123 Dẫn Chứng Nghị Luận Văn Học Hay Và Ngắn

100 dẫn chứng Nghị luận văn học hay và ngắnHệ thống các dẫn chứng văn họcBài trướcTải vềBài sauNâng cấp gói Pro để trải nghiệm website VnDoc.com KHÔNG quảng cáo, và tải file cực nhanh không chờ đợi. Mua ngay Từ 79.000đ Tìm hiểu thêm

100 dẫn chứng Nghị luận văn học hay và ngắn

  • I. Nhận định văn học về phong cách nhà văn
    • 1. Kim Lân
    • 2. Tố Hữu
    • 3. Nguyễn Tuân
    • 4. Tô Hoài
    • 5. Quang Dũng
    • 6. Xuân Quỳnh
  • II. Nhận định văn học hay và ngắn
  • III. Các hình thức nêu dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học

100 dẫn chứng Nghị luận văn học hay và ngắn được biên soạn để cung cấp hệ thống các dẫn chứng cho bài Nghị luận văn học cho các em học sinh trong quá trình viết bài. Mời các bạn tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây nhé!

I. Nhận định văn học về phong cách nhà văn

1. Kim Lân

- Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc.

(Kim Lân)

- Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc.

(Hà Minh Đức)

- Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.

(Kim Lân)

- Nhà văn Kim Lân đã cống hiến trọn đời cho nền văn học mới, nêu một tấm gương cao đẹp về lòng yêu mến, gắn bó mật thiết với cách mạng và kháng chiến, kiên định, vững vàng về bản lĩnh nhà văn để lại cho hậu thế những tác phẩm đặc sắc, có sức sống lâu dài, làm giàu thêm văn chương Việt, tâm hồn Việt.

(Hữu Thỉnh)

- Nhà văn Kim Lân chỉ viết những gì mình thuộc, không tuyên ngôn, không phô trương ồn ào mà chỉ muốn là một người viết khiêm nhường.

(Phong Lê)

- Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy.

(Trần Ninh Hồ)

- Nhà văn dùng “Vợ nhặt” để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng.

(Hoài Việt)

- Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ.

(Nguyễn Khải)

- Lắm lúc tôi thấy văn chương là một thứ đạo, đạo làm người, như một thứ tôn giáo. Mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi sự thương yêu giữa con người với con người, đòi con người có quyền làm người, bình đẳng, tự do, bác ái. Mỗi người truyền một cách, nhưng cuối cùng con người vẫn thương yêu nhau và làm cho con người có tư cách, có nhân phẩm, tài năng để đánh giá đúng và chống lại bạo ngược, cường quyền, áp bức. Cũng như các ngành nghệ thuật khác, văn chương còn là một thứ giải trí. Làm cho người ta vui thích, yêu đời, thư giãn sau những mệt mỏi, như thế cũng là ích lợi, là nhân văn cho người thưởng thức.

(Kim Lân)

- "Vì sao phải bịa? Người viết muốn nói một việc gì, một ý nghĩa gì thì chuyện đời thường ngày tự thân đã có tiếng nói riêng của nó, còn tiếng nói của chính tâm linh người viết chỉ có bịa mới ra được. Nhưng như vậy không có nghĩa là nó tách rời hoàn cảnh xã hội, tách rời đời sống, mà hình như nó thực hơn. Chính vì vậy mà tôi cũng thường nói bịa lại thực hơn. Vì nó thực với chính mình trước tiên. Và kỳ lạ khi mình bịa ấy, mình viết say mê hơn nhiều. Không biết khi mình say sưa bịa ấy có phải là những giây phút thăng hoa nhất của người viết không?"

(Kim Lân).

- "Kim Lân quan niệm viết văn như một cách đòi cho mình một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương."

(Trần Hữu Tá)

- "Theo kinh nghiệm của tôi, những chuyện thật mà tôi ghi lại được thì đều nhạt nhẽo và khô cứng. Nhưng sự thật cũng có giá trị của sự thật, rất giá trị, rất cần thiết nữa. Tất cả những truyện Vợ nhặt, Ông lão hàng xóm, Con chó xấu xí đều dựa trên cái nền là sự thật. Còn những truyện khác, kể cả Làng, hầu hết là tôi bịa. Bịa cả nhân vật lẫn tình tiết. Bởi không có sự thật nào như thế cả. Nhưng cái bịa ấy là cái điều mà chính tác giả muốn nói. Và chính tác giả muốn nói nên mới sinh ra cái bịa. Gọi là bịa chứ kỳ thực chính là sáng tạo."

(Kim Lân)

2. Tố Hữu

- Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.

(Xuân Diệu)

- Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý.

(Chế Lan Viên)

- Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu.

(Hoài Thanh)

- Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ.

(Hoàng Trung Thông)

3. Nguyễn Tuân

- Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa.

(Vũ Ngọc Phan)

- Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa.

(Nguyễn Ðăng Mạnh)

- Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm kiếm cái thực và cái đẹp. Thực ra, sự thực và cái đẹp của cuộc sống là hai cái đích mà dường như bất kì ngòi bút chân chính nào cũng hướng tới nhưng không dễ chiếm lĩnh và chạm vào được. Nguyễn Tuân cũng trên hành trình tìm kiếm nhưng tác phẩm của ông đã chạm được đến cái đẹp, nhất là cái đẹp truyền thống và cái thực phồn hoa chốn thành thị. Nguyễn Tuân là người thưởng thức cái đẹp với tư cách người có văn hóa, có vốn tri thức, biết giá trị của đối tượng mình chiêm ngưỡng.

(Nguyễn Đình Thi )

- Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện sinh...

(Nguyễn Đăng Mạnh)

- “Cái đẹp của Nguyễn Tuân không phải là cái đẹp mơ mộng, nhàn nhạt, phẳng lặng, mà là cái đẹp tạo hình, có góc cạnh, nhiều khi dữ dội”. “Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ ngôn từ đưa cái đẹp đến thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam”.

(Hoài Anh)

- “Ông có một vốn từ vựng cực kì phong phú, một lối hành văn độc đáo, tinh tế và rất có duyên. Câu văn của ông dường như chứa đựng mọi âm thanh, sắc màu của cuộc sống, hay nói cách khác là sự hòa quyện của thơ ca, nhạc, họa, Nguyễn Tuân xứng đáng là một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ, một nhà vãn độc đáo vô song”.

(Tôn Thảo Miên)

4. Tô Hoài

- Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ.

(Phạm Xuân Nguyên)

- Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi, trên con đường đưa họ đến với thế giới động tưởng tượng thuở nhỏ, hay đến với những miền đất mới, đến với con người đời dài rộng khi đã trưởng thành.

(Phan Anh Dũng)

- Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết. Mà chi tiết thì không thể phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều càng tốt.

(Tô Hoài)

- Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên.. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.

(Tô Hoài)

- Bản chất của văn chương Tô Hoài là phong cách, bút pháp đậm đà bản sắc dân tộc. Phẩm chất ấy là sự tích tụ của cả một đời gắn bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam

(Hà Minh Đức)

5. Quang Dũng

- Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, "Tây Tiến" cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.

(Nguyễn Đăng Điệp)

- Hay đến nỗi ta không khỏi ngạc nhiên mà nghĩ rằng tại sao trong những ngày đầu non nớt của nền thơ ca kháng chiến và cách mạng mà chúng ta lại có được một tác phẩm thơ tuyệt diệu đến thế, kinh điển đến thế mà cũng hiện đại đến thế.

(Nhà thơ Anh Ngọc)

- Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn.

(Nhà thơ Vân Long)

6. Xuân Quỳnh

- “Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở lại,chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ ,thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm.”

(Chu Văn Sơn)

- “Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị quanh co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh”

(Võ Văn Trực)

- “Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở”

(Trần Đăng Suyền)

- “Ở mỗi tập thơ của Xuân Quỳnh, những bài viết của tình yêu thường để lại nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu hết sức thơ hết sức tự nhiên, bài “Sóng” thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ.”

(Nhà thơ Việt Nam hiện đại, GS Phong Lê chủ biên, Viện Văn học, Nxb KHXH,1984)

– “Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ bạn đọc. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguội yên. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho thế hệ sau qua mỗi tiếng thơ của mình. Và, lâu nay, lòng thơ của chúng ta, người mờ người tỏ, người đang yêu, người đã yêu, đều từng thầm thu thầm phát thứ sóng đặc biệt ấy: Đó chính là Sóng Xuân Quỳnh.”

T.S Chu Văn Sơn

II. Nhận định văn học hay và ngắn

1. Thơ không phải là rượu đã rót sẵn vào chén mà là men đương lên, không phải hoa sẵn trên cành mà là dòng nhựa đương chuyển.

(Xuân Diệu)

2. Văn xuôi được phép không mười phần hoàn hảo nhưng thơ thì đòi hỏi sự toàn bích.

(Nguyễn Đình Thi)

3. Bàn tay siết lại thành nắm đấm.

(Hemingway nói về truyện ngắn)

4. Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống.

(Nguyễn Đình Thi)

5. Thơ là điệu hồn đi tìm tâm hồn đồng điệu.

(Tố Hữu)

6. Đời chúng ta nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.

(Hoài Thanh)

7. Cẩu thả trong nghề nào cũng là bất lương nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.

(Nam Cao)

8. Đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cột cây số.

(Nguyễn Đình Thi)

9. Tôi thường hình dung thể loại truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: Chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc.

(Nguyễn Minh Châu)

10. Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hoà cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị của sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra.

(M. Gorki)

11. Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người.

(Đề thi HSG văn toàn quốc bảng B năm 1996)

12. Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp.

(Pautopxki)

13. Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả.

(Nguyễn Đình Thi)

14. Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.

(Nguyễn Văn Siêu)

15. Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ.

(Tố Hữu)

16. Nhà văn phải là người đi tìm gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.

(Nguyễn Minh Châu)

17. Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người.

(Sô-Lô-Khốp)

18. Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.

(Thạch Lam)

19. Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.”

(M. L. Kalinine)

20. Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.

(Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)

21. Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.

(Ivan Tuốc-ghê-nhép)

22. Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.

(Sê-khốp)

23. Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.

(Nam Cao)

24. Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.

(Nguyễn Văn Siêu)

25. Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên trái đất.

(Béc-tôn Brếch)

26. Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.

(Thạch Lam)

27. Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.

(Nam Cao)

28. Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tuỷ.

(Sê-khốp)

29. Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.

(Ban-dắc)

30. Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.

(CharlesDuBos)

31. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.

(Ai-ma-tốp)

32. Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí.

(M. Go-rơ-ki)

33. Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.

(Nguyễn Văn Thạc)

34. Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.

(Dostoevski)

35. Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.

(Pauxtopxki)

36. Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt. Nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người.

(Nadimetlicmet)

37. Văn học là nhân học

(M. Gorki)

38. Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.

(Pau-tốp-xki)

39. Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường đời.

(Xtăng-đan)

40. Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.

(Ai-ma-tốp)

41. Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật.

(Nguyễn Tuân)

42. Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.

(Nguyễn Minh Châu)

43. Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.

(M. L. Kalinine)

44. Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.

(Thạch Lam)

45. Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.

(Charles DuBos)

46. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.

(Nguyên Ngọc)

47. Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người.

(Hoài Chân)

48. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.

(L. Tôn-xtôi)

49. Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.

(Hồ Chí Minh)

50. Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương.

(Bạch Cư Dị)

51. Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.

(Nguyễn Minh Châu)

52. Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực.

(Lép-Tôn-xtôi)

53. Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.

(Gớt)

54. Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả… nếu nó khôg là tiếng thét khổ đau hay là lời ca tụng hân hoan; nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy.

(Biêlinxki)

55. Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.

(Sê-đrin, Nga)

56. Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.

(Biêlinxki)

57. Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ.

(Sê-khốp)

58. Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.

(Ai-ma-tốp)

59. Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.

(Hoài Thanh)

60. Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người.

(Hoài Chân)

61. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người.

(Sê-khốp)

62. Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người.

(Lê Trí Viễn)

63. Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.

(Đặng Thai Mai)

64. Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.

(L. Tôn-xtôi)

65. Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con người.

(Từ điển văn học)

66. Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.

(Nguyễn Minh Châu)

67. Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi.

(Albert Schweitzer)

68. Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.

(Đô-xtôi-ép-xki)

69. Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.

(Biêlinxki)

70. Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện…"

(M. Go-rơ-ki)

71. Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kỹ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng một ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỷ này sang thế kỉ khác.

(M. Go-rơ-ki)

72. Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học.

(M. Go-rơ-ki)

73. Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có luyện những tình cảm ta sẵn có.

(Hoài Thanh)

74. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.

(Sách Văn học 12)

75. Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.

(Vũ Trọng Phụng)

76. Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả.

(M. Go-rơ-ki)

77. Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai hết được hưởng sự kính trọng của con người.

(Einstein)

78. Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi.

(Nguyên Hồng)

79. Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.

(Pu-skin)

80. Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.

(Nguyễn Minh Châu)

81. Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.

(Hê-ghen)

82. Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.

(Pautôpxki)

83. Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.

(Tố Hữu)

84. Nhà văn là người cho máu.

(Enxa Triole)

85. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng.

(M. Go-rơ-ki)

86. Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.

(Phương Lựu)

87. Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.

(Selly)

88. Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội.

(Phạm Văn Đồng)

89. Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.

(Lê Ngọc Trà)

90. Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.

(Thạch Lam)

91. Không có gì nghệ thuật hơn bản thân lòng yêu quý con người.

(Van Gốc)

92. Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ.

(Lâm Ngũ Đường)

93. Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người.

(Xê – Lê – Khốp)

94. Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ

(Sê – Khôp)

95. Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống.

(Giooc – giơ – Đuy – a – men)

96. Sự trưởng thành của một thể loại được đánh dấu bằng cổ nhiên, nhưng rõ hơn lại đánh dấu bằng những phong cách.

(LLVH)

97. Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng.

(M. Gorki)

98. Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo vì vậy nó đồi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.

(LLVH)

99. Văn chương phải là thế trận đuổi nghìn quân giặc.

(Trần Thái Tông)

100. Nếu những nỗi đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng thì tôi vi Có những đêm không ngủ, mắt rực cháy và thổn thức, lòng tràn ngập nhớ nhung. Khi đó tôi viết.

(Lecmôntop)

101. Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ.

(Tố Hữu)

102. Làm người thì không có cái tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi.

(Viên Mai)

103. Tình huống là một khoảnh khắc của dòng chảy đời sống mà qua khoảng khắc thấy được vĩnh viễn, qua giọt nước thấy được đại dương.

104. Những kết luận khoa học như những thỏi vàng chỉ lưu hành trong một phạm vi nhỏ hẹp. Còn tri thức từ những tác phẩm văn chương như những đồng tiền nhỏ dễ dàng lưu thông len lõi đến với người ta.

105. Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.

(Bêlinxki)

106. Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hômero đến kinh thi đến ca dao việt nam, thơ vẫn là 1 sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế".

107. Văn chương là ngôn ngữ của trái tim, nơi mà tình yêu, đau khổ, hy vọng và những cung bậc cảm xúc khác có thể được thể hiện một cách chân thành và sâu sắc.

108. Tác phẩm văn học có thể thúc đẩy sự phát triển của con người, từ việc mở rộng kiến thức đến việc khám phá bản thân.

III. Các hình thức nêu dẫn chứng trong bài văn nghị luận văn học

1. Dẫn nguyên văn cả câu, đoạn, văn bản ngắn.

Đây là cách nêu dẫn chứng được sử dụng phổ biến nhất trong các văn bản văn nghị luận đặc biệt trong nghị luận văn học. Khi đưa ra dẫn chứng là một câu thơ, câu văn hay một đoạn, một bài văn ngắn người ta thường dùng cách nêu dẫn chứng này và thường được sử dụng viết thành một đoạn văn riêng. Việc trích dẫn nguyên văn cả câu, đoạn, văn bản ngắn đòi hỏi việc trích dẫn mang tính chính xác cao vì thế người viết phải nắm được, hiểu được và thuộc dẫn chứng. Nếu sử dụng dẫn chứng ở nhiều bài khác nhau người ta phải chú thích dẫn chứng (Dùng ngoặc đơn để ghi tên tác giả, tác phẩm của dẫn chứng).

Ví dụ: Tạo hóa đã ban tặng cho con người một đặc quyền thiêng liêng – đó là sống. Van-gốc đã từng thốt lên rằng: “Đối với tôi không có gì tốt đẹp hơn là cuộc sống”. Dù cho ai nói với bạn điều gì đi chăng nữa, hãy vững tin rằng cuộc sống xung quanh ta chứa đầy hạnh phúc và niềm vui. Xuân Diệu, “thi sĩ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh), đã hơn một lần khẳng định lối sống “vội vàng” của mình:

Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,

Em, em ơi, tình non đã già rồi

(Giục giã – Xuân Diệu).

2. Trích từ ngữ tiêu biểu.

Khi làm bài văn nghị luận, đôi khi người viết có thể trích dẫn các từ ngữ tiêu biểu. Lúc ấy các dẫn chứng được kết hợp vào trong lời văn nghị luận của người viết.

Ví dụ: Quê hương Việt Nam qua bức tranh thôn Vĩ Dạ của xứ Huế sao mà xinh xắn thế, mơ mộng và trữ tình đến thế. Bằng những hình ảnh bình dị, thân thương như “nắng hàng cau” trong khu vườn “mướt” “xanh như ngọc”, nhà thơ cho chúng ta thêm yêu và trân trọng xứ Huế. Những “bến sông trăng” với con thuyền “chở trăng” gợi lên chất mộng, chất thơ nhưng cũng rất thực. Đấy chính là tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương, với thiên nhiên đất nước. Ta có thể nhận thấy ngay các dẫn chứng trong đoạn văn trên là những từ ngữ tiêu biểu được trích dẫn bằng cách đặt trong ngoặc kép, hòa vào lời văn của người viết như:“nắng hàng cau”, “mướt”, “xanh như ngọc”, “bến sông trăng”, “chở trăng”.

3. Tóm lược nội dung chính.

Đây là cách trích dẫn dẫn chứng theo hình thức gián tiếp và khá phổ biến trong văn nghị luận, người viết chỉ dẫn ý của câu thơ, câu văn, lời nói, tóm lược nội dung câu chuyện… và không cần đặt trong ngoặc kép để đưa vào văn nghị luận.

Ví dụ:

Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã đảo lộn thời gian tuyến tính, không đi từ quá khứ mà xuất phát từ tương lai, đẩy ngay Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời bằng những tiếng chửi sặc mùi rượu. Ban đầu hắn chửi trời, rồi hắn chửi đời, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng không ai đáp lời thằng say rượu. Tức mình, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, đến cuối cùng hắn đau đớn, hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.

Từ khóa » Cái đen Là Cuộc Sống