Y Học Cổ Truyền Viêm Phế Quản (đông Y) - Dieutri.Vn

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Định nghĩa

Phế quản là hệ thống đường thở bao gồm các ống từ lớn đến nhỏ dần, có nhiệm vụ dẫn khí từ mũi họng đến phế nang. Còn gọi là khí đạo hay cây khí phế quản.

Viêm phế quản cấp là tình trạng viêm nhiễm cấp tính niêm mạc cây khí phế quản. Thường tiến triển tự nhiên hết, hoặc cuối cùng sau điều trị sẽ lành hẳn bệnh và hoạt động hô hấp tuần hoàn trở lại bình thường.

Viêm phế quản mạn tính là một bệnh có liên quan với sự tiếp xúc lâu dài với những chất kích thích phế quản không đặc thù, đi đôi với sự tăng tiết niêm dịch cùng một số thay đổi về cấu trúc của phế quản. Về mặt lâm sàng, được coi là viêm phế quản mạn khi bệnh nhân có ho khạc kéo dài ít nhất 90 ngày trong 1 năm và trong 2 năm liên tục. Ho khạc được loại trừ là không do các bệnh khác như lao, dãn phế quản, abcès, bụi phổi … (Lancet, 1965). Định nghĩa trên chỉ nêu được mốc tối thiểu khởi đầu của viêm phế quản mạn, vì viêm phế quản mạn bao gồm những trạng thái bệnh lý nặng nhẹ khác nhau, từ ho khạc đàm giảm đến những đợt suy hô hấp thường xuyên mà tiên lượng cũng không kém nguy hiểm như nhồi máu cơ tim (Bourgeois, 1979). Điều này nói lên tính cần thiết của sự phát hiện và đề phòng tiến triển xâu.

Dịch tễ học

Viêm phế quản cấp

Có thể gặp viêm phế quản cấp ở mọi lứa tuổi, nhưng chủ yếu là ở trẻ em và người cao tuổi. Thường gặp viêm phế quản cấp khi trời lạnh hoặc khi thay đổi thời tiết đột ngột.

Viêm phế quản cấp chiếm 1,5% các bệnh đến bệnh viện và 34,5% các bệnh của cơ quan hô hấp (Votral. B. E).

Viêm phế quản mạn

Thường gặp viêm phế quản mạn ở người trung niên và người cao tuổi.

Bụi ảnh hưởng nhiều đến viêm phế quản mạn, tỷ lệ mắc bệnh cao rõ rệt ở công nhân các công trường nhiều khói bụi, dân thành phố mắc bệnh cao hơn ở nông thôn, ngoại trừ trường hợp những phụ nữ nông thôn nấu nướng trong nhà bếp thiếu thông thoáng, không ống khói, chất đốt tạo nhiều bụi bặm, ở miền núi tỷ lệ thấp hơn ở đồng bằng.

Ở Việt Nam, tỷ lệ viêm phế quản mạn là 4,7% và chiếm hơn ½ tổng số người mắc các bệnh về hô hấp (Phạm Khuê và cộng sự). Trong một điều tra khác ở người trên 60 tuổi, tỷ lệ viêm phế quản mạn lên tới 19,6%.

Về thời tiết, mùa lạnh làm tăng số người mắc viêm phế quản mạn.

Ở Anh, tử vong do viêm phế quản mạn tại Scotland là 45% xảy ra trong 3 tháng lạnh đầu năm (thống kê 1956 - 1963 Crofton, Douglas).

Nguyên lý bệnh sinh và giải phẫu bệnh

Theo y học hiện đại

Nguyên nhân:

Yếu tố

Viêm phế quản cấp

Viêm phế quản mạn

Vi khuẩn

(+) Mycoplasma pneumoniae (±) Các loại vi khuẩn khác, thường là thứ phát, bội nhiễm sau nhiễm siêu vi hoặc nhiễm lạnh.

(+++) Hemophilus influenza 13,5% (+++) Tụ cầu vàng 15,5% (+++) Phế cầu 13,5% (++) Proteus hauseri 12,2% (++) Pseudomonas aeruginosa 9,6% (++) Escherichia coli 9% (+) Klebsiella pneunoniae 1,9% (++) Streptococcus pyomoniae 6,4% (±) Trực khuẩn gram (-) (Voisin, 1976)

Virus

(+++) Respiratory Syncytial Virus (+++) Adenovirus, Para. influenza virus

Virus chỉ là nguyên nhân ban đầu tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển về sau. Các loại virus như: - Influenza - Rhino virus (Voisin)

Hóa học

(+) Ô nhiễm không khí: bụi (+) Hơi độc: SO2, NO2, NO3 … Clor, Amoniac’s (+) Khói thuốc lá.

(++) Ô nhiễm không khí, khí quyển, hơi độc công nghiệp, là điều kiện thuận lợi gây bệnh. (+++) Khói thuốc lá: tác nhân chủ yếu bên cạnh vi khuẩn.

Vật lý

(+) Không khí quá khô, ẩm, quá lạnh

(+++) Mùa lạnh, nhiễm lạnh

Dị ứng

(+) Là yếu tố có tính cách thúc đẩy bệnh sinh viêm phế quản cấp ở người hen, phù Quincke, mề đay.

