BỘ ĐỀ ÔN HSG VĂN THPT THEO TÁC PHẨM
Có thể bạn quan tâm
BỘ ĐỀ HSG MÔN VĂN THEO TÁC PHẨM
(sưu tầm và giới thiệu)
BỘ ĐỀ LỚP 10
TRUYỆN CỔ TÍCH
Đề 1: Có ý kiến cho rằng: “Truyện cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện
thực chỉ có trong mơ ước”. Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Chứng minh qua một số truyện cổ tích đã được học.
BÀI LÀM
Con người luôn hướng đến những điều tốt đẹp về một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc hơn, một cuộc sống bình đẳng, nơi đó cái thiện sẽ lên ngôi chiến thắng cái ác. Những ước mơ ngàn đời ấy được thể hiện rõ nét qua những câu chuyện cổ tích bình dị, mang cả điệu hồn dân tộc, ru ta lớn khôn từ thời tấm bé. Khi thực tại quá tối tăm thì những người dân lao động chỉ biết tìm thấy chút ánh sáng le lói cháy lên qua những ngọn nến ước mơ nơi cuối đường hầm. Chính vì thế mà đã có nhận định cho rằng: “Cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”.
Truyện cổ tích thần kì là loại tiêu biểu nhất của truyện cổ tích. Những truyện thuộc tiểu loại này thường ra đời từ rất sơm và những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích đều có thể tìm thấy ở kiểu truyện này. Đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích là sử dụng yếu tố kì ảo một cách đậm đặc. Đó là một yếu tố không thể thiếu được của cốt truyện, phản ánh mhữmg ước mơ, nguyện vọng về một xã hội lí tưởng của nhân dân và kết thúc truyện thường có hậu.
Truyện cổ tích tập trung phản ánh số phận của những con người nhỏ bé, khốn khổ, tủi nhục trong xã hội đầy áp bức bất công… Mỗi nhân vật có một số phận khác nhau mhưng đều có chung những phẩm chất tốt đẹp: hiền lành, tốt bụng, tài năng. Đó là anh Khoai nghèo khó, bần hàn nhưng cần cù, chất phác; là chàng Sọ Dừa đội lốt xấu xí nhưng chăm chỉ, hiền lành; là chàng Thạch Sanh có số phận bất hạnh nhưng tài năng, thương người… Họ đại diện cho tầng lớp nhân dân thấp cổ bé họng, sống trong lầm than, khổ cực nhưng vẫn giữ tâm hồn trong sáng, lương thiện, đức tính chăm chỉ, cần cù vốn có.
Truyện cổ tích thần kì xây dựng thành công một thế giới trong mơ ước. Thông qua những câu chuyện ấy một ánh sáng lí tưởng của nhân dân được nêu lên về một xã hội công bằng, dân chủ. Trong đó, người lương thiện, tốt bụng, tài năng sẽ được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những phẫm chất tốt đẹp của họ. Một cô Tấm thảo hiền trở thành hoàng hậu; một chàng Thạch Sanh trở thành phò mã… Tất cả đều là những ước mơ, những giấc mơ giản dị mà đẹp đẽ thể hiện cho khát vọng của con người trong cuộc sống. Họ mong muốn những người ở hiền sẽ được gặp lành, còn những kẻ độc ác, xấu xa sẽ bị trừng trị thích đáng. Mơ ước và con người sống trong mơ ước ấy không ngừng đấu tranh để đạt được mơ ước, để biến mơ ước ấy thành hiện thực. Họ mơ ước trong hiện thực và mơ ước về hiện thực, không phải những điều tốt đẹp ở cõi tiên hay một nơi nào khác mà ngay chính giữa cuộc đời họ. Nó vẫn là thế giới ở trần gian, tồn tại, biến động với tất cả sự phong phú, đa dạng, phức tạp của nó. Chỉ có điều, thế giới ấy được hoàn thiện hóa, lí tưởng hóa lên mà thôi.
Trong xã hội loài người, xã hội mà con người đã, đang và sẽ sống luôn luôn tồn tại biết bao nhiêu sự phức tạp, đa dạng thẫm chí cả những mâu thuẫn hết sức gay gắt nóng bỏng. Bên cạnh những điều tốt đẹp, tươi sáng vẫn còn không ít những cái xấu xa, đen tối nhởn nhơ giữa cuộc đời, đặc biệt trong xã hội phong kiến- hoàn cảnh ra đời chủ yếu của truyện cổ tích. Mà con người ngay từ khi xuất hiện đã không ngừng vươn tới chân, thiện, mĩ. Do đó, người ta không thể chấp nhận những điều xấu xa, giả dối kia. Người ta phải xây dựng nên trong khát vọng và trí tưởng tượng của mình một thế giới khác tươi đẹp hơn. Đó cũng là một hình thức phủ nhận hiện thực đen tối. Khi ước mơ không thể thực hiện thì qua những câu chuyện cổ tích ánh sáng kì ảo, chói ngời hạnh phúc vào cuộc đời tối tăm, bất hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn. Trong thế giới truyện cổ tích, người hiền sẽ gặp lành, kẻ ác bị trừng trị; sự công bằng được thực hiện, lao động được nhẹ nhàng, tuổi già và cái chết bị đẩy xa; người dị dạng, xấu xí trở nên đẹp đẽ; người mất vợ hoặc người yêu được đoàn tụ; người nghèo sẽ giàu có, người bị áp bức, đau khổ sẽ có địa vị và quyền thế cao sang…
Có thể nói, truyện cổ tích thần kì là sự phản ánh mơ ước của nhân dân về một thế giới tốt đẹp hơn trong tương lai bằng những hư cấu kì ảo. Họ không khoanh tay đứng nhìn để cho mơ ước của mình mãi mãi là điều không tưởng. Chính vì mơ ước là cái không có thực trong hiện tại nên sự phản ánh mơ ước phải là những hư cấu kì ảo do trí tưởng tượng của con người tạo ra. Do đó, nói: “Cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước” có nghĩa là: truyện cổ tích thần kì là sự phản ánh mơ ước của nhân dân ta về một thế giới tốt đẹp hơn trong tương lai bằng những hư cấu kì ảo. Đồng thời nó cũng phản ánh quyết tâm của người lao động, là đấu tranh cho mơ ước ấy thành hiện thực…
Trong truyện “Tấm Cám” có một bức tranh cuộc sống với những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội. Truyện kể “mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi”, lời kể ấy đã xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ, thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu: “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chợ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ lại càng thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều.
Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. Bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hi vọng cái yếm đào, Tấm khóc. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm, cô lại khóc. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Tấm lại khóc và dường như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau của cô lên cao hơn. Tiếng khóc hay tiếng lòng, hay nỗi uất hận đã đè nén thành hình, thành khối để rồi bật ra nơi từng tiếng khóc nghẹn ngào, ấm ức.
Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội. Mâu thuẫn giữa Tâm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn là mâu thuẫn dì ghẻ- con chồng mà còn là hình thức biểu hiện cụ thể của xung đột Thiện- Ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chămm chỉ, lương thiện, đôn hậu. Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ nhỏ bé của Tấm là cái yếm đào; lén lút giết chết con bôngd là giết chết người bạn nhỏ bé của Tấm; đang tâm trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gọi dậy niềm cảm thông chia sẻ với mọi người.
Sống giữa vũng lầy của cuộc đời, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Tấm- đại diện cho người nông dân vẫn vươn lên tỏa ngát như những bông sen mảnh mai mà bền bỉ sức sống. Tước vùi dập của cái ác Tấm hay chính là nhân dân vẫn đấu tranh vì hạnh phúc đến cùng. Tấm tuy đã trở thành hoàng hậu nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt, săn đuổi. Cô Tám lương thiện, hiếu thảo trèo cau hái quả cúng hca đã bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Cô Tấm hiền lành, ngây th vừa ngã xuống một cô gái mạnh mẽ và quyết liệt hơn sống dậy, hóa thân trở về với cuộc đời, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Cuộc chiến đấu đó thật gian nan, quyết liệt nhưng cũng thật hấp dẫn đối với độc giả. Bởi trong cuộc đời, những gì người mồ côi, nhỏ nhoi, yếu thế không làm được thì Tấm đã thay họ thự hiện “oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng.
Tấm thảo hiền thì dì ghẻ chặt cây sát hại mà không cam chịu chết. Cô hóa vàng an, bay vào cung vua báo hiệu sự có mặt của mình trong lời nhắc nhỏ: “Giặt áo chồng tao phơi lao, phơi sào/ Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết Tấm hóa cây xoan đào tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ dội hơn: “Lây tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khug cửi bị đốt cháy. Từ đống tro tàn chết chóc, Tấm hóa cây thị trở lại với đời. Trong sự hóa thân ấy có sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Phải chăng trong nhân vật Tấm đã hội tụ sự dịu dàng và tính cách bất khuất của người pụ nữ Việt Nam xa xưa.
