An Extension Of Vroom's Expectancy Theory (1964) In Examining ...

Skip to main content Skip to main navigation menu Skip to site footer
  1. Home /
  2. Archives /
  3. Vol 4 No 1 (2020) /
  4. Research article

 Research article  Downloads

  • Download PDF
  • View Article

HTML3854

Total 5002

Citations

Share

An extension of Vroom’s expectancy theory (1964) in examining lecturers’ motivation in Vietnam

  •  Tran Thi-Kim Nhung  
  •  Nguyen Thanh Do

 Article Details Issue: Vol 4 No 1 (2020) Page No.: 490-499 Published: Mar 31, 2020 Section: Research article DOI: https://doi.org/10.32508/stdjelm.v4i1.592  Table of Contents
  •  Article
  •  Details
  •  Citation
  •  Metrics

 Open Access

Downloads

Download data is not yet available.

Abstract

As academic activities and research performances become important criteria in evaluating the quality of a university, research activities have received a special concern from universities. The key questions are what prompts faculty members to do research and how to motivate them. In order to answer these questions, it is necessary to examine the factors affecting the research motivation, then measure the impact of these factors on the faculty members' research motivation. In this study, the authors employed the expansive expectancy theory proposed by Chiang & Jang to investigate key factors that motivate faculty members to conduct research. The regression results on data collected from a survey on 475 faculty members at universities in Hanoi showed that faculty members are motivated by the intrinsic instrumentality factor (INTIN), financial value factor (FINVA) and expectancy factor (EXPECT – the factor that yields controversial results in previous studies). These findings suggest that the research motivation of lecturers has a positive correlation with academic degree, administrative position and has no relationship with age and gender.

 

Giới thiệu

Việc một giảng viên nhận được các phần thưởng (tài chính, thăng tiến, uy tín và tôn trọng,…) có liên quan rất nhiều đến nỗ lực trong nghiên cứu khoa học của họ đã được nêu trong nghiên cứu của Chen và cộng sự 1 . Tại sao những phần thưởng đó đã và đang xuất hiện đáng kể ở các trường đại học song vẫn không có nhiều công trình nghiên cứu được đăng tải, đặc biệt là công bố quốc tế? Giải quyết vấn đề này vẫn đang được quan tâm và trở nên quan trọng ở các trường đại học hiện nay.

Rất nhiều các nghiên cứu như Cargile và Bublitz, Englebrecht và cộng sự, Read và cộng sự đã xem xét những thay đổi mục đích/nhu cầu cá nhân (tài chính, thăng tiến,..) ở các giai đoạn sự nghiệp như thế nào 4 , 3 , 2 . Trong luồng nghiên cứu khác như Buchheit và cộng sự hay Hu và Gill đã kiểm tra các yếu tố cá nhân như khả năng, tố chất, sự tò mò và thái độ làm việc hoặc tổ chức có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động nghiên cứu của các giảng viên 6 , 5 . Vì những yêu cầu đặc biệt của công việc nghiên cứu khoa học khác với những công việc thông thường khác như nghiên cứu khoa học cần sự kiên trì, nỗ lực, tò mò khám phá,…và đặc biệt cần người giảng viên phải có sự say mê hay nói cách khác cần nội lực bên trong của giảng viên cao. Vì vậy, nghiên cứu này cũng mong muốn kiểm tra mức độ tác động của các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên trong đối với động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên Việt Nam.