(++) Kết hợp giữa hen và viêm phế quản mạn. (++) Viêm phế quản mạn trên cơ địa dị ứng.

Di truyền

(-)

(+) Thiếu hụt globuline miễn dịch (+) Bất thường về gen: mất thăng bằng giữa hệ thống protease và kháng protease.

Bệnh lý giải phẫu:

Viêm phế quản cấp:

Tùy thuộc vị trí quá trình viêm xâm lấn tới cây phế quản mà viêm phế quản cấp có thể được chia ra viêm khí phế quản, viêm phế quản cấp ở những phế quản có thiết diện lớn, trung bình và nhỏ.

Tổn thương của niêm mạc phế quản bị phù nề, xung huyết, các mạch máu dãn to có lớp dịch nhầy, mủ bao phủ, bạch cầu đa nhân xâm nhập, tế bào biểu mô bị bong ra có chỗ bị loét, các tuyến nhầy căng phồng và tăng tiết. Có cả loạn sản và tăng sản tế bào biểu mô roi. Các hoạt động bảo vệ của nhung mao phế quản, thực bào, bạch huyết bị rối loạn và vi khuẩn có thể xâm nhập vào các phế quản thường vẫn vô trùng, tiếp tục gây ra sự tích tụ những mảnh vụn tế bào hoặc dịch rỉ nhầy mủ, có thể gây tắc nghẽn ở đường thở, có thể gây xẹp tiểu phân thùy hoặc phân thùy.

Theo thời gian quá trình hồi phục diễn ra thì cấu trúc của niêm mạc được phục hồi hoàn toàn.

Sự ho, dù có gây suy hô hấp, cũng rất cần thiết để cho tống xuất các dịch tiết ở phế quản. Có thể có tắc khí do sự phù vách phế quản, do tiết dịch bị đọng lại, và trong một số trường hợp do sự co thắt của các phế quản.

Viêm phế quản mạn:

Đại thể: Sự phân bố tổn thương không phải bao giờ cũng đối xứng ở 2 phổi, có một số tổn thương chỉ khu trú ở phế quản lớn.

Có hình ảnh viêm nhiễm và tắc nghẽn. Sự tắc nghẽn thường xảy ra ở các phế quản có khấu kính từ 1/2 mm đến 3 mm do quá trình dày xơ và sự hình thành các nút nhầy.

Vi thể: Hệ thống phế quản bao gồm nhiều loại lớn nhỏ khác nhau, kích thước và cấu trúc khác nhau. Tùy thuộc vào vị trí tổn thương và giai đoạn tiến triển của bệnh mà sẽ xuất hiện đồng thời hoặc đơn lẻ các triệu chứng lâm sàng nặng nhẹ khác nhau.

Các phế quản lớn:

Tăng sinh và phì đại các tế bào hình đài (goblet cells). Bình thường tỷ lệ của tế bào hình đài đối với tế bào hình lông (ciliary cells) 10 - 20%. Trong bệnh lý viêm phế quản mạn, tỷ lệ trên có thể tăng 80 - 90%.

Lớp đệm phù nề, lớp dưới niêm mạc dày lên bởi sự tăng sản các tuyến nhầy.

Vào giai đoạn sau, viêm nhiễm lan tỏa với sự thâm nhập của các tế bào viêm làm hủy hoại tế bào cơ trơn và các tế bào sụn.

Do sự tăng sinh và phì đại các tế bào hình đài nên các phế quản lớn tăng tiết chất nhầy. Thành phần chất nhầy thay đổi, độ nhớt tăng làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của lớp nhày lông. Triệu chứng ho đờm sẽ là triệu chứng chủ yếu, tùy mức độ nặng nhẹ, tùy loại vi khuẩn, tùy giai đoạn viêm nhiễm, quá trình tăng sản của tuyến tiết cũng như phản ứng của lớp niêm mạc nói chung mà ta sẽ có các loại ho khạc khác nhau.

Các tiểu phế quản:

Các tiểu phế quản tận, phế quản hô hấp có các tổn thương xơ quanh phế quản, phù nề niêm mạc và sự có mặt các cục nhày, các cơ trơn dày lên đưa đến tăng sức cản kín đáo.

Triệu chứng cơ bản là trở ngại lưu thông không khí, biểu hiện bằng khó thở với những mức độ nặng nhẹ khác nhau. Giai đoạn đầu khó thở không thường xuyên và có thể phục hồi được bằng luyện tập. Triệu chứng đặc hiệu là thăm dò chức năng thấy hội chứng tắc nghẽn với những rối loạn về phân phối do quá trình thông khí bị trở ngại.

Bệnh sinh:

Nhu mô phổi:

Viêm tiểu phế quản đưa đến viêm phế nang. Tùy theo mức độ tắc nghẽn sẽ có hiện tượng ứ khí phế nang hay vi xẹp phổi (micro atelectasis). Trong viêm phế quản mạn ứ khí phế nang chiếm ưu thế rõ rệt ở thùy bên của phổi.

Triệu chứng chủ yếu biểu hiện là khó thở, đã rõ rệt và thường xuyên hơn và sự tập luyện cho hồi phục lúc này trở nên khó khăn về chức năng hô hấp, ngoài hội chứng tắc nghẽn, các rối loạn về vận chuyển khí đã xuất hiện, suy hô hấp dần hình thành.