Tấm đã hóa thân, cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của tấm phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt, gay gắt của cuộc chiến đấu giữ cái thiện với cái ác; đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị triệt tiêu của cái thiện.
Chim vàng anh, cây xoan đào, quả thị là những nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị, thân thương trong cuộc sống dân dã. Nếu như lần đầu câu chuyện, mỗi lần Tấm khóc Bụt thường hiện lên ban tặng vật thần kì, thì phần sau cuộc đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không còn thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Cũng chính nhân dân lao động, những người có thân phận như Tấm, những người thấu hiểu và cảm thương cô Tấm thiệt thòi, đã gửi vào cô Tấm ý thức mãnh liệt giành và giữ hạnh phúc của mình. Đằng sau câu chuyện đã ẩn chứa một chân lí: Hạnh phúc chỉ có bền chặt khi ta biết dành và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết ngồi khóc, còn bụt làm thay tất cả thì đến đây chim vàng anh, khug cửi, quả thị không thay tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi hóa thân, tạm ẩn mình để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.
Nhưng sau nhiều lần chết đi sống lại của Tấm, trong lốt chim, cây, quả… Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng nào mẹ con Cám còn hiển diện. Cô lừa cám để sai người đào hố, dội nước sôi tự tìm đến cái chết. Kết thúc đó nêu lên một triết lí dân gian “ác giả ác bào”, phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt tận gốc kẻ thù. Cuối cùng hạnh phúc đã trở về với Tấm như món quà tặng quý giá cho lòng thủy chung và sự dũng cảm của cô.
Sự hóa thân nhiều lần rồi trở về cuộc đời của tấm là biểu hiện sinh động của quan niệm về công bằng xã hội và hạnh phúc. Người lương thiện phải được hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt, đó là quy luật của lòng nhân đạo, tình yêu thương con người. Người lao động không chờ đợi hạnh phúc và mơ hồ ở cõi nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay trên mảnh đất mình từng gắn bó ở nơi trần thế.
Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn theo hướng: Thiện thắng Ác và nười lương thiện nhất định sẽ được hưởnh hạnh phúc. Con đường dẫn đến hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giả quyết mâu thuẫn rất đặc trưng của truyện cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, truyện cổ tích thường dử dụng yếu tố kì ảo.
Trong truyện “Tấm Cám” các yểu tố kì ảo được đưa vào sử dụng với “mật độ” dày đặc. Đó là những thế lực siêu nhiên như ông Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm mất yếm đào- Bụt cho cá bống, Tấm mất cá bống- Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội- Bụt cho đàn chim sẻ đến giúp. Bụt cho tấm có ngựa, có quần áo mới… đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Cùng với Bụt, con gà cũng là yếu tố kì ảo, biết cảm thông với Tấm, chim sẻ cũng giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, trợ giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa. Những hình ảnh chim vàng anh, khung cửi, quả thị… cũng đều là những yếu tố kì ảo, là vật hóa thân của tấm hỗ trợ cô trên con đường tìm đến hạnh phúc. Mỗi lần hóa thân sức sống ấy lại càng trỗi dậy mãnh liệt hơn, tràn trề hơn khiến cho cuộc chiến giữ Thiện và Ác càng cam go, quyết liệt hơn.
Những đau khổ của người mồ côi là có thật và phổ biến, còn hạnh phúc mà họ được hưởng rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc thông qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may mắn cho họ thông qua những yếu tố thần kì. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.
Cùng với truyện “Tấm Cám”, đến với truyện “Chử Đồng Tử” những ước mơ ấy của nhân dân cũng được thể hiện một cách sâu sắc. Nhân vật Chử Đồng Tử là chàng trai nghèo đánh cá có cuộc sống bần hàn, nghèo khó. Cả “gia tài” của hai cha con chỉ có mỗi một cái khố chung nhau mặc. Trong khi đó, cuộc sống nơi cung đình thì xa hoa, giàu sang tột đỉnh. Chỉ một chuyến đi chơ của công mà có biết bao kẻ hầu người hạ, thuyền, lọng nườm nượp.
Như một sự tình cờ khi Tiên Dung vào bờ tắm thì gặp phải Chử Đồng Tử đang vùi mình dưới cát và duyên số kết thành hai người đã đến vớ nhau. Cuộc hôn nhân của công chúa Tiên dung và chàng trai đánh cá nghèo Chử Đồng Tử vượt ra ngoài khuôn khổ phong kiến, điều đó thể hiện cho khát vọng bình đẳng giữa con người với con người của nhân dân ta.
Hoàn cảnh hai người gặp nhau thật độc đáo. Đó là khung cảnh giữa đất trời bao la, phóng khoáng và Tiên Dung là người ngỏ lời trước. Sống trong xã hội phong kiến thì con người luôn phải chịu ảnh hưởng của tư tưởng nam nữ “Trâu đi tìm cọc”, hành động ấy của Tiên Dung đã nêu lên khát vọng tình yêu trong tự do, thuận theo tình cảm.
Khi bị vua Hùng phản đối, hai vợ chồng Chử Đồng Tử đã tự mình gây dựng nên cuộc sống và họ đã sống trong nhân dân, làm ăn thịnh vượng. Đó là lời ca ngợi tinh thần tự lực cánh sinh, phấn đấu thực hiện ước mơ. Đồng thời, khi cuộc sống đã yên bề gia thất hai vợ chồng vẫn không đối đầu với vua cha mà vẫn hào hảo. Đó chính là tiếng nói của nhân dân không muốn xảy ẻa chiến tranh. Biểu hiện cao đẹp cho giá trị nhân đạo, khát vọng dân chủ mãnh liệt của nhân dân ta.
Và để thực hiện được ước mơ ấy, tác giả dân gian đã thổi vào những yếu tố kì ảo để giúp nhân vật của mình trong bước đường đi tìm hạnh phúc. Để có được tòa thành lớn, có kẻ hầu người hạ đó là nhờ nhà sự Phật Quang truyền cho phép mầu. Tất cả các chi tiết như được “sắp xếp” một cách cẩn trọng, khi Chử Đồng Tử lên núi lấy nước đã vô tình gặp được nhà sư Phật Quang và được ông truyền đạo để rồi có khả năng siêu biệt có thể hóa phép thành nhà cao cửa rộng. Chi tiết cả người lẫn lâu đài thành quách cùng bay về trời để mãi được sống tự do là một chi tiết kì ảo được nhân dân sáng tạo ra để gửi gắm vào đó chân lí “ở hiền gặp lanh”, ước mơ được sống tự do…
Con người muốn hoàn thiện mình, xã hội muốn tiến lên thì phải luôn luôn mơ ước đến những điều tốt đẹp hơn và không ngừng đấu tranh để đạt đến điều mơ ước ấy. “Là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”, truyện cổ tích thàn kì và văn học dân gian nói rộng ra đúng là kho báu tinh thần của dân tộc, rất đáng chúng ta trân trọng và học hỏi.
(Đề sưu tầm)
NGUYỄN DU
ĐỀ 2: Bàn về thơ, Tố Hữu đã nói: “ Thơ là cái đó: sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì có những tiếng dội vang rất đa dạng và tinh tế” và “Thơ phải chăng là điều ấy: mơ ở trong thực, cái vô hình trong cái hữu hình...” .
Bằng những hiểu biết về tác phẩm của Nguyễn Du, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
*Yêu cầu về kĩ năng:
- Vận dụng thuần thục kĩ năng làm bài văn nghị luận văn học về thơ trữ tình.
- Vận dụng thuần thuc kiến thức lí luận văn học về thơ trữ tình.
- Vận dụng thuần thục kĩ năng phân tích tác phẩm thơ trữ tình
- Diễn đạt lưu loát, sáng rõ, giàu hình ảnh và cảm xúc.
*Yêu cầu về nội dung:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đáp ứng các ý cơ bản sau:
1. Giải thích:
- “Sự im lặng giữa các từ”: là một cách diễn đạt để chỉ những “khoảng trống” của ngôn ngữ, là ý nghĩa của thơ.
- “Những tiếng dội vang rất đa dạng và tinh tế”: là một cách diễn đạt có hình ảnh để chỉ thế giới tâm hồn phong phú, đa dạng và vô cùng tinh tế của con người.