Sự phù hợp của lý thuyết kỳ vọng của Vroom đã được kiểm chứng ở rất nhiều nghiên cứu như Tien, Vansteenkiste và cộng sự, House và Wahba nhưng vẫn còn một số hạn chế và những kết quả khác nhau về các thành phần trong lý thuyết này 10 , 9 , 8 , 7 . Theo đó, còn nhiều tranh cãi như chưa thống nhất ở thành phần kỳ vọng (expectancy-E), đa phần các nghiên cứu cho rằng (E) không làm cho mô hình dự đoán động lực tốt hơn nhưng cũng có số ít nghiên cứu đã kiểm chứng và cho thấy kết quả ngược lại như Chiang và Jang 11 . Chen và cộng sự và Tien khi áp dụng lý thuyết kỳ vọng 8 , 1 đã sử dụng kết quả từ các nghiên cứu của Van Eerde và Thierry, Landy và Becker, Mitchell và Albright bỏ qua biến kỳ vọng (E) khi tiếp cận vì cho rằng chỉ phương tiện (intrumentality-I) và giá trị (valence-V) là các biến có thể dự đoán tốt động lực nghiên cứu khoa học của giảng viên 14 , 13 , 12 . Trong nghiên cứu này, áp dụng lý thuyết kỳ vọng với hy vọng cung cấp sự hiểu biết tốt hơn về động lực thực hiện nghiên cứu khoa học của giảng viên tại bối cảnh Việt Nam. Bối cảnh thay đổi có thể làm thay đổi hệ thống các phần thưởng cũng như những nhận thức của giảng viên về giá trị các phần thưởng, nhận thức về khả năng nhận được các phần thưởng cũng chưa rõ ràng và đặc biệt là niềm tin về sự nỗ lực bản thân có thể dẫn đến những thành quả trong nghiên cứu cũng bị lung lay. Mà niềm tin này đã được Bailey nhấn mạnh rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến động lực để thực hiện công việc, đặc biệt công việc càng khó khăn nhiều thách thức thì càng trở nên quan trọng 15 . Nên ở các nước có nền khoa học và giáo dục chưa thực sự mạnh và đang có nhiều thay đổi như Việt Nam rất có thể “kỳ vọng” sẽ tác động đáng kể đến động lực nghiên cứu khoa học. Do đó, nghiên cứu xác định đây là khoảng trống về mặt lý luận cần được tiếp tục kiểm định ở các bối cảnh khác nhau.

Cơ sở lý thuyết kỳ và mô hình nghiên cứu

Có nhiều khung lý thuyết được áp dụng để giải thích việc thực hiện nghiên cứu khoa học của giảng viên. Một trong những nghiên cứu nổi bật là lý thuyết kỳ vọng của Vroom như nghiên cứu của Chen và cộng sự, Tien, Lertputtarak lý thuyết vòng đời Tien; lý thuyết sự tự tin trong nghiên cứu của Lertputtarak, Pasupathy và Siwatu 17 , 8 , 16 , 1 . Trong khi các lý thuyết tập trung giải thích nhân tố động lực bên ngoài và nhân tố động lực bên trong, lý thuyết kỳ vọng có thể giải thích cụ thể hơn về các nhân tố này. Lý thuyết kỳ vọng về động lực làm việc, được phát triển bởi Vroom, là một lý thuyết giải thích quá trình cá nhân nhận thức để đưa ra quyết định lựa chọn hành vi khác nhau 7 .

Lý thuyết kỳ vọng của Vroom được xây dựng dựa trên bốn giả định sau: Thứ nhất, mỗi cá nhân có những kỳ vọng về nhu cầu, động lực và những trải nghiệm trong quá khứ khác nhau. Thứ hai, hành vi của mỗi cá nhân là kết quả của sự lựa chọn dựa trên sự tính toán của họ. Thứ ba, mỗi người lại có những mong muốn khác nhau, ví dụ như có người mong muốn thu nhập cao, có người muốn thăng tiến, có người muốn sự thử thách,…. Cuối cùng là con người sẽ đưa ra quyết định nhằm tối ưu hóa sự lựa chọn theo tính toán của cá nhân 7 . Một cách lập luận khác là để động viên một người, nỗ lực, kết quả thực hiện công việc và phần thưởng phải được liên kết với nhau. Victor Vroom gợi ý rằng một cá nhân sẽ hành động theo cách nhất định dựa trên niềm tin ( kỳ vọng ) rằng hành vi đó sẽ nhận được một phần thưởng mong muốn (có giá trị với bản thân) một khi hành động đã được hoàn thành (kết quả của việc hoàn thành công việc trở thành phương tiện để có được phần thưởng), được mô tả trong Figure 1 .