Tim mạch:

Các tiểu động mạch phổi cũng bị ảnh hưởng bởi quá trình viêm. Hay xảy ra hiện tượng huyết khối làm tắc mạch. Tình trạng huyết khối tại các động mạch phổi thường là nguyên nhân tử vong của viêm phế quản mạn.

Tim: có phì đại thất phải, phụ thuộc trạng thái tăng áp lực động mạch phổi và trạng thái này lại do thiếu oxy vì suy hô hấp.

Phân loại phế quản và các biểu hiện bệnh lý khi tổn thương.

Theo y học cổ truyền

Dựa vào biểu hiện lâm sàng viêm phế quản cấp và mạn, các triệu chứng chủ yếu để khẳng định bệnh là ho và khạc đàm. Tùy thuộc vào diễn biến của bệnh có thể có thêm triệu chứng khó thở, cò cử. Các triệu chứng nêu trên được y học cổ truyền mô tả trong các chứng khái thấu, háo suyễn, đàm ẩm.

Khái: có tiếng ho mà không có đàm.

Thấu: có tiếng đờm khò khè, cò cử mà không có tiếng ho.

Biểu hiện bệnh lý thường khi cũng có ho khan không có đàm, nhưng cũng thường khi có ho và đàm kèm theo, nên gọi chung là chứng Khái thấu.

Háo: còn gọi là chứng Áp khái. Sách Thiên Kim Phương mô tả chứng này có được là do đã lâu năm, có nhiều đờm khò khè trong cổ, khi thở rít lên thành tiếng, khi phát ra chứng này là không nằm được.

Suyễn: Thở gấp, thở cấp bức, hơi đưa lên thì nhiều đưa xuống thì ít.

Thực tế cho thấy, chứng suyễn có khi phát ra đơn độc nhưng chứng háo thì luôn kèm chứng suyễn. Trong bệnh cảnh viêm phế quản cấp, viêm phế quản mạn mà chúng ta đã nêu trên đây có thể hiểu khó thở xảy ra là do đờm ứ đọng, nên gọi chung là chứng Háo suyễn.

Đàm ẩm: cũng có sự khác nhau:

Đàm thì dẻo dính, thuộc chất trọc, thuộc về dương.

Ẩm thì lỏng loãng, thuộc chất thanh, thuộc về âm.

Trên thực tế thường gọi chung là Đàm ẩm vì cùng là một loại (đều từ tân dịch của đồ ăn uống mà hóa ra).

Nguyên nhân theo Y học cổ truyền:

Nguyên nhân sinh ra 3 chứng trên không ngoài ngoại cảm và nội thương:

Ngoại cảm (Do lục dâm tà khí tác động gây bệnh):

Gây chứng Khái thấu: tất cả lục dâm đều có thể gây bệnh (Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa).

Gây chứng Háo suyễn: chỉ do Phong, Hàn.

Gây chứng Đàm ẩm: do Phong, Hàn, Thấp, Táo.

Nội thương:

Có nhiều nguyên nhân gây nên nội thương mà sinh ra các chứng trên.

Ăn uống không chừng mực, Tỳ bị tổn thương ảnh hưởng đến Phế, Thận.

Lao nhọc thường xuyên, ăn uống thiếu thốn: Tỳ hư.

Tửu sắc vô độ làm Tỳ Thận hư.

Nội nhân:

Thất tình có ảnh hưởng đến ngũ tạng. Hỏa của thất tình uất kết, xông lên Phế gây ra ho tác động đến Tỳ, Tỳ hư hóa đờm tác động đến Thận. Thận dương hư thì thủy tà tràn lên kết lại thành đờm, thuộc về nhiệt. Nếu là âm thịnh dương hư do hơi nước tràn lên mà thành ra ẩm, thuộc về hàn, gây ra chứng Háo suyễn và Đàm ẩm.

Bệnh sinh theo Y học cổ truyền:

Tất cả những nguyên nhân Ngoại cảm, Nội thương hay Nội nhân đều thông qua tổn hại 3 tạng Phế, Tỳ, Thận để gây ra các chứng Khái thấu, Háo suyễn hay Đàm ẩm.

Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng

Theo y học hiện đại

Viêm phế quản cấp:

Viêm phế quản nhiễm khuẩn cấp tính thường có những triệu chứng đi trước của một số bệnh nhiễm khuẩn hệ hô hấp trên như sổ mũi, ớn lạnh, sốt nhẹ, đau lưng, đau cơ và viêm họng. Ho thường là báo hiệu sự khởi phát của viêm phế quản.

Ho lúc đầu là ho khan không đàm, nhưng sau vài giờ hay vài ngày có thể thấy khối lượng nhỏ đàm nhớt, về sau đờm có thể nhiều lên và có dạng nhầy hoặc nhầy mủ. Đàm chứa toàn mủ khiến nghĩ đến sự nhiễm khuẩn chồng lắp.

Trong trường hợp bệnh nặng nhưng không gây biến chứng thì sốt cao 38o8C kéo dài đến 3 - 5 ngày, sau đó các triệu chứng cấp tính sẽ biến đi. Ho có thể tiếp tục trong vài tuần. Ho dai dẳng kéo dài không hết khiến nghĩ đến viêm phế quản biến chứng, có thể có khó thở do tắc nghẽn khí đạo.