- “Thơ phải chăng là điều ấy: mơ ở trong thực, cái vô hình trong cái hữu hình”: Cái hiện hữu, hữu hình là từ ngữ, hình ảnh thơ, âm điệu thơ. Cái mờ ảo, vô hình là những trường liên tưởng được gợi lên. Đó là những ấn tượng, những cảm xúc, tâm trạng, những nỗi niềm, khát khao, mơ ước…
* Ý nghĩa của thơ không phải chỉ là nghĩa của ngôn từ, mà quan trọng hơn, còn là những gì ngôn từ gợi lên. Một trong những phẩm chất kì lạ của thơ bộc lộ ở sự “im lặng” của nó. Thơ đối thoại với người đọc không chỉ qua từ ngữ mà lắm khi bằng sự im lặng đầy ý nghĩa của từ ngữ và giữa từ ngữ, những “khoảng trống” đầy ẩn ý của ngôn ngữ, phần chữ nghĩa của thơ không nói hết, phần ý ở ngoài lời
2. Bình luận:
Ý kiến trên là hoàn toàn xác đáng, đúng đắn và sâu sắc. Nó xuất phát từ đặc trưng của văn học, của ngôn từ nghệ thuật nói chung, của thơ trữ tình nói riêng.
- Cấu trúc của văn bản văn học gồm có: tầng ngôn từ, tầng hình tượng và tầng hàm nghĩa. Trong đó, ngôn từ là cơ sở để xác định hình tượng và suy ra hàm nghĩa - mục đích quan trọng của quá trình đọc-hiểu văn bản văn học.
- Đặc trưng quan trọng nhất của ngôn từ nghệ thuật là tính hình tượng. Chính đặc trưng này tạo nên tính hàm súc và đa nghĩa của ngôn từ nghệ thuật. Ý nghĩa của ngôn từ nghệ thuật không phải ở cái nó nói, mà ở cái nó gợi lên.
- Thơ trữ tình không chú trọng tả mà chú trọng gợi. Ý nghĩa của thơ không phải là nghĩa của ngôn từ mà là những gì ngôn từ gợi lên, đó là “sự im lặng giữa câu từ”, là những “khoảng trống” của ngôn ngữ, và ở đó chính là thế giới tâm hồn phong phú, đa dạng và vô cùng tinh tế của con người. Đọc thơ chính là từ thế giới của ngôn từ mà thâm nhập vào thế giới tâm hồn phong phú, đa dạng và vô cùng tinh tế của con người.
3. Chứng minh:
Học sinh lựa chọn tác phẩm của Nguyễn Du theo hướng phục vụ tốt nhất cho việc làm sáng tỏ ý kiến của đề bài. Bài làm phải có ý thức bám sát nhận định. HS phân tích nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong các tác phẩm đó để cảm nhận được cảm xúc, tâm trạng, ước mơ, khát vọng, tư tưởng… mà Nguyễn Du gởi gắm. Đó chính là ý nghĩa của tác phẩm, là yếu tố quan trọng nhất trong cấu trúc của tác phẩm.
4. Đánh giá:
- Ý kiến trên đã khẳng định một đặc trưng quan trọng của thơ trữ tình, và là một lời nhắc nhở có tính nguyên tắc đối với người làm thơ: Thơ không phải là nghệ thuật của ngôn từ, mà là nghệ thuật biểu hiện thế giới nội tâm của con người bằng ngôn từ nghệ thuật.
- Ý kiến trên có giá trị định hướng cho người đọc khi tiếp cận và tìm kiếm những giá trị đích thực của những tác phẩm thơ trữ tình.
BIỂU ĐIỂM:
- Điểm 11-12: Bài làm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về kĩ năng và kiến thức. Bài mạch lạc, hành văn trôi chảy, giàu hình ảnh, cảm xúc. Có thể còn mắc vài lỗi nhỏ về diễn đạt.
Người ra đề: Đoàn Thị Hồng
ĐỀ 3: Có ý kiến cho rằng: Người nghệ sĩ chân chính là người suốt đời chỉ truyền bá một thứ tôn giáo: Tình yêu thương con người.
Anh/Chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua các trích đoạn “Truyện Kiều” đã học trong chương trình Ngữ văn 10- THPT, anh/chị hãy làm sáng tỏ .
Đáp án:
Nhận thức đề:
Đề bài yêu cầu làm rõ 2 nội dung:
– Hiểu đúng ý kiến: Người nghệ sĩ chân chính suốt đời chỉ viết về con người, ca tụng tình yêu thương con người.
– Phân tích tình yêu thương, sự đồng cảm của tác giả Nguyễn Du đối với các nhân vật trong “Truyện Kiều”.(ý chính)
Yêu cầu kiến thức
*Mở bài: Nêu vấn đề
*Thân bài:
a) Giải thích nhận định (1,5 điểm):
+ Người nghệ sĩ là cách gọi chung cho các nhà văn, nhà thơ…những người có đóng góp lớn lao cho nghệ thuật. (0,25 điểm)
+ Người nghệ sĩ chân chính: Những người mang lý tưởng tiến bộ của thời đại, đại diện cho lương tri của loài người, sẵn sàng đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ công lí, lẽ phải, giàu tình yêu thương nhân ái, sẵn sàng xả thân cho cuộc đời và cho nghệ thuật. (0,5 điểm)
+ Sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ là khám phá cái đẹp của cuộc sống và chuyển tải đến người đọc thông qua tác phẩm văn học. Con người với tất cả niềm vui hạnh phúc, khát khao và nỗi buồn đau luôn trở thành nguồn cảm hứng dồi dào của văn học và là mối quan tâm hàng đầu của nhà văn. (0,5 điểm)
+ Tác phẩm văn học chân chính là sản phẩm của nhà văn nhân đạo chủ nghĩa. Qua những cảnh ngộ, nhà văn muốn người đọc cùng chia sẻ và đồng cảm, bênh vực và ca tụng con người, ca ngợi tình người. Những tác phẩm như thế sẽ trường tồn và độc giả yêu thích. (0,25 điểm)
=> Ý kiến bàn về sứ mệnh của người nghệ sỹ, giá trị và chức năng của văn học nghệ thuật.
b) Bàn luận: Vì sao nhà văn chân chính lại lấy việc làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn làm mục đích sáng tác? (2,5 điểm)
+ Vì Người nghệ sĩ chân chính rất giàu tình yêu thương đối với cuộc đời. Họ luôn day dứt, trăn trở trước cuộc sống và con người. (họ là “người cho máu”, là “nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”…) (0,5 điểm)
+ Vì họ hiểu rõ khả năng, sức mạnh to lớn của văn chương. Họ đã dùng văn chương như một công cụ đắc lực để thực hiện lí tưởng nghệ thuật của mình! Tác phẩm của họ dù viết theo đề tài nào cũng vẫn để bày tỏ “lòng thương và tình bác ái, để người gần người hơn”. (0,5 điểm)
+ Họ thực hiện chức năng giáo dục (truyền bá tình yêu thương con người) bằng cách nào? (1,5 điểm)
- Ca ngợi, khẳng định những cái tốt đẹp của cuộc sống (những yêu thương, nhân ái, vị tha).
- Cảm thương, bênh vực những kiếp người đau khổ, bất hạnh.
- Đồng tình với những khát vọng chính đáng của con người.
- Lên án, tố cáo những cái xấu, cái ác…để bảo vệ con người khỏi những áp bức, bất công!
ĐỀ 4: Phân tích biểu hiện của tình yêu thương trong các trích đoạn “Truyện Kiều” (7 điểm)
*Khái quát:
Văn học trung đại Việt nam từ cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIX phát triển trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố “kinh thiên động địa” và những phen “thay đổi sơn hà”. Những biến cố xã hội đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, và vấn đề con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của các tác gia văn học.(0,5 điểm)
*Giới thiệu ngắn về tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. “Truyện Kiều” của ông là đỉnh cao chói lọi và là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Dù đã sống hơn 200 trăm năm, nhưng tác phẩm vẫn luôn mới mẻ trong lòng người đọc bởi tính nhân loại phổ quát. Đọc “Truyện Kiều” Ta thấy cái tâm thể hiện rất rõ trên từng nét bút của tác giả – Một tình yêu thương con người vô tận theo cách của Nguyễn Du.(0,5 điểm)
*Tình yêu thương con người thể hiện trong các trích đoạn “Truyện Kiều”:
- “Truyện Kiều là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người: Ca ngợi tài sắc, hiếu nghĩa, bao dung của Thuý Kiều (Trao duyên); Sáng trong, thanh khiết (Nỗi thương mình). Ca ngợi lòng nhân hậu, đức hy sinh của Thúy Vân. Ca ngợi chí khí anh hùng của Từ Hải (Chí khí anh hùng)…(1,5 điểm)
- Qua “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cất tiếng khóc thương cho những cho những kiếp người đau khổ – Đặc biệt là những người tài hoa, bạc mệnh: Khóc cho tình yêu trong sáng, chân thành bị tan vỡ, khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan (Trao duyên), khóc cho thân xác bị đày dọa hắt hủi (Nỗi thương mình)… Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh”. (1,5 điểm)
- “Truyện Kiều” là bài ca về tình yêu tự do và ước mơ công lý.