Figure 1 . Học thuyết kỳ vọng của Vroom.

Figure 1             × [Download figure]

Học thuyết có thể được gói gọn trong công thức M = VIE, trong đó M là động lực thực hiện hành vi, là một hàm của ba biến nhận thức khác nhau: kỳ vọng (E), phương tiện (I), và giá trị (V).

E là “kỳ vọng” được Victor Vroom 7 định nghĩa là “niềm tin tạm thời liên quan đến khả năng một hành động cụ thể sẽ được theo sau bởi một kết quả cụ thể”, liên quan đến nhận thức của cá nhân rằng nỗ lực có tương quan tích cực tới kết quả thực hiện công việc, nếu gia tăng nỗ lực thì kết quả làm việc có tăng hay không.

V là “giá trị”. Vroom định nghĩa “giá trị” đề cập đến “sự yêu thích và tầm quan trọng hay giá trị mà một người gán cho một phần thưởng nào đó” 7 . Một phần thưởng có giá trị thấp hoặc không có giá trị nếu người đó không mong muốn nhận được phần thưởng đó và ngược lại.

I là “phương tiện”. Đó là mối quan hệ giữa kết quả thực hiện công việc với phần thưởng. Vroom 7 đã cho rằng “phương tiện thể hiện nhận thức của một cá nhân về khả năng kết quả làm việc của anh ta sẽ mang lại cho anh ta phần thưởng tương xứng”.

Trong nghiên cứu này lý thuyết kỳ vọng mở rộng được áp dụng (Hình 2). Trần Thị Kim Nhung đã tổng kết giảng viên sẽ đánh giá sự hấp dẫn của 9 phần thưởng bên ngoài và 8 phần thưởng bên trong ảnh hưởng đến động lực nghiên cứu khoa học 19 , 18 .

Trong số ba thành phần cấu trúc của lý thuyết kỳ vọng, phương tiện (I) và giá trị (V) có liên quan đến phần thưởng. Do đó, phương tiện (I) và giá trị (V) có thể được chia thành các phần bên ngoài và bên trong. Phương tiện bên ngoài (EXTIN), phương tiện bên trong (INTIN), giá trị bên ngoài (EXTVA) và giá trị bên trong (INTVA). Nghiên cứu của Chiang & Jang đã mở rộng lý thuyết kỳ vọng của Vroom bằng cách chia phương tiện (I) và giá trị (V) thành các phần bên ngoài và bên trong và kiểm tra đóng góp tương đối của các thành phần bên ngoài và bên trong vào động lực của nhân viên 11 .

Nghiên cứu của Chiang & Jang đã kiểm tra mức độ mà mỗi thành phần E (EXPECT), I bên ngoài (INTIN), I bên trong (EXTIN), giá trị bên ngoài (EXTVA), giá trị bên trong (INTVA)) ảnh hưởng đến động lực của nhân viên khách sạn 11 như trong Figure 2 .

Figure 2 . Mở rộng l ý thuyết kỳ vọng vào nghiên cứu động lực làm việc do Chiang và Jang (2008) đề xuất.

Figure 2             × [Download figure]

Do vậy, nghiên cứu này sẽ áp dụng mô hình của Chiang và Jang 11 để xem xét mức độ tác động của các biến này đến động lực toàn phần của giảng viên trong nghiên cứu khoa học (được ký hiệu là MOT). Nên các giả thuyết đặt ra là:

H 1: Phương tiện bên ngoài có tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học

H2 : Phương tiện bên trong tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học

H3 : Giá trị bên ngoài có tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học

H4 : Giá trị bên trong tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học

H 5: Kỳ vọng có tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học

Phương pháp nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu và thu thập dữ liệu

