần đến dấu hiệu “… đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 để truy cứu trách nhiệm hình sự với H khi H tàng trữ trái phép chất ma túy chưa đủ định lượng quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 theo đúng tinh thần chung của pháp luật. Hành vi của H cần phải bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm do đã thỏa mãn điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 53 và điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 giống như ý kiến thứ hai đã nêu ở trên./.

Từ khóa » điểm I Khoản 1 điều 249 Bộ Luật Hình Sự