Nhà thơ đã vượt lên những quy tắc lễ giáo phong kiến để đồng cảm,nâng niu những biểu hiện tình yêu trong trong sáng, chân thành giữa Thúy Kiều với Kim Trọng. (Thề nguyền, Trao duyên, ).
Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán công bằng (Chí khí anh hùng). (1,5 điểm)
- “Truyện Kiều” là bản cáo trạng đanh thép tố cáo hiện thực đen tối của xã hội phong kiến đã vùi dập, đói xử bất công với con người.(1 điểm)
=>Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc , người có“có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ đến muôn đời”thông qua số phận, và tính cách của nhân vật trung tâm – Thúy Kiều đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác “Đoạn trường tân thanh” cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cao cả. (0,5 điểm)
3. Kết bài: ( 1 điểm)
Khẳng định lại vấn đề :
+ Vai trò , thiên chức của người cầm bút.
+ Tư tưởng nhân đạo là nội dung quan trọng, chủ đạo “Truyên Kiều” nói riêng và trong nhiều tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam nói chung.
Đề sưu tầm.
THUẬT HOÀI
ĐỀ 5: Mỗi tác phẩm văn học chân chính phải là một lời đề nghị về lẽ sống.
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên? Hãy làm rõ lời đề nghị về lẽ sống của tác giả Phạm Ngũ Lão qua bài thơ Thuật hoài (Ngữ văn 10 Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2015).
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
1. Giải thích ý kiến
- Từ ngữ cụ thể: văn học chân chính, lời đề nghị, lẽ sống...
- Khái quát: Bằng cách nói khẳng định, ý kiến đã nêu lên đặc trưng, chức năng cao quý của văn học trong việc bồi đắp và định hướng những giá trị sống cho con người.
2. Trình bày suy nghĩ về ý kiến
- Văn học bắt nguồn từ đời sống nhưng cũng thể hiện nhu cầu muốn bày tỏ, chia sẻ cảm xúc hay quá trình nghiền ngẫm, lý giải hiện thực của mỗi nhà văn.
- Vì vậy một tác phẩm văn học chân chính bao giờ cũng gửi gắm một thông điệp về lẽ sống: đó có thể là một triết lý sống, một cách ứng xử, một lý tưởng sống cao đẹp hay là lời bày tỏ tình yêu với cuộc sống, lòng căm phẫn trước những lối sống giả tạo xấu xa không xứng đáng với con người…
- Lời đề nghị về lẽ sống ấy trong một tác phẩm văn học chân chính có khả năng tác động mạnh mẽ đến người đọc, khơi gợi cuộc đấu tranh vật lộn bên trong tâm hồn để lựa chọn những giá trị sống tích cực, đẹp đẽ..
- Lời đề nghị về lẽ sống trong một tác phẩm không phải là bài giảng khô khan hay là lời thuyết giáo về đạo đức. Trái lại, đó là một cuộc đối thoại, gợi mở thông qua hình tượng nghệ thuật độc đáo và cảm xúc mãnh liệt của nhà văn…
3. Phân tích bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão để làm sáng tỏ ý kiến.
-Lẽ sống mà nhà thơ bày tỏ trong tác phẩm gắn liền với hoàn cảnh đặc biệt của dân tộc, đó là cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ hai, cả nước sục sôi khí thế đánh giặc..
- Lời đề nghị mà thực chất là lời bày tỏ về lẽ sống của tác giả Phạm Ngũ Lão: khao khát lập chiến công, thể hiện trách nhiệm và tình đoàn kết cùng nhau giết giặc của một công dân trong cộng đồng dân tộc; nỗi thẹn cũng chính là khát vọng muốn lập nên sự nghiệp anh hùng, phò vua giúp nước…
- Lẽ sống ấy được thể hiện qua lời thơ hàm súc, hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng và giọng điệu trầm hùng, chiêm nghiệm mang vẻ đẹp của hào khí Đông A - hào khí thời Trần…
- Vẻ đẹp của lẽ sống ấy gợi ra mối đồng cảm sâu xa của người đọc, làm thức tỉnh lối sống có trách nhiệm, sống cống hiến, sống với những lý tưởng và hoài bão cao đẹp của bạn trẻ ngày nay…
4. Đánh giá, mở rộng vấn đề:
- Yêu cầu đối với người sáng tác: Để tạo nên một tác phẩm chân chính, mỗi người viết cần phải biết tự vượt lên những suy nghĩ tình cảm nhỏ hẹp mang tính cá nhân để đạt đến những lẽ sống lớn, tình cảm lớn của thời đại; đồng thời không ngừng lao động để tạo nên sự hài hòa cân xứng giữa nội dung và hình thức nghệ thuật…
- Yêu cầu đối với người tiếp nhận: Người đọc cần phát huy vai trò chủ động, tích cực của mình trong việc tiếp nhận những giá trị nội dung tư tưởng của một tác phẩm văn chương, từ đó trau dồi nhân cách, thu hẹp khoảng cách giữa văn học và cuộc đời.
Người soạn đáp án: Lương Tuyết Mai
TRUYỆN KIỀU VÀ ĐỘC TIỂU THANH KÍ
ĐỀ 6: “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp tâm hồn một con người”
Với ý kiến trên, anh chị hãy cho thấy niềm trắc ẩn của Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều và Đọc Tiểu Thanh kí.
* Yêu cầu về kiến thức: Trên cơ sở những hiểu biết chắc chắn, sâu sắc về tác giả Nguyễn Du và những đoạn trích trong tác phẩm Truyện Kiều, Bài thơ Đọc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du đã được học trong chương trình lớp 10, HS cần đáp ứng được một số yêu cầu sau.
* Giải thích ý kiến “Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp tâm hồn một con người”: Tìm hiểu thơ, người đọc sẽ thấy được tâm hồn bên trong, hiểu được tình cảm, cảm xúc của nhà thơ.
* Niềm trắc ẩn là nỗi lòng, cảm xúc, suy tư về những khổ đau, bất hạnh, xảy ra đối với con người hay với chính bản thân mình trong cuộc sống. Nỗi lòng, tình cảm ấy xuất phát từ con người có tâm hồn mẫn cảm, giàu yêu thương, luôn biết thông cảm, sẻ chia với những buồn đau của con người, của cuộc đời.
* Nguyễn Du đã bộc lộ niềm trắc ẩn của mình một cách ấn tượng và sâu sắc qua bài thơ Đọc Tiểu Thanh Kí và Truyện Kiều
- Nguyễn Du thể hiện lòng yêu thương, thông cảm, xót xa, bênh vực, lo lắng về số phận của những con người đau khổ; cùng đau với nỗi đau của họ:
+ Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Tiểu Thanh trẻ đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh.
+ Thúy Kiều tài sắc tột đỉnh nhưng cuộc đời đầy đau thương, tủi nhục, nhân phẩm bị chà đạp, phải trải qua 15 năm lưu lạc.
- Luôn ca ngợi, tin tưởng vào khả năng, phẩm chất của con nguời, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, và mong mỏi, ước mơ cho con người được sống trong hạnh phúc, tự do.
+ Thúy Kiều vẫn giữ gìn phẩm chất tốt đẹp: thủy chung, tình nghĩa, luôn có ý thức vươn lên, chống lại xã hội bất công, tàn bạo.
+ Tiểu Thanh được Nguyễn Du thể hiện bằng cái nhìn trân trọng: Là người con gái tài sắc.
+ Từ Hải được Nguyễn Du xây dựng như một người anh hung khao khát tự do, hoài bão công danh, khát khao công lí, công bằng xã hội.
+ Tình yêu Kim Trọng – Thúy Kiều là tình yêu tự do trong sang, thủy chung. Mối tình đó đã bị tan vỡ vì xã hội phong kiến tàn bạo, nhưng vẫn được Nguyễn Du thể hiện với thái độ trân trọng và nhận được sự ca ngợi, trân trọng của người đời.