Đối tượng tổng thể của nghiên cứu là giảng viên đại học giảng dạy và nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh tại các trường đại học ở Hà Nội. Nghiên cứu chọn phương pháp lấy mẫu thuận tiện. Phiếu hỏi trực tiếp được gửi đến các giảng viên tại các hội thảo khoa học, gửi phiếu hỏi qua e-mail và facebook, bảng hỏi được thiết kế trên công cụ googledocs và trực tiếp gửi bảng hỏi đến các giảng viên trong lĩnh vực kinh tế, quản lý và quản trị kinh doanh đang công tác tại các trường Đại học ở Hà Nội. Có 475 phiếu được lựa chọn đủ yêu cầu đưa vào xử lý dữ liệu. Chi tiết mẫu nghiên cứu như sau: 58,8% thuộc nhóm các trường ĐH Kinh tế Quốc dân, ĐH Ngoại Thương, ĐH Thương Mại, Học viện tài chính, Học viện ngân hàng, ĐH Quốc gia Hà Nội, 34,6% thuộc các trường ĐH Lao động xã hội, HV Chính trị KVI, ĐH Công Đoàn, ĐH Mỏ Địa chất, ĐH Thủy Lợi, ĐH Công nghiệp Hà Nội, ĐH Bách Khoa Hà Nội và 5,7% thuộc nhóm các trường khác. Có 69,7% giảng viên nữ và 30,3% giảng viên nam. Giảng viên dưới 34 tuổi chiếm 33,9%; 61,1% từ 35-55 tuổi và 5,1% trên 55 tuổi. Chỉ có 9,7% giảng viên có học hàm Giáo sư (GS) và Phó Giáo sư (PGS).

Thang đo và phát triển bảng hỏi

Nghiên cứu đã tổng hợp các phần thưởng có thể nhận được từ hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm 9 phần thưởng bên ngoài sử dụng có điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh trường đại học Việt Nam từ nghiên cứu của Tien và Chen và cộng sự bao gồm: lương; thưởng; thăng hạng chức danh nghề nghiệp nâng cao học hàm có chức vụ quản lý đứng đầu trong học thuật; giữ vững vị trí công việc trong trường; giảm tải giảng dạy; tìm được một công việc tốt hơn 1 , 8 và 8 phần thưởng bên trong sử dụng của Chen và cộng sự, Tien và Chiang và Jang bao gồm: Nhận sự tôn trọng từ đồng nghiệp và sinh viên thỏa mãn nhu cầu đóng góp cho sự phát triển thỏa mãn nhu cầu bản thân về sự tò mò thỏa mãn nhu cầu được cộng tác với đồng nghiệp; thỏa mãn nhu cầu phát triển bản thân trong lĩnh vực làm việc; niềm vui được tham gia nghiên cứu; cảm giác vượt qua thử thách cảm nhận tốt về bản thân 11 , 8 , 1 . Do đó, thang đo giá trị bên ngoài và phương tiện bên ngoài mỗi thang đo có 9 chỉ báo. Thang đo giá trị bên trong và phương tiện bên trong mỗi thang đo bao gồm 8 chỉ báo. Các câu hỏi đo lường “giá trị” được hỏi về tầm quan trọng của từng phần thưởng đối với bản thân giảng viên. Thang đo “phương tiện” gồm các câu hỏi để giảng viên đánh giá khả năng nhận được từng phần thưởng sau khi có kết quả thực hiện nghiên cứu khoa học. Các chỉ báo được đo trên thang điểm từ 1 (hoàn toàn không đồng ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý).

“Kỳ vọng” được đo lường bằng cách sử dụng bốn chỉ báo của Chiang và Jang 11 . Nội dung các chỉ báo hỏi về việc gia tăng nỗ lực nghiên cứu khoa học sẽ dẫn đến cải thiện kết quả, tăng năng suất, tăng chất lượng và tăng hiệu quả thực hiện nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu sử dụng sáu chỉ báo của Wright 20 để đo động lực nghiên cứu khoa học (MOT). Các câu hỏi để cá nhân tự đánh giá bản thân về mức độ tham gia, sự định hướng, cường độ làm việc và sự kiên trì trong công việc.