Thường thấy các biến chứng nặng ở những bệnh nhân có bệnh về hô hấp mạn tính. Ở những trường hợp này, viêm phế quản cấp có thể dẫn đến suy hô hấp cấp.

Viêm phế quản mạn:

Triệu chứng cơ năng:

Ho là triệu chứng bao giờ cũng có từ trên 2 năm, ho thường xuyên hay ho từng đợt dài. Ho nhiều lần trong ngày, hay ho vào buổi sáng, ho từng cơn nặng nhọc và đây thường là lý do làm bệnh nhân đến khám.

Khạc đàm: giai đoạn đầu có thể ít, thường xuất hiện đồng thời với ho, số lượng và màu sắc tùy thuộc vào loại vi khuẩn, mức độ nặng nhẹ và tùy giai đoạn viêm nhiễm.

Khó thở: không hằng định. Có thể khó thở lúc gắng sức, khi nằm, hoặc kịch phát đôi khi giống hen do tình trạng phế quản co thắt.

Triệu chứng thực thể:

Giai đoạn đầu: nếu không có bội nhiễm, nghe phổi có thể thấy bình thường.

Giai đoạn sau: có thể thấy lồng ngực căng, biên độ hô hấp giảm.

Nếu có ứ khí phế nang: gõ trong, rì rào phế nang giảm, nhất là đỉnh phổi.

Ở đáy phổi có thể thấy ran ngáy, ran rít, đôi khi cả ran ẩm. Có thể có ngón tay dùi trống.

Tim mạch: T2 vang ở động mạch phổi. Tiếng ngựa phi khi có suy thất phải kèm gan to, phản hồi gan (+), tĩnh mạch cổ (+), phù chi dưới, tiểu ít.

Cận lâm sàng:

- X quang phổi:

Giai đoạn đầu gần như bình thường.

Giai đoạn tiến triển bệnh:

Triệu chứng viêm nhiễm: ở 2 đáy, đám mờ không rõ ranh giới, tựa bông, không thuần nhất.

Xương sườn nằm ngang, khoảng liên sườn dãn rộng.

Triệu chứng tim mạch: Thận động mạch phổi dãn to, thất (P) to.

Nội soi phế quản: rất quan trọng, cho phép:

Xác định tình trạng viêm nhiễm các phế quản lớn. Một số trường hợp có co rút thành sau khí quản.

Qua ống soi: hút đàm để thử vi khuẩn và tế bào học làm sinh thiết để xác định mô học để chẩn đoán loại trừ các khối u.

Thăm dò chức năng: giúp đánh giá độ nặng nhẹ của bệnh và phát hiện rối loạn tắc nghẽn.

Tăng dung tích cặn chức năng. Đánh giá bằng công thức:

Thể tích cặn / Tổng dung tích phổi.

Giảm thể tích thở ra tối đa giây: Nghiệm pháp dược lý động học cho phép chẩn đoán phân biệt giữa hen và viêm phế quản mạn co thắt.

Các khí ở máu động mạch: áp lực riêng phần O2­ trong máu động mạch (PaO2), độ bão hòa oxyhemoglobine (SaO2).

Ở giai đoạn muộn, có hội chứng giảm O2 máu và tăng CO­2 với toan hô hấp.

Xét nghiệm huyết học: do thiếu O2 máu nên có tình trạng đa hồng cầu, tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng hồng cầu khi có bội nhiễm.

- Điện tâm đồ:

Trục QRS xoay phải (> + 110o).

R cao ở V1, S sâu ở V5, V6.

Các triệu chứng lâm sàng khác, hay các triệu chứng báo hiệu biến chứng của viêm phế quản mạn:

Các triệu chứng dưới đây thường chỉ xuất hiện ở các giai đoạn muộn.

Các triệu chứng như ngón tay dùi trống, thay đổi hình dạng lồng ngực, thay đổi vị trí có thể gõ được của tim. Các triệu chứng này chủ yếu gây nên do khí phế thũng.

Gan to sờ được dưới bờ sườn hoặc bờ gan thấp. Khi có suy tim và áp suất tĩnh mạch cổ tăng giúp thăm khám được phản hồi gan (+) tĩnh mạch cổ (+), phù…

Vấn đề tâm phế mạn:

Nguyên nhân của Tâm phế mạn là do tăng áp lực tuần hoàn phổi và cơ chế bệnh sinh là sự co thắt của hệ thống mạch máu tiểu tuần hoàn (do phản xạ tự vệ đối với trạng thái thiếu O2 phế nang, thường gọi là phản xạ Von Euler) lâu ngày dẫn đến trở ngại tâm thất (P).

Tâm phế mạn là một triệu chứng quan trọng của viêm phế quản mạn, chứng tỏ bệnh đã diễn biến đến giai đoạn nguy hiểm, bệnh nhân cần được quản lý chu đáo.