- Lên án đanh thép mọi thế lực tàn bạo trong xã hội phong kiến lên án xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người,
- Đồng cảm, suy ngẫm, chiêm nghiệm về những bi kịch, đau thương, oán hận từ cuộc đời Tiểu thanh và Thúy Kiều, từ đó Nguyễn Du cảm nhận sâu sắc và đồng cảm chân thành với nỗi kì oan của nguời trót mang nét phong nhã. Cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời, nhà thơ luôn day dứt, khắc khoải tìm sự đồng cảm của người đời.
*Qua Truyện Kiều và Đọc Tiểu Thanh Kí ta thấy được tấm lòng luôn nặng nỗi đau đời, một trái tim nhân hậu, giàu yêu thương. (Đọc một câu thơ hay nghĩa là ta đã bắt gặp tâm hồn một con người)
* Học sinh phải nắm vững phương pháp làm một bài văn nghị luận tổng hợp, giải thích ý kiến, dẫn chứng và phân tích thơ để minh họa cho thấy được nỗi niềm trắc ẩn của Nguyễn Du, từ đó thấy được tâm hồn, con người Nguyễn Du qua thơ. Tất cả xuất phát từ một trái tim, tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du đối với con người, với cuộc đời.
Người ra đề: ThS. Nguyễn Thị Vân Anh
THƠ VĂN NGUYỄN TRÃI
ĐỀ 7: Bàn luận về thơ ca Nguyễn Trãi, có ý kiến cho rằng: Đó là những tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân; ý kiến khác lại khẳng định: Đó là những tác phẩm bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết.
Anh/chị suy nghĩ gì về những ý kiến trên?
Yêu cầu về kiến thức:
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:
- Giải thích:
- Tác phẩm: là sản phẩm từ hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ ngôn từ. Bằng những chất liệu lấy từ kho ngôn ngữ đời sống, nhà thơ đã chọn lọc, mài giũa, sắp xếp để tôn tạo nên những tác phẩm chứa đựng biết bao tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình.
- Qua sự nghiệp văn học của đại thi hào Nguyễn Trãi, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp tâm hồn của một con người giàu lòngnhân nghĩa, yêu nước thương dân và thiết tha với cảnh sắc thiên nhiên.
Hai ý kiến đưa ra hai quan niệm khác nhau về thơ ca Nguyễn Trãi nhưng đều hướng đến việc khẳng định những giá trị cao đẹp của thơ văn Nguyễn Trãi cũng như vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.
- Ý kiến: “Đó là những tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân”.
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh nhưng mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn. Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
+ Nhân dân không phải một khái niệm chung chung mà theo NT, trước hết là dân đen, con đỏ, là những người lao động khốn khổ bị giặc đày đọa. Ông gọi họ là những người manh lệ (người dân cày, người tôi tớ đi ở)
à Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, làđánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” làđối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa.
- Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ởđây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù..
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa, đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: Tự thán, Cảnh ngày hè…
- Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Trong sức mạnh của nhân dân thì động lực mạnh mẽ nhất yếu tố nhân tài.
à Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, mặt khác còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.
3. Ý kiến: “Đó là những tác phẩm bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiế”..
- Trong thơ Nôm, Nguyễn Trãi thường phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên kì thú mà bình dị, như những bức tranh lụa xinh xắn, phảng phất phong vị Đường thi: Tự thuật 31, Ngôn chí 8, Bảo kính cảnh giới 43…à Thiên nhiên bình dị với quả núc nác, lảnh mùng tơi, bè rau muống…vốn xa lạ với văn chương bác học đã đi vào thơ NT rất tự nhiên.
- NT yêu thiên nhiên đến nồng nàn và tinh tế. Ông giao hòa, giao cảm và nâng niu từng vẻ đẹp thiên nhiên: Ngôn chí 10, Ngôn chí 20…
4. Đánh giá, mở rộng vấn đề:
- Hai ý kiến khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau trong việc đánh giá về sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi.
- Nguyễn Trãi là đỉnh cao của văn học Việt Nam với rất nhiều đóng góp quan trọng. Với Nguyễn Trãi, tiếng Việt không chỉ làm tốt chức năng biểu đạt mà còn làm tốt chức năng thẩm mĩ.
- Những giá trị của thơ văn Nguyễn Trãi mang đến bài học cho người sáng tác: Người nghệ sĩ phải sống sâu sắc với đời, phải mang những tư tưởng, những khát vọng cao đẹp, phải có một tâm hồn nhạy cảm giàu yêu thương; lao động sáng tạo ngôn ngữ không có nghĩa là lúc nào cũng phải dùng mĩ từ, diễn đạt một cách cầu kì… mà phải là biết lựa chọn, tổ chức, phát huy vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc từ những gì giản dị nhất.
- Những giá trị của thơ văn Nguyễn Trãicũng là một bài học cho người tiếp nhận: cảm thụ vẻ đẹp của thơ ca từ những con chữ bình thường, giản dị; người đọc phải là những người đồng sáng tạo để kiến tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đích thực
- Từ cảm nhận về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Trãi, chúng ta thêm trân trọng, tự hào về những di sản văn học quý báu mà ông để lại cho đời. Ông là tấm gương sáng về tài năng, đạo đức, nhân cách để muôn đời noi gương.
Người ra đề: Nguyễn Thanh Phương
ĐỀ 8: Ngô Thế Vinh cho rằng: Văn chương có đủ sức sửa sang cuộc đời mới đáng lưu truyền ở đời. Trong nền văn hiến nước ta Ức Trai tiên sinh chính là người có thứ văn chương ấy.
Bằng những hiểu biết về thơ văn Nguyễn Trãi, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải làm nổi bật được những ý cơ bản sau:
1. Giải thích
- Sửa sang cuộc đời: làm cho cuộc đời tốt hơn, đẹp hơn, lên án cái xấu cái ác, bảo vệ cái đẹp, cái thiện. Từ đó, thanh lọc tâm hồn con người, khiến con người trở lên tốt đẹp hơn nên văn chương cũng có sức mạnh sửa sang tâm hồn con người.
- Lưu truyền ở đời: có chỗ đứng trong cuộc sống, được chấp nhận, được ngợi ca, được giữ gìn và lưu lại mãi mãi.
=> Ý kiến của Ngô Thế Vinh đã đánh giá đúng về sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi làm văn, làm thơ không phải để vịnh hoa thưởng nguyệt, mà để cho thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu. Văn chương của Nguyễn trãi có sức mạnh sửa sang cuộc đời và xứng đáng được lưu truyền, được yêu mến.
2. Chứng minh
a. Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, tình cảm yêu nước thương dân sâu nặng.
- Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước thương dân.
- Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ. Ông tự hào về đất nước với lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán, với lãnh thổ vẹn toàn.
- Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược.
- Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng thân dân với tình cảm thương dân sâu sắc, thấy được vai trò, sức mạnh của nhân dân, luôn mong cho dân được ấm no, hạnh phúc.
b. Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết.
- Tâm hồn thơ Nguyễn Trãi rất nhạy cảm, rất tinh tế, nhìn ra cái đẹp ở chỗ như không có gì là đẹp và làm nên những câu thơ hay, lạ, bất ngờ về cảnh vật quê hương.
- Nguyễn Trãi sống gắn bó với thiên nhiên, coi thiên nhiên là bầu bạn, là tri kỉ. Thiên nhiên trở thành môi trường sống thanh cao. Có thể nói, ở Nguyễn Trãi “lòng yêu thiên nhiên vạn vật là một kích thước để đo một tâm hồn” (Xuân Diệu)
c. Thơ văn Nguyễn Trãi là những cảm nhận sâu sắc, mang tính triết lí của về cuộc đời và con người. Những triết lí trong văn thơ Nguyễn Trãi khiến bạn đọc phải suy ngẫm về cuộc đời, về con người. Mặt khác, càng hiểu cuộc đời bi thương của Nguyễn Trãi ta càng thấm thía những triết lí trong thơ ông.
d. Thơ văn Nguyễn Trãi chan chứa tiếng nói yêu thương nhân tình gần gũi
- Nghĩa vua tôi, tình cảm gia đình thắm thiết, cảm động.
- Tình cảm bạn bè cũng đầy ắp những trang thơ của Ức Trai
3. Đánh giá
- Thơ Nguyễn Trãi điển hình cho thơ văn trung đại: văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí. Những tình cảm lớn, tư tưởng lớn trong thơ văn Ức Trai có sức mạnh sửa sang cuộc đời, sửa sang con người, xứng đáng được vinh danh và truyền tụng. Qua thơ văn Nguyễn trãi thấy được vẻ đẹp nhân phẩm đáng kính của một bậc danh nho, một nhà văn lớn, vị anh hùng toàn tài của dân tộc.