Để thu thập dữ liệu cho nghiên cứu, bảng hỏi được phát triển trên nền tảng các chỉ báo đo lường các khái niệm trong mô hình nghiên cứu. Nhưng trước khi thiết kế bảng hỏi thử với mẫu nhỏ, nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn 11 giảng viên để kiểm tra các khái niệm của các biến và nội hàm các chỉ báo (như chỉ báo liên quan đến phần thưởng thăng tiến đã được thay đổi thành phần thưởng học hàm và chức danh nghề nghiệp và thấy chỉ báo về phần thưởng biên chế không phù hợp ở Việt Nam nên đã được loại). Thêm vào đó bảng hỏi có cả các câu hỏi nhân khẩu học, chẳng hạn như giới tính, tuổi, học hàm, vị trí quản lý. Các chỉ báo được dịch sang tiếng Việt qua quá trình dịch xuôi-ngược. Sau đó bảng hỏi được thử nghiệm với một mẫu nhỏ giảng viên trả lời để đảm bảo không có hiểu nhầm về nội dung câu hỏi và để điều chỉnh lại hình thức bảng hỏi lần cuối (như chỉ báo đo lường động lực “thời gian dường như kéo dài khi tôi làm việc” được loại vì gây khó hiểu và nhầm lẫn khi trả lời). Cuối cùng các chỉ báo được sử dụng để nghiên cứu chính thức.

Phân tích dữ liệu

Để kiểm định các giả thuyết được đề xuất, nghiên cứu đã sử dụng phân tích hồi quy đa biến với động lực nghiên cứu khoa học là biến phụ thuộc. Trong mô hình 1 (MH1), mô hình kiểm soát, các biến độc lập là tuổi, giới tính (nữ = 0, nam = 1), vị trí quản lý (không = 0, có = 1), học hàm (chưa có = 0; PGS và GS = 1). Trong mô hình 2 (MH2), bên cạnh các biến kiểm soát, giá trị bên trong (INTVA), giá trị bên ngoài (EXTVA), phương tiên bên trong (INTIN), phương tiện bên ngoài (EXTIN) được thêm vào. Trong mô hình 3 (MH3), mô hình đầy đủ, thành tố kỳ vọng (EXPECT) của lý thuyết kỳ vọng được thêm vào.

Trước khi kiểm định các giả thuyết, nghiên cứu thực hiện kiểm định độ tin cậy thang đo bằng hệ số cronbach’s anpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA) đối với tất cả các chỉ báo của thang đo đo lường các biến độc lập và EFA đối với các chỉ báo đo lường biến phụ thuộc. Kết quả làm căn cứ cho phân tích hồi quy tuyến tính và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Đánh giá độ tin cậy và giá trị của thang đo

Để đánh giá các thang đo được dùng trong nghiên cứu này, nghiên cứu thực hiện EFA và kiểm tra độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha. Các chỉ báo đo lường Cronbach’s Alpha của mỗi thang đo nằm trong khoảng từ 0,771 (đối với biến MOT) đến 0,991 (đối với INTIN). Sau khi đã loại đi 1 chỉ số ở thang đo giá trị bên ngoài (có một công việc tốt hơn), 1 chỉ số ở thang đo kỳ vọng (tôi không thể có kết quả tốt hơn ngay cả khi tôi cố hết sức), 02 chỉ số ở thang đo động lực (tôi rất khó tập trung vào công việc và tôi thấy mình không chăm chỉ như những đồng nghiệp khác). Các chỉ báo đo lường còn lại cho thấy mức độ tin cậy được chấp nhận vì các hệ số alpha đều lớn hơn 0,6 và các biến có hệ số tương quan biến – tổng lớn hơn 0,3 theo Hair và cộng sự 21 .