Định nghĩa của WHO gọi tâm phế mạn căn cứ trên giải phẫu học: có sự phì đại rõ ràng của cơ tim. Nhưng nếu chờ đợi có dấu hiệu trên thì bệnh thường đã bị coi là quá muộn. Tiêu chuẩn lâm sàng đối với những triệu chứng như: tiếng ngựa phi, nhịp tim nhanh, gan to, phình động mạch cảnh, phù chi dưới cũng được nhiều nhà lâm sàng bàn cãi chưa thống nhất thời điểm nào gọi là bắt đầu có Tâm phế mạn, lý do là từ cấu trúc tim bình thường đến khi có dày thất rõ rệt, hoạt động cũng như hình thái cơ tim có những thay đổi dần trong quá trình lâu dài. Tùy quan điểm, mỗi nhà lâm sàng có thể lấy một thời điểm trong quá trình đó để xác định Tâm phế mạn.

Kỹ thuật thông tim ra đời, đo được áp suất động mạch phổi là cơ sở để biết chắc ngay từ giai đoạn tim (P) đã bắt đầu quá tải. Giai đoạn này, thầy thuốc có thể có tác động tốt nhất cho tim và phổi của bệnh nhân. Tuy nhiên không phải nơi nào cũng thực hiện được kỹ thuật thông tim. Để khắc phục điều này, các nhà lâm sàng đã đề nghị có thể dùng một số tiêu chuẩn chẩn đoán gọi là “có khả năng mắc”. Sau đây là đề xuất của Chiche 1970.

Dấu hiệu báo động dễ có khả năng mắc Tâm phế mạn:

Viêm nhiễm phế quản từng đợt.

Gầy sút kèm mất nước.

Lơ mơ kèm buồn ngủ ban ngày.

Nhịp tim nhanh.

Các nguy cơ có thể mắc Tâm phế mạn:

Có 3 mức độ:

Loại A: Chưa có tăng huyết áp phổi.

SaO2 bình thường.

PCO2 giữa 45 và 55 mm.

Thể tích hồng cầu bình thường.

Loại B: Huyết áp phổi có thể ở 30 - 50 mmHg và có khả năng mất bù khi thấy SaO2 giảm dưới 0,92 (92%), PCO2 giữa 55 - 70 mmHg, dự trữ kiềm tăng, số lượng hồng cầu tăng.

Loại C: Chắc chắn có tăng huyết áp phổi và thường đã có suy tim (P): SaO2 giữa 0,51 và 0,53 (51 - 53%), PCO2 tăng 9,31 - 13,3 Kpa (70 - 100 mmHg), dự trữ kiềm trên 30 mEq, thể tích hồng cầu tăng.

Căn cứ vào các dấu hiệu đơn giản trên, có thể dự đoán tình trạng huyết áp tiểu tuần hoàn và qua đó sự hình thành Tâm phế mạn.

Vấn đề đàm:

Trong viêm phế quản mạn, tính chất của đàm ho khạc ra cũng có những thay đổi rất khác nhau, tùy diễn biến của bệnh:

Ở giai đoạn đầu, đờm thường loãng nhầy, khi có bội nhiễm thì có lẫn mủ nhiều hoặc ít. Khối lượng, tính chất, màu sắc cũng rất khác nhau tùy giai đoạn và tùy cả bệnh nhân. Việc theo dõi đờm nhiều khi cho những thông tin rất có giá trị, nên cần lưu ý hàng ngày về tính chất, màu sắc cũng như khối lượng đàm hoa khạc ra.

Các chất tiết của phế quản hay còn gọi là đàm, có 2 tính chất quyết định khả năng được bài tiết ra ngoài: đó là tính nhầy (vicosity) và tính đàn hồi (elasticity). Tính chất này có liên quan đến thành phần của các acid mucine và IgA tiết ra và thay đổi tùy trạng thái bệnh lý của phế quản. Trong viêm nhiễm, tính nhày dính của chất tiết tăng, tính đàn hồi giảm. Sự thay đổi trong giới hạn nào đó tạo thuận lợi cho hoạt động của các lông rung, dễ dàng của các chất ho khạc ra ngoài. Tuy nhiên trong viêm phế quản mạn do viêm nhiễm lâu ngày, các thay đổi như trên kéo dài quá mức sẽ gây trở ngại cho việc thanh thải khí đạo.

Khi đờm quá đặc, thầy thuốc thường dùng các chất gọi là tiêu nhày, làm loãng đờm để bệnh nhân dễ ho khạc hơn. Tuy nhiên, nếu việc ho khạc này không đúng thời điểm, tính chất nhày dính sẽ bị giảm quá mức, đờm quá loãng, đồng thời tính đàn hồi cũng bị mất đi, hoạt động các lông rung bị giảm tác dụng và sẽ hình thành sự ứ trệ trong phế nang gây những bội nhiễm không đáng có và nhiều khi nguy hiểm. Nếu việc chỉ định dùng các chất làm loãng đờm không chính xác nhiều khi gây hại lớn.

Theo y học cổ truyền

Có 2 nhóm bệnh chứng:

Nhóm chứng thực:

Phong hàn:

Thường gặp trong các bệnh viêm phế quản, hen phế quản, viêm thanh quản … của y học hiện đại.

Ho, khò khè (khí suyễn) đờm trắng, miệng không khát. (Phong hàn phạm Phế làm Phế khí mất tuyên giáng).

Chảy nước mũi, ngạt mũi.

Sợ lạnh, phát sốt. (Phong hàn làm mất Phế vệ (bì mao).

Rêu lưỡi mỏng, mạch phù.