- Bài học sáng tạo và tiếp nhận:
+ Văn chương phải có ích cho đời sống, có những tác động tích cực đến đời sống con người và xã hội. Văn chương phải góp phần làm cho tâm hồn con người phong phú và cao đẹp hơn, biết rung động trước cái cao cả, cái tốt lành, nhận thức được cái xấu, cái ác để tránh xa nó. Đó là văn chương đáng để người đời biết đến và ca ngợi.
+ Muốn sửa sang cuộc đời, trước hết văn chương phải xuất phát từ cuộc đời, nhà văn phải gắn bó với cuộc đời, văn chương phải là tiếng nói của nhân dân, phải nói lên tâm tư, tình cảm của nhân dân.
THƠ TRUNG ĐẠI
ĐỀ 9: Bàn về quan niệm văn học "Thi ngôn chí", Phùng Khắc Khoan nhận xét:
"Chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng...”
(Dẫn theo Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, năm 1999, trang 129).
Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Bằng hiểu biết của mình về các bài thơ trung đại trong chương trình Ngữ văn lớp 10 THPT, em hãy làm rõ vẻ đẹp của thơ nói chí như Phùng Khắc Khoan đã nhận xét.
A. Yêu cầu cần đạt
1. Yêu cầu về kĩ năng
- Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận văn học. Thể hiện được năng lực cảm thụ văn chương của bản thân.
- Bố cục rõ ràng, mạch lạc, có khả năng khái quát, tổng hợp vấn đề.
- Diễn đạt trôi chảy, câu văn sáng rõ, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.
2. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách xong cần làm rõ được một số vấn đề sau:
2.1. Giải thích quan điểm văn học "Thi ngôn chí" (Thơ nói chí)
- Đây là biểu hiện về phương diện nội dung tư tưởng của tính qui phạm - đặc điểm nổi bật của văn học trung đại. Việc "ngôn chí" được nêu lên hàng đầu như một yêu cầu tu dưỡng, khẳng định lí tưởng, lẽ sống, hoài bão, tấm lòng. Người đọc thơ là "quan chí" (xem chí) để trau đức.
- Chí là chỗ phân biệt nhân cách, cá tính con người. Tìm hiểu chí trong thơ trung đại chính là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người: "Chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn hậu, chí mà ở sự nghiệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng...”.
2.2. Làm sáng tỏ vẻ đẹp của thơ nói chí qua một số bài thơ như Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), Nỗi lòng (Đặng Dung), Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi), Nhàn (Nguyễn Bỉnh Khiêm)...
* Lưu ý: học sinh chỉ cần chọn một số bài tiêu biểu để làm sáng tỏ những vẻ đẹp đó chứ không nhất thiết phải chọn tất cả các bài thơ có trong chương trình.
2.3. Nhận xét, đánh giá chung
- Quan điểm văn học "Thi ngôn chí" đã khiến cho nhiều lớp độc giả đời sau thưởng thức và đánh giá thơ ca trung đại Việt Nam chủ yếu ở chức năng giáo dục, coi trọng mục đích giáo huấn. Thực chất thơ ca nói chí cũng chính là thể hiện tình cảm, cảm hứng phong phú, đa chiều của con người trung đại.
- Những điệu tâm hồn đó được thể hiện thành một hình thức nghệ thuật độc đáo, giàu cá tính sáng tạo, đặc biệt là giọng điệu riêng.
(NGUỒN: SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÁI NGUYÊN, ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 10 THPT NĂM HỌC 2015 – 2016)
BỘ ĐỀ LỚP 11
TRUYỆN NGẮN 11
ĐỀ 10:Trong bài viết đôi điều về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: " Cuối cùng truyện ngắn cũng như tiểu thuyết, điều chính yếu là qua nhân vật mà người viết đàm luận với người đọc về vai trò và số phận con người sống giữa xã hội và cuộc đời".
(Bùi Việt Thắng - Truyện ngắn, những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua một số truyện ngắn trong chương trình Ngữ văn lớp 11 hãy bình luận và làm sáng tỏ.
I. Yêu cầu chung: Biết làm bài NLVH. Vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận văn học. Biết phân tích định hướng. Văn viết có hình ảnh và giàu cảm xúc, có giọng điệu riêng.
II. Yêu cầu cụ thể:
1. Giải thích (1.5 điểm):
- Truyện ngắn: là thể loại tự sự cỡ nhỏ nhưng cũng giống như tiểu thuyết ( thể loại tự sự cỡ lớn), truyện ngắn có khả năng đề cập và khái quát những vấn đề lớn của xã hội và nhân sinh. Rõ ràng thể loại truyện ngắn có dung lượng nhỏ nhưng sức chứa lớn.
- Nhân vật: là hình tượng nghệ thuật được nhà văn xây dựng để phản ánh hiện thực và bộc lộ tư tưởng.
- Người viết đàm luận với người đọc về vai trò và số phận con người sống giữa xã hội và cuộc đời: qua hình tượng nghệ thuật, nhà văn thể hiện cái nhìn, thái độ, gửi gắm tư tưởng, quan niệm, triết lí về con người và xã hội.
=> Nguyễn Minh Châu khẳng định nhân vật có vai trò quan trọng bậc nhất trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng, quan điểm và tiếng nói đối thoại của nhà văn, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.
2. Bình luận (1.5 điểm )
- Xuất phát từ đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn có dung lượng câu chữ giới hạn vì vậy đòi hỏi những yếu tố trong tác phẩm đầu phải có giá trị, có sức khái quát và khả năng biểu hiện cao.
- Nhân vật là cốt tử của truyện ngắn. Nhân vật bao giờ cũng tập trung thể hiện cái nhìn, tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Với truyện ngắn, xây dựng nhân vật đặc sắc chính là điều thiết yếu đối với người nghệ sĩ. Nhân vật là đối tượng để nhà văn phát biểu những suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng của mình về các vấn đề trong xã hội, đặc biệt là những vấn đề liên quan trực tiếp đến con người. Nhân vật cũng đồng thời thể hiện tiếng nói đối thoại của nhà văn, nhà văn muốn trao đổi với người đọc về quan điểm, tư tưởng của mình chính là qua nhân vật.
- Xuất phát từ đặc trưng của văn học, đối tượng phản ánh của văn học là cuộc sống và con người.
3. Chứng minh (7.0 điểm):
- Học sinh có thể chọn lựa, phân tích một số nhân vật trong truyện ngắn đã học trong chương trình Ngữ văn 11 để làm sáng tỏ vấn đề: Liên và An ( Hai đứa trẻ - Thạch Lam), Chí Phèo ( Chí Phèo - Nam Cao), Hộ ( Đời thừa - Nam Cao),...
- Học sinh có thể triển khai theo nhiều hướng nhưng không phân tích chung chung mà phải có định hướng bám sát các vấn đề được bàn luận.
- Sự cảm thụ, phân tích, bình luận của học sinh phải tinh tế, sâu sắc, thuyết phục.
4. Đánh giá, mở rộng vấn đề (2.0 điểm):
- Là một nhà văn tài năng, có sở trường về truyện ngắn, từ thực tế lao động sáng tạo của mình Nguyễn Minh Châu đã rút ra những kinh nghiệm sáng tác quý báu: xây dựng nhân vật để gửi gắm tư tưởng của nhà văn. Ý kiến của Nguyễn Minh Châu đã khái quát được đặc trưng cơ bản của thể loại truyện ngắn.
- Từ đó đưa ra yêu cầu với người nghệ sĩ và người đọc. Người nghệ sĩ phải thể hiện cái nhìn, thái độ, tư tưởng của mình về cuộc sống và con người thông qua nhân vật trong tác phẩm. Người đọc cũng cần đọc tác phẩm một cách nghiêm túc, khám phá, suy ngẫm những vấn đề xã hội có ý nghĩa mà người nghệ sĩ gửi gắm qua nhân vật. Tuy nhiên, mọi tư tưởng, nội dung của tác phẩm không chỉ được gửi gắm qua nhân vật mà còn qua các yếu tố khác trong truyện ngắn như tình huống, chi tiết, sự kiện,... Vì vậy, đọc truyện ngắn cũng cần phải chú ý toàn diện các yếu tố hình thức để nắm bắt nội dung tác phẩm.
Người ra đề: Phạm Thùy Dương
CHÍ PHÈO
ĐỀ 11:Từ cách nhìn của Thị Nở đối với nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo– Nam Cao), nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã liên hệ đến thiên chức của người nghệ sĩ. Và ông đã quả quyết rằng: Nhà văn như Thị Nở.
Anh/ chị hãy bàn về quan niệm trên và chứng minh rằng với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã làm tròn thiên chức của một nhà văn.
Đáp án
1. Giải thích:
– Cái nhìn của Thị Nở đối với Chí Phèo là cái nhìn bằng sự yêu thương, bằng lòng cảm thông.
+ Trong khi cả làng Vũ Đại xa lánh Chí, không xem Chí là con người thì Thị Nở đã chăm sóc Chí. Bát cháo hành là biểu hiện của tình người ấm áp.
+ Chính nhìn Chí Phèo bằng sự cảm thông như vậy nên: Thị Nở đã thấy Chí rất đáng thương. Còn gì đáng thương bằng đang ốm mà phải nằm một mình. Thị Nở đã thấy nỗi buồn, nỗi cô độc của Chí. Thị đã phát hiện ra phần con người của Chí Phèo. Chính Thị Nở đã khẳng định :
* Ôi sao mà hắn hiền, có phải đây mới là bản chất của Chí mà ngày thường bị lấp đi không.
* Sao có lúc nó hiền như đất
– Thiên chức của người nghệ sĩ: Phải nhìn đời bằng con mắt của tình thương. Phải tìm tòi và thấu hiểu những điều mà chưa ai ngờ tới, phải biết khơi những gì chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.
2. Ở tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao thực sự đã làm tròn thiên chức của người nghệ sĩ.
a. Nhà văn đã biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.
– Chí Phèo, không chỉ là nỗi khổ vật chất mà đau đớn hơn là bi kịch tinh thần, nỗi đau bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Nam Cao muốn khẳng định còn có những nỗi đau, đau khổ hơn tất cả là con người bị loại ra khỏi cộng đồng.
– Nhưng bên trong cái lốt của quỷ dữ là đốm sáng nhân tính.
-> Đây là những phát hiện mới mẻ của nhà văn Nam Cao so với các nhà văn cùng thời.
b. Nhà văn phải nhìn đời bằng con mắt của tình thương để tìm tòi để thấu hiểu
– Trong các tác phẩm của mình, Nam Cao thường trân trọng giá trị của tình thương. Chính tình người có khả năng thức tỉnh tính người. Nam Cao đã xây dựng nhiều nhân vật biểu hiện cho lối sống tình thương. Và đó chính là tấm lòng của Nam Cao dành cho con người. (Là Từ trong Đời thừa, và ở Chí Phèo là Thị Nở)
– Chỉ bằng tấm lòng bao dung độ lượng, người nghệ sĩ mới thực sự có những cảm thông sâu sắc trước những bất hạnh của con người. (Xót xa trước những quằn quại trong cô đơn của Chí; đau đớn trước nhân hình nhân tính của Chí bị rách nát )
– Và cũng chính bằng tấm lòng bao dung độ lượng, nhà văn cũng mới phát hiện và trân trọng vẻ đẹp khuất lấp, bên trong tâm hồn của con người.(Đồng cảm, xót thương, trân trọng trước nỗi buồn, sự ăn năn, niềm khao khát của Chí Phèo…)
– Chính nhìn nhân vật bằng sự cảm thông như vậy, nên ngòi bút của Nam Cao nặng trĩu yêu thương.
c. Muốn làm tròn thiên chức ấy, nhà văn phải luôn trau giồi tài năng, trau giồi lối sống. Để làm sao nhà văn có thể cùng một lúc sống nhiều cuộc đời, biết mở lòng để đón nhận những vang động của cuộc đời và bằng tài năng nghệ thuật phải thể hiện những nội dung ấy một cách da diết và lắng đọng.
Đánh giá chung
– Giá trị của tác phẩm Chí Phèo
– Đóng góp của nhà văn Nam Cao cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
ĐỀ 12: Chí Phèo, trên con đường trở về và người bạn của anh – Nam Cao
Hướng dẫn giải đề :
Một số ý chính:
- Trong hành trình trở về của CP , Nam Cao là người duy nhất nhận ra phần người trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
- Vẻ ngoài lạnh lùng , nhưng bề sâu bên trong Nam Cao chan chứa niềm thông cảm , yêu thương và trân trọng phần nhân tính tốt đẹp của Chí : Chí Phèo cô đơn nhưng Chí Phèo là người .(Trong truyện ngắn Lão Hạc , Nam Cao từng nói : “Đối với những người xung quanh ta , nếu ta không cố tình mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở , ngu ngốc , bần tiện , xấu xa , bỉ ổi … toàn những cớ cho ta tàn nhẫn , không bao giờ thấy họ đáng thương …cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau ích kỉ che lấp mất”àNC đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp , khát vọng mãnh liệt của người nông dân ngay cả khi họ bị tha hoá mất cả nhân hình lẫn nhân tính )
- Con người sâu sắc , tri kỉ của Nam Cao đã thể hiện trong suốt dọc hành trình rưng rưng cảm động với biết bao hi vọng và tuyệt vọng của nhân vật :
+ Thức dậy với nỗi buồn mơ hồ .
+ Thấm thía sự bình yên của cuộc sống thường nhật , tiếc nuối ước mơ trong quá khứ (dẫn chứng –phân tích)
+ Khát khao được trở về làm người lương thiện .
+ Hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn .
+ Thất vọng và đau khổ cùng cực .
+ Tuyệt vọng , cùng quẫn , CP giết Bá Kiến và kết thúc cuộc đời chính mình .
- Vai trò, sứ mệnh của nhà văn là phải nâng đỡ phần nhân tính của con người , giúp con người biết nhận ra và biết trân trọng phần nhân tính bị chìm khuất .
- Nhà văn phải đứng vững trên lập trường nhân đạo .
ĐỀ 13:Khi một nhà văn mới bước vào làng văn, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi anh ta là anh sẽ mang lại điều gì mới cho văn học ( Lep Tonxtoi). Bằng những hiểu biết của mình về truyện ngắn Chí Phèo anh/ chị hãy thay mặt nhà văn Nam Cao trả lời câu hỏi ấy
ĐÁP ÁN a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: 0,25đ Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề. b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Sự sáng tạo của Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo 0,5đ c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng – Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, trích dẫn câu nói của Lep Tonxtoi, sự độc đáo, sáng tạo của Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo – Giải thích câu nói: Sự độc đáo, sáng tạo mà mỗi nhà văn, nhà thơ thể hiện trong tác phẩm của mình. – Sự sáng tạo của nhà văn Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo + Quan điểm sáng tác của Nam Cao: Sinh thời Nam Cao Luôn coi trọng hoạt động sáng tạo trong nghệ thuật “Văn chương không cần đến sự khéo tay,Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi hứng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có “. Quan điểm này gặp gỡ với quan điểm của rất nhiều các nhà văn nổi tiếng trên thế giới bởi nó đề cập tới bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Nói cách khác, sáng tạo là sinh mệnh của văn chương. + Chứng minh * Về nội dung + Giá trị hiện thực mới mẻ: Chọn một đề tài đã cũ – người nông dân trước cách mạng tháng Tám song cách khai thác hoàn toàn khác – Chị Dậu (“Tắt đèn” – Ngô Tất Tố), Anh Pha (“Bước đường cùng” – Nguyễn Công Hoan) bị bóc lột, bị chà đạp, chịu sự đày đọa về vật chất nhưng vẫn là con người – Chí Phèo từ 1 anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành, chất phác bị vu oan biến thành 1 Chí Phèo lưu manh mất cả nhân hình và nhân tính, hắn bán cả linh hồn mình trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Với Chí Phèo, Nam Cao không chỉ lột trần sự thật đau khổ của người nông dân vừa nêu được một quy luật xuất hiện trong làng xã Việt Nam trước CM8: Hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện bị áp bức bóc lột nặng nề và bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh. Tình cảnh ấy của Chí Phèo đã làm cho số phận người nông dân trung thực rơi xuống vực thẳm của bi kịch. * Giá trị nhân đạo độc đáo: – Nếu Ngô Tất Tố ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, trọn vẹn, không tì vết của Chị Dậu thì Nam Cao miệt mài lật xới tận cùng để gạn lấy “giọt thiên lương” nhỏ nhoi, khuất lấp nhưng trong trẻo, thanh khiết nơi tâm hồn tưởng như đã hoàn toàn méo mó của Chí. Bởi vậy, hành trình từ cõi quỷ trở về cõi người ngỡ giản đơn mà sao nhọc nhằn, khổ đau, quằn quại đến thế. Qua nhân vật Thị Nở, nhà văn gieo trồng hạt nhân tư tưởng và ước mơ về tình thương làm thay đổi thế giới hay ít ra cứu vớt một con người. Có lẽ ít ai như Nam Cao, nhọc công để dừng lại suy tư, khám phá và nuôi giữ mầm sống trong những tâm hồn thoạt nhìn thấy chỉ có tro tàn tăm tối. *Về nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật: Nhiều trường đoạn tâm lí phức tạp được nhà văn “giải phẫu” thành công. (Lúc Chí Phèo tỉnh dậy sau cơn say, cảm nhận cuộc sống và ý thức về đời mình, khi Thị Nở đem bát cháo hành sang để Chí thấm thía giá trị của tình thương, đoạn Chí Phèo miệng nói trả thù “con khọm già” mà chân lại tìm tới cửa nhà Bá Kiến…) Ngôn ngữ: giản dị nhưng tinh sắc (ngôn ngữ tâm lí của Bá Kiến khi dụ dỗ Chí Phèo) 0,5đ d. Sáng tạo 0,5đ Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận. e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25đ Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
ĐỀ 14: Nhà văn lớn là người có khả năng khám phá, miêu tả tinh tế, đồng thời có thể lí giải sâu sắc thế giới nội tâm con người.
Anh/ chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên? Bằng những hiểu biết của mình về truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) hãy làm rõ quan điểm của mình.
Học sinh có thể trình bày vấn đề theo những cách khác nhau, song bài viết phải làm nổi bật được các nội dung chính sau:
Câu | Nội dung kiến thức cần đạt | Điểm |
| - Giải thích + Nhà văn lớn + Những nhà văn tài năng, có vị trí đặc biệt trong văn học một dân tộc là người có biệt tài trong việc nắm bắt và miêu tả sống động những diễn biến tâm trạng phong phú, phức tạp trong tâm hồn con người, đồng thời có đủ vốn sống, vốn tri thức, có tư tưởng tiến bộ để lí giải những biến đổi của thế giới nội tâm ấy. | 2 điểm |
| - Bàn luận + Đây là ý kiến sâu sắc. + Người đọc đến với văn học là để hiểu đời, hiểu người, hiểu mình, có những kiến giải sâu sắc về cuộc sống. tác phẩm văn học thể hiện những khám phá sâu sắc về con người sẽ giúp thỏa mãn nhu cầu người đọc và trở thành tác phẩm lớn, vinh danh nghề cầm bút của nhà văn. + Con người là một bản thể phức tạp nhưng phức tạp nhất là thế giới tâm hồn. Văn học khám phá về con người, nhưng sự khám phá chỉ đạt được giá trị đích thực khi nhìn con người ở cả bên ngoài lẫn bên trong. Phát hiện, miểu tả và lí giải sâu sắc thế giới nội tâm con người sẽ tạo nên giá trị của tác phẩm và tầm vóc của nhà văn. + Sự quan sát tinh tế, những hiểu biết sâu sắc về con người, vốn ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn ngữ... giúp nhà văn miểu tả tinh tế và sống động thế giới tâm hồn con người. + Tư tưởng tiến bộ sẽ giúp nhà văn có những kiến giải sâu sắc, thuyết phục về thế giới tâm ấy. => Như vậy, việc miêu tả, phân tích nội tâm con người sẽ cho thấy tư tưởng và bút lực của nhà văn. + Những trang miểu tả, phân tích sâu sắc nội tâm con người sẽ đêm đến cho người đọc những nhận thức thú vị về đời sống và những tình cảm nhân văn cao đẹp. | 4 điểm |
| - Phân tích truyện Chí Phèo của Nam Cao để làm sáng tỏ ý kiến + Nam Cao tả tinh tế, sống động nội tâm các nhân vật Chí Phèo, Thị Nở...qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. + Nam Cao lí giải sâu sắc những biến đổi trong tâm hồn nhân vật: * Bước ngoặt trong tâm hồn Chí vào buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượu được lí giải bằng trận ốm, những suy nghĩ về hiện tại, tương lai, bản tính hiền và tình yêu thương, sự chăm sóc ân tình của Thị Nở. * Tâm trạng Chí khi định đến nhà Thị Nở những rồi lại đến nhà Bá Kiến giết chết hắn và tự sát..... + Diễn tả sống động và lí giải sâu sắc nội tâm nhân vật, Nam Cao đã giúp người đọc hiểu, cảm thông, trân trọng hơn với bi kịch và cả những nét đẹp tâm hồn những người như Chí Phèo, Thị Nở. + Việc diễn tả nội tâm nhân vật của Nam Cao đưa ông lên vị trí của một cây bút hiện thực tâm lý xuất sắc. | 4 điểm |
| - Đánh giá: + Diễn tả, phân tích, lí giải thành công thế giới tâm hồn người là phương diện làm nên tầm vóc của một cây bút lớn. + Nhưng diễn tả, lí giải nội tâm nhân vật phải theo đúng chân lí khách quan của đời sống, phù hợp với sự vận động của tính cách nhân vật. + Một cây bút lớn cũng cần nhiều yếu tố khác ngoài việc diễn tả , lí giải nội tâm con người. + Bài học cho người cầm bút và tiếp nhận văn học. | 2 điểm |
Giáo viên: Nguyễn Thị Hiền- THPT Chuyên Thái Bình
Đề 15: Nói về tính độc đáo của phong cách trong sáng tác, có ý kiến cho rằng:
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là nó có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”.
Anh (chị) hãy chọn phong cách tác giả Nam Cao để phân tích, làm sáng tỏ ý kiến trên.
ĐÁP ÁN
Bài làm của học sinh cần đảm bảo những yêu cầu sau đây:
Về kiến thức:
Trên cơ sở hiểu biết về phong cách sáng tác của Nam Cao qua một số tác phẩm, học sinh đánh giá ý kiến trên. Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải làm rõ những nội dung cơ bản sau:
– Giới thiệu về ý kiến: nghệ thuật đòi hỏi rất cao ở người nghệ sĩ năng lực sáng tạo, độc đáo. Đấy chính là phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn chân chính.
– Giải thích ý kiến:
– Thế nào là phong cách nghệ thuật?
+ Là khuôn mặt riêng, giọng điệu riêng của từng nghệ sĩ trong thế giới nghệ thuật, là những nét riêng biệt, chủ yếu của một tài năng nghệ thuật độc đáo.
+ Cái riêng, cái mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của nhà văn là gì? Đó là cái nhìn độc đáo đối với hiện thực cuộc sống thể hiện chiều sâu của sự cảm nhận và khám phá đời sống của nhà văn, là sự sáng tạo mới mẻ trong việc sử dụng các phương tiện hình thức nghệ thuật (như lời văn, câu văn, từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu,…)
– Phân tích phong cách Nam Cao qua một số tác phẩm tiêu biểu.
Những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nam Cao.
+ Nam Cao nhìn đời, nhìn con người vừa bằng đôi mắt hiện thực sắc sảo, nghiêm ngặt, vừa bằng đôi mắt của tình thương và lòng vị tha.
+ Để chuyển tải nội dung cái nhìn ấy, nhà văn chú trọng xây dựng những cốt truyện tâm lí sinh động, phức tạp (với sự giằng co, dằn vặt, thao thức đến khắc khoải của nhân vật) và tập trung bút lực vào hai đề tài chính là người nông dân và người trí thức nghèo.
Phân tích một số tác phẩm của Nam Cao để làm sáng tỏ những nét phong cách trên. (ví dụ: Chí Phèo, Đời thừa…)
– Đánh giá chung:
– Sức sống lâu bền của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào sự mới lạ, độc đáo trong cách nhìn, cách thể hiện của nhà văn.
– Phong cách nghệ thuật là thước đo tài nghệ, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Đề sưu tầm
ĐỀ 16: Từ cách nhìn của Thị Nở đối với nhân vật Chí Phèo (Chí Phèo- Nam Cao), nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã liên hệ đến thiên chức của người nghệ sĩ. Và ông đã quả quyết rằng : Nhà văn như Thị Nở.
Anh/ chị hãy bàn về quan niệm trên và chứng minh rằng với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã làm tròn thiên chức của một nhà văn.
2 | 1. Giải thích - Cái nhìn của Thị Nở đối với Chí Phèo là cái nhìn bằng sự yêu thương, bằng lòng cảm thông. + Trong khi cả làng Vũ Đại xa lánh Chí, không xem Chí là con người thì Thị Nở đã chăm sóc Chí. Bát cháo hành là biểu hiện của tình người ấm áp. + Chính nhìn Chí Phèo bằng sự cảm thông như vậy nên: Thị Nở đã thấy Chí rất đáng thương. Còn gì đáng thương bằng đang ốm mà phải nằm một mình. Thị Nở đã thấy nỗi buồn, nỗi cô độc của Chí. Thị đã phát hiện ra phần con người của Chí Phèