Vướng Mắc Khi áp Dụng điểm A, Khoản 1, Điều 249 "Tội Tàng Trữ Trái ...
Có thể bạn quan tâm
Tuy nhiên, tại điểm a khoản 1 Điều 249 “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;...”
Trong thực tiễn áp dụng đã có những cách hiểu khác nhau:
* Cách hiểu thứ nhất cho rằng: Đây là một trong những tình tiết định khung, do đó khi một người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng, thể tích được quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này mà có các điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, thì ngoài việc áp dụng một trong các điểm từ b đến điểm i, còn phải áp dụng thêm điểm a khoản 1 mới đầy đủ.
Bởi vì các lý do sau đây:
- Thứ nhất: Xét quy định của Điều 249, khoản 1 là khung hình phạt cơ bản và khi thuộc một trong các trường hợp theo điểm a đến điểm i thì có người thực hiện hành vi tàng trữ chất ma túy sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này có nghĩa, các trường hợp này có vị thế ngang nhau trong việc thể hiện tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Trong đó có hai trường hợp:
+ Đã bị kết án về tội này hoặc các tội quy định tại Điều 248, 250, 251, 252 BLHS chưa được xóa án tích mà lại vi phạm.
+ Heroine, Cocaine, Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam…
Đây là hai trường hợp độc lập với nhau, trường hợp đầu tiên không đặt ra đòi hỏi về khối lượng của chất ma túy được tàng trữ. Dấu hiệu “lại” vi phạm thể hiện tính chất nguy hiểm của việc lặp lại và điều này làm cho hành vi tàng trữ khối lượng nhỏ chất ma túy có tính chất nguy hiểm nằm trong cùng một khung mức độ nguy hiểm với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi đạt khối lương theo các trường hợp khác.
Do đó, vì nhân thân bị cáo “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Và hành vi bị cáo “tàng trữ trái phép ma túy” nếu đủ định lượng là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm từ b đến i khoản 1 Điều 249 BLHS 2015.
- Thứ hai, so sánh với quy định về “Tội trộm cắp tài sản” tại Điều 173 BLHS: Chúng ta có thể thấy chúng có những điểm chung. Cụ thể khoản 1 Điều 173 quy định có hai trường hợp lớn:
+ Một là giá trị tài sản trộm cắp từ 2.000.000 đến 50.000.000;
+ Hai là giá trị tài sản dưới 2.000.000 nhưng: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc... chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Ở trường hợp thứ hai, quy định này cũng không hề đặt ra một giá trị nhất định mà chỉ nói là dưới 2.000.000, vậy thì 10.000, 5.000 cũng là dưới 2.000.000 đồng và nếu đủ điều kiện thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
Tương tự như vậy, quy định tại Điều 249 mặc dù không nêu rõ nhưng chúng ta có thể xác định được hai trường hợp lớn:
+ Khối lượng chất ma túy được tàng trữ phải đạt mức độ nhất định (điểm b đến điểm i);
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc đã bị kết án chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Như vậy, nếu khối lượng đạt đến một mức độ nhất định, hành vi này đã bị truy cứu trách nhiệm theo các điểm từ điểm b đến điểm i và khi khối lượng dưới những mức tối thiểu đó, nếu thuộc trường hợp lớn thứ hai, người này vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này.
Do đó, điểm a khoản 1 Điều 249 không đặt ra dấu hiệu về khối lượng tối thiểu của chất ma túy được tàng trữ.
- Thứ ba, áp dụng tinh thần theo quy định tại tiểu mục 3.6 mục 3 phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP: “Người nào tàng trữ Methamphetamine từ 01 gam đến dưới 05 gam thì sẽ phạm tội theo khoản 1 Điều 194 BLHS 1999. Nếu trọng lượng ma túy dưới 01 gam thì sẽ bị xử phạt hành chính”. Tuy nhiên, tiểu mục 3.7 còn có quy định như sau: “Người nào bị kết án về tội tàng trữ... chất ma túy chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục tàng trữ… chất ma túy có số lượng được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6 nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 194 BLHS...”.
Theo đó, “chất ma túy có số lượng được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6” là chất ma túy có số lượng dưới mức tối thiểu đối với từng loại. Nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì áp dụng khoản 1 Điều 194… Có nghĩa chỉ khi thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, tội phạm này chuyển sang khoản 2 còn nếu không thì tội phạm thuộc khoản 1.
Như vậy, từ quy định tại tiểu mục 3.7, người tàng trữ chất ma túy có khối lượng dưới mức tối thiểu nhưng là người đã bị kết án, chưa được xóa án tích sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo khoản 1. Từ đây cũng có thể suy ra rằng, quy định tại tiểu mục 3.6 chỉ áp dụng cho đối tượng phạm tội chưa bị kết án về các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt trái phép chất ma túy. Còn những người đã bị kết án về các tội này phải áp dụng theo tiểu mục 3.7.
Do đó khi một người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng, thể tích được quy định từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều này mà có các điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, thì ngoài việc áp dụng một trong các điểm từ b đến điểm i, còn phải áp dụng thêm điểm a khoản 1.
* Cách hiểu thứ hai cho rằng: Điểm a khoản 1 Điều 249 quy định như vậy là chỉ áp dụng cho những trường hợp tàng trữ trái pháp chất ma túy khi khối lượng hoặc thể tích chất ma túy không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm từ điểm b đến điểm i khoản 1 điều này. Dó đó, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi khối lượng hoặc thể tích chất ma túy không đạt mức tối thiểu được quy định từ điểm b đến điểm i khi người đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trường hợp người phạm tội đã bị kết án về các tội theo quy định chưa được xóa án tích thì áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm; còn trường hợp đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này thì chỉ xem xét vấn đề nhân thân khi lượng hình mà thôi.
Với lý do:
- Thứ nhất, điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 thì phải được hiểu là: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ bị coi là tội phạm nếu thỏa mãn hành vi khách quan của tội phạm trong trường hợp dưới định lượng của tội phạm nếu thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau:
+ Một là, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này: Đây là hành vi mà chủ thể đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy sau khi chủ thể đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy đã thực hiện trước đó;
+ Hai là, đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Ba là, đã bị kết án về một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Do vậy, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS phải được hiểu là quy định tiền tố tụng đối với người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy khi chưa đủ định lượng thỏa mãn cấu thành cơ bản của tội phạm.
Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người phải theo nguyên tắc hành vi thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành nào thì truy cứu đến đó.
- Thứ hai, về nhân thân bị cáo “đã bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” đây không phải là yếu tố cấu thành tội phạm với tình tiết định khung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 như quan điểm 1 được. Vì nếu hành vi tàng trữ đã đủ định lượng cơ bản của cấu thành tội phạm theo các điểm từ b đến i khoản 1 Điều 249 thì bị truy tố, xét xử theo các điểm từ b đến i khoản 1 Điều 249 BLHS. Trường hợp người phạm tội đã bị kết án về các tội theo quy định chưa được xóa án tích thì áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm; còn trường hợp đã bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này thì chỉ xem xét vấn đề nhân thân khi lượng hình mà thôi.
Từ những quan điểm phân tích như trên, thiết nghĩ để thống nhất nhận thức, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 BLHS, cần có văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi điểm a khoản 1 Điều 249 theo hướng chỉ khi nào người thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chưa đủ khối lượng, thể tích chất ma túy tối thiểu quy định tại các điểm từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều 249 mà có một trong các điều kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này mới phải chịu trách nhiệm hình sự./.
Theo Kiemsat.vn
Từ khóa » điểm I Khoản 1 điều 249 Bộ Luật Hình Sự
-
Điều 249 Bộ Luật Hình Sự 2015 Quy định Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất ...
-
Áp Dụng điểm C Hay điểm I Khoản 1 Điều 249 BLHS
-
Điều 249 Bộ Luật Hình Sự Quy định Về ... - Văn Phòng Luật Sư Dragon
-
Điều 249 Bộ Luật Hình Sự Quy định Về Tội ... - Luật Trần Và Liên Danh
-
Về Tình Tiết định Tội, định Khung Của Tội “Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy”
-
Chỉ áp Dụng Tình Tiết định Khung Theo điểm C Khoản 1 Điều 249 ...
-
[PDF] Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy được Quy định Tại Điều 249 Bộ Luật ...
-
Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy: Mức Phạt Mới Nhất 2022 - LuatVietnam
-
Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy Theo Điều 249 Bộ Luật Hình Sự 2015
-
Khoản 1 điều 249 Bộ Luật Hình Sự Quy định Không Rõ Ràng, Gây Tranh ...
-
Trợ Giúp Pháp Lý Trong Phiên Tòa Hình Sự Sơ Thẩm Vụ án “Tàng Trữ Trái ...
-
Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy Chịu Hình Phạt Như Thế Nào ?
-
Vướng Mắc Trong Việc áp Dụng Điều 249, Điều 251 Bộ Luật Hình Sự ...
-
Thế Nào Là Phạm Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Tuý?