Phong nhiệt:

Thường gặp trong các bệnh viêm phế quản cấp, mạn, hen phế quản, viêm thanh quản, viêm phổi, abcès phổi ở giai đoạn đầu…của y học hiện đại.

Ho đờm đặc vàng, miệng khô (do tân dịch bị mất).

Miệng khát, họng đau …

Sốt, ra mồ hôi, nước mũi đặc, chất lưỡi đỏ, mạch phù sác. (Phong nhiệt phạm vào Phế vệ).

Khí táo (táo nhiệt):

Thường gặp trong các bệnh viêm phế quản cấp, viêm họng, hoặc bệnh nhiễm khuẩn … của y học hiện đại.

Ho khan hay ho ít đờm mà đờm dính, mũi khô, họng khô.

Sốt, nhức đầu, người đau mỏi. (Táo uất phần Phế vệ).

Đầu lưỡi đỏ khô, mạch phù sác. (Tân dịch giảm sút).

Thể lâm sàng Đàm theo y học cổ truyền gồm 2 loại: Đàm nhiệt và Đàm thấp.

Thường hay gặp ở bệnh viêm phế quản mạn tính, abcès phổi, viêm thanh quản cấp…của y học hiện đại.

Đàm nhiệt:

Ho đờm vàng đặc dính, khó thở, đau ngực. (Đàm nhiệt làm Phế bị trở ngại mất khả năng tuyên giáng).

Họng khô, rêu lưỡi vàng. Đàm nhiệt gây ra miệng đắng, mạch hoạt sác.

(Gây ra các chứng nhiệt làm mất tân dịch).

Đàm thấp:

Tức ngực, ho, hen, suyễn, đờm dễ khạc. (Đàm thấp làm Phế khí không tuyên giáng).

Nôn, lợm giọng. (Đàm làm vệ khí nghịch).

Rêu lưỡi dính, mạch hoạt. (Đàm thấp bên trong).

Nhóm chứng hư:

Phế khí hư:

Thường gặp ở những bệnh hen phế quản mạn tính, tâm phế mạn tính…của y học hiện đại.

Ho, khó thở, tiếng nói nhỏ như yếu, càng vận động các triệu chứng bệnh càng tăng lên. (Phế chủ về hô hấp).

Hay tự ra mồ hôi. (Phế hợp với da lông, nên Phế khí hư dẫn đến vệ khí không chặt chẽ).

Da mặt không vinh nhuận làm sắc mặt trắng bệch ra. (Khí hư thì huyết hư). Khí hư còn biểu hiện ở mệt mỏi, lưỡi đạm, mạch hư nhược.

Phế âm hư:

Thường gặp ở những bệnh hen phế quản, viêm phế quản mạn tính, lao phổi, thời kỳ hồi phục của bệnh viêm phổi, viêm màng phổi do lao, viêm thanh quản mạn tính …

Ho khan hay ít đờm, đờm dính, ngứa họng, tiếng nói khàn, mạch nhỏ, chất lưỡi đỏ, ít rêu (Phế âm hư, tân dịch bị giảm).

Nếu âm hư nặng, tân dịch bị giảm sút nhiều dẫn đến hư hỏa bốc lên gây sốt về chiều, hai gò má đỏ, khát nước, trong đờm có lẫn máu, chất lưỡi đỏ, rêu ít, mạch tế sác.

Phế Tỳ đều hư:

Ho lâu ngày, có nhiều đờm dễ khạc (Phế hư mất chức năng tuyên giáng. Tỳ hư vận hóa thủy cốc dở dang sinh ra đàm).

Ăn kém, bụng đầy, tiêu lỏng (Tỳ khí hư vận hóa thất thường).

Mệt mỏi, vô lực.

Phù, rêu lưỡi trắng, chất lưỡi đạm, mạch tế nhược (thủy thấp đình trệ).

Phế Thận dương hư:

Triệu chứng giống như chứng Phế khí hư kèm thêm những triệu chứng của Thận dương hư như đau lưng, mỏi gối, liệt dương, tay chân lạnh, sợ lạnh, tiểu tiện nhiều lần. Mạch trầm tế nhược.

Ho, đờm nhiều, ngực sườn đầy trướng, miệng khát mà không muốn uống nước. Nôn.

Lưng và tay chân lạnh, hoa mắt, chóng mặt, thở ngắn, hồi hộp, lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng trơn.

Điều trị và chăm sóc

Thể phong hàn

Phép chữa: Phát tán phong hàn và hóa đàm (Tán hàn tuyên phế, ôn Phế tán hàn).

Các vị thuốc thường dùng: Ma hoàng, Tía tô, Bạch chỉ, Cát cánh.

Các bài thuốc thường dùng để chữa: Hạnh tô tán, Chỉ thấu tán, Tô tử giáng khí thang.

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài Tô tử giáng khí thang gồm Bán hạ 12g, Hậu phác 8g, Tiền hồ 8g, Chích thảo 4g, Nhục quế 4g, Tô tử 16g, Đương quy 12g, Sinh khương 3 lát, Trần bì 8 - 12g.

Bài Chỉ thấu tán (Y học tâm ngộ) gồm Kinh giới 16g, Bách bộ 16g, Tử uyển 16g, Trần bì 8g, Bạch tiền 16g, Cam thảo 6g, Cát cánh 8g.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Kinh giới

Khu phong giải biểu

Quân

Cát cánh

Tuyên phế giáng khí

Thần

Trần bì

Kiện tỳ chỉ khái

Thần

Tử uyển

Hóa đàm chỉ khái

Bách bộ

Chỉ khái hóa đàm

Bạch tiền

Chỉ khái hóa đàm

Cam thảo

Ôn trung hòa vị

Sứ

Công thức huyệt sử dụng gồm Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Phong long.

Thể phong nhiệt

Phép chữa: Phát tán phong nhiệt, sơ phong thanh nhiệt, trừ đờm (thanh nhiệt tuyên phế).

Các vị thuốc thường dùng để chữa Lá dâu tươi, Bạc hà, Hoa cúc …

Các bài thuốc thường dùng để chữa: Ngân kiều tán, Ma hạnh thạch cam thang,

Tang cúc ẩm, Vĩ kim thang.

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài Tang cúc ẩm gia giảm gồm Tang diệp 20g, Cát cánh 16, Cúc hoa 10g, Cam thảo 8g, Hạnh nhân 16g, Lô căn 16g, Liên kiều 12g, Bạc hà 8g.

Công thức huyệt sử dụng gồm Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Phong long, Khúc trì, Hợp cốc.

Thể Khí táo (táo nhiệt)

Phép chữa: Thanh phế nhuận táo.

Các vị thuốc thường dùng: Tô tử, Lá hẹ, Thiên môn, Sa sâm, Mạch môn…

Các bài thuốc thường dùng: Tang cúc ẩm, Thanh táo cứu phế thang.

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài Hoàng liên giải độc thang (dùng khi mới mắc bệnh) gồm Hoàng liên 30g, Hoàng cầm 20g, Hoàng bá 20g, Chi tử 20g.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Hoàng liên

Đắng, lạnh. Thanh nhiệt, táo thấp, giải độc. Tả tâm hỏa và tả hỏa ở trung tiêu.

Quân

Hoàng cầm

Đắng, lạnh. Thanh phế nhiệt, lương huyết. Tả hỏa ở thượng tiêu.

Quân

Hoàng bá

Đắng, lạnh. Tả tướng hỏa. Thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu.

Quân

Chi tử

Đắng, lạnh. Thanh nhiệt, tả hỏa ở tam tiêu. Dẫn nhiệt đi xuống.

Thần - Sứ

Bài Thanh táo cứu phế thang gồm Tang diệp 20g, A giao 8g, Thạch cao 16g, Mạch môn 12g, Nhân sâm 5g, Hạnh nhân 6g, Cam thảo 8g, Tỳ bà diệp 8g, M nhân 8g.

Công thức huyệt sử dụng gồm Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Phong long, Khúc trì, Hợp cốc.

Thể đàm nhiệt

Phép chữa: Thanh hỏa nhiệt đàm và nhuận táo hóa đàm.(Tuyên phế hóa đàm nhiệt, thanh phế hóa đàm).

Các bài thuốc thường dùng: Nhị trần thang gia thêm Bối mẫu, Tri mẫu; Tiểu hãm hung thang; Sinh lịch tử đại táo tả phế thang; Nhuận phế thang; Tư âm thanh phế thang; Bách hợp cố kim thang; Bối mẫu qua lâu thang…

Bài thuốc Bách hợp cố kim thang: Sinh địa 12g, Thục địa 18g, Bách hợp 12g, Mạch môn đông 12g, Bối mẫu 10g, Thược dược 10g, Huyền sâm 8g, Cát cánh 8g, sinh Cam thảo 10g.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Bách hợp

Nhuận phế, chỉ khái, thanh nhiệt

Quân

Mạch môn

Thanh tâm, nhuận phế, chỉ khái

Quân

Huyền sâm

Tư âm giáng hỏa, lương huyết giải độc

Thần

Sinh địa

Thanh nhiệt lương huyết

Thần

Thục địa

Bổ huyết dưỡng âm, bổ thận

Thần

Bối mẫu

Nhuận tâm phế, hóa đàm, chỉ khái

Thược dược

Liễm âm, dưỡng huyết, chỉ thống

Tá - Sứ

Sinh Cam thảo

Tả hỏa giải độc. Điều hòa các vị thuốc.

Tá - Sứ

Thể đàm thấp

Phép chữa: Táo thấp hóa đàm chỉ khái, ôn hóa thấp đàm.

Các vị thuốc thường dùng: Hạt cải trắng, Bán hạ chế, Trần bì, Tô tử, Cát cánh, Bạch tiền…

Các bài thuốc thường dùng: Nhị trần thang, Lục quân tử thang, Lý trung hóa đàm hoàn …

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài thuốc Nhị trần thang gia vị gồm Trần bì 10g, Thương truật 10g, Bán hạ 8g, Bạch truật 12g, Phục linh 10g, Cam thảo 10g, Hạnh nhân 12g, Sinh khương 6g.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Trần bì

Lý khí hóa đàm

Quân

Bán hạ

Giáng khí nghịch, tiêu đàm thấp

Quân

Phục linh

Kiện tỳ, lợi thấp

Thần

Bạch truật

Kiện tỳ, táo thấp, hòa trung

Thương truật

Táo thấp, kiện tỳ

Cam thảo

Ôn trung hòa vị

Sứ

Hạnh nhân

Chỉ khái, bình suyễn, nhuận tràng

Sinh khương

Giáng nghịch hóa ẩm

Bài thuốc Lục quân tử thang gồm Nhân sâm 10g, Cam thảo (chích) 6g, Bạch truật 9g, Trần bì 9g, Phục linh 9g, Bán hạ 12g. Được dùng khi Tỳ hư không chế được thấp, không vận hóa được thủy cốc, dịch ngưng tụ lại mà thành đàm.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Nhân sâm

Đại bổ nguyên khí, kiện tỳ dưỡng vị

Quân

Cam thảo

Ôn trung hòa vị

Sứ

Bạch truật

Kiện tỳ, táo thấp

Thần

Trần bì

Lý khí hóa đàm

Phục linh

Thẩm thấp, kiện tỳ

Thần

Bán hạ

Giáng khí nghịch, tiêu đàm thấp.

Công thức huyệt sử dụng gồm Tỳ du, Phế du, Thận du, Túc tam lý, Hợp cốc, Tam âm giao.

Thể phế khí hư

Phép chữa: Bổ ích Phế khí.

Các vị thuốc thường dùng: Đảng sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ…

Các bài thuốc thường dùng: Bảo nguyên thang, Ngọc bình phong tán, Quế chi gia Hoàng kỳ thang…

Những bài thuốc sử dụng:

Bài Ngọc bình phong tán gồm Hoàng kỳ, Bạch truật, Phòng phong.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Hoàng kỳ

Bổ khí cố biểu

Quân

Bạch truật

Kiện tỳ, bổ trung tiêu

Phòng phong

Phát biểu, trừ phong

Thần

Bài Bảo nguyên thang gồm Nhân sâm, Hoàng kỳ, Nhục quế, Cam thảo.

Phân tích bài thuốc:

Vị thuốc

Tác dụng Y học cổ truyền

Vai trò

Nhân sâm

Đại bổ nguyên khí

Quân

Hoàng kỳ

Ích khí cố biểu

Quân

Nhục quế

Trợ dương, tán hàn

Thần

Cam thảo

Ôn trung hòa vị

Sứ

Thể phế âm hư

Phép chữa: Tư dưỡng Phế âm, tư âm giáng hỏa.

Các vị thuốc thường dùng: Sinh địa, Huyền sâm, Địa cốt bì, Ngọc trúc, Đan bì, Bách hợp…

Các bài thuốc thường dùng: Nhất tiễn âm, Lục vị hoàn…

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài Nhất tiễn âm gia giảm gồm Bạch thược 8g, Địa cốt bì 4g, Sinh địa 8g, Cam thảo 3g, Mạch môn 12g, Thục địa 20g, Tri mẫu 4g.

Công thức huyệt sử dụng: Thái uyên, Thiên lịch, Tam âm giao, Phế du, Thận du.

Thể Phế Tỳ đều hư

Phép chữa: Kiện tỳ ích phế.

Các vị thuốc thường dùng: Đảng sâm, Phục linh, Ý dĩ, Bạch truật…

Các bài thuốc thường dùng: Sâm linh bạch truật tán, Bổ trung ích khí thang…

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài Sâm linh bạch truật tán gồm Bạch truật 8g, Hạt sen 8g, Sa nhân 8g, Biển đậu 8g, Nhân sâm 8g, Sơn dược 8g, Cát cánh 8g, Phục linh 12g, Ý dĩ 12g, Chích thảo 4g.

Công thức huyệt sử dụng gồm Thái uyên, Thiên lịch, Trung phủ, Khí hải, Đản trung, Tam âm giao, Phế du, Thận du, Tỳ du, Mệnh môn, Phục lưu.

Thể Phế Thận dương hư

Phép chữa: Ôn thận nạp khí, bổ phế khí.

Các vị thuốc thường dùng: Phụ tử chế, Nhục quế, Đảng sâm, Hoàng kỳ…

Các bài thuốc thường dùng: Hữu quy ẩm gia giảm, Bát vị quế phụ gia giảm…

Những bài thuốc và công thức huyệt sử dụng:

Bài Hữu quy ẩm gồm Thục địa 32g, Nhân sâm 8g, Nhục quế 4g, Đỗ trọng 12g, Cam thảo 4g, Hoài sơn 16g, Kỷ tử 8g, Phụ tử chế 2g, Thù du 8g.

Công thức huyệt sử dụng: Thái uyên, Thiên lịch, Trung phủ, Quan nguyên, Khí hải, Đản trung, Tam âm giao, Phế du, Thận du, Tỳ du, Mệnh môn, Phục lưu.

Dưỡng sinh:

Được chỉ định trong những trường hợp viêm phế quản mạn. Có thể tự tập luyện mọi động tác dưỡng sinh không hạn chế tùy theo sức khỏe của cơ thể. Nhưng cần thiết là các động tác sau:

Luyện thở sâu.

Luyện thở ra tối đa: thở 3 thời, thổi chai.

Luyện thở: thở 4 thời và có kê mông.

Xoa tam tiêu.

Nhĩ châm: Có thể châm các huyệt vùng Phế, Tuyến thượng thận, Bình suyễn, Thần môn.

Từ khóa » đàm ẩm Là Bệnh Gì