Cụ thể phân tích nhân tố khám phá được thực hiện trên những chỉ báo đo lường 5 biến độc lập là giá trị bên trong (INTVA), giá trị bên ngoài (EXTVA), phương tiên bên trong (INTIN), phương tiện bên ngoài (EXTIN) và kỳ vọng (EXPECT). Sau nhiều lần loại các chỉ báo có hệ số extraction nhỏ và hệ số tải cao vào cả hai nhân tố, kết quả cuối cùng của EFA đã cho thấy giá trị hội tụ và giá trị phân biệt của các thang đo trong nghiên cứu. Kết quả chỉ số KMO phù hợp (0,5≤KMO = 0,893≤1) theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc 22 . Kết quả kiểm định Bartlett's về sự tương quan giữa các biến còn lại có mức ý nghĩa Sig. = 0,000 50% theo Anderson và Gerbing 23 . Các chỉ báo này tải cao vào một nhân tố và tải thấp hơn vào nhân tố còn lại. Nhân tố giá trị bên ngoài (EXTVA) bị tách thành hai tổ hợp mới được đặt tên lại là giá trị tài chính (FINVA) bao gồm hai chỉ báo là lương, thưởng và giá trị thăng tiến (PROVA) bao gồm ba chỉ báo là chức danh nghề nghiệp, học hàm và vị trí quản lý. Do đó, giả thuyết H3 được chuyển thành H3a : Giá trị tài chính có tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học và H3b : Giá trị thăng tiến có tác động tích cực đến động lực nghiên cứu khoa học.

Table 1 Kết quả ma trận xoay nhân tố lần cuối
Biến quan sát Nhân tố
F1 F2 F3 F4 F5 F6
FINVA1 0,938
FINVA2 0,845
PROVA1 0,500
PROVA2 0,788
PROVA3 0,697
INTVA1 0,664
INTVA2 0,677
INTVA3 0,653
INTVA4 0,733
INTVA5 0,775
INTVA6 0,585
INTVA7 0,576
INTVA8 0,731
EXTIN1 0,788
EXTIN2 0,681
EXTIN3 0,334
EXTIN4 0,675
INTIN1 0,489
INTIN2 0,752
INTIN3 0,763
INTIN4 0,670
INTIN5 0,837
INTIN6 0,927
INTIN7 0,724
INTIN8 0,685
EXPECT1 0,789
EXPECT2 0,913
EXPECT3 0,851
EXPECT4 0,459

Ma trận hệ số tương quan

Bảng 2 cho thấy ma trận hệ số tương quan giữa các biến bao gồm giá trị bên trong (INTVA), giá trị tài chính (FINVA), giá trị thăng tiến (PROVA), phương tiện bên trong (INTIN), phương tiện bên ngoài (EXTIN), kỳ vọng (EXPECT) và động lực nghiên cứu khoa học (MOT). Ở mức ý nghĩa 5%, kết quả cho thấy giá trị bên trong, giá trị tài chính, giá trị thăng tiến, phương tiện bên trong, phương tiện bên ngoài và kỳ vọng đều có mối quan hệ cùng chiều với động lực nghiên cứu khoa học (lần lượt r = 0,337; 0,181; 0,197; 0,505; 0,205; 0,394). Như vậy hệ số tương quan cho thấy mối quan hệ phụ thuộc giữa biến phụ thuộc (MOT) với các biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê (Sig. Google Scholar

  • Englebrecht T.D., Iyer G.S., Patterson D.M.. An empirical investigation of the publication productivity of promoted accounting faculty. Accounting Horizons. 1994;8(1):45-68. Google Scholar
  • Buchheit S., Collins A.B., Collins D.L.. Intra-institutional factors that influence accounting research productivity.. The Journal of Applied Business Research. 2001;17(2):17-31. Google Scholar
  • Vroom V.H.. Work and motivation. New York: John Wiley & Sons. 1964;:. Google Scholar
  • Vansteenkiste V., Lens W., Witte H., Feather N.T.. Understanding unemployed people's job search behaviour, unemployment experience and well‐being: A comparison of expectancy‐value theory and self‐determination theory. British journal of social psychology. 2005;44(2):269-287.
  • Từ khóa » Thì Quá Khứ Của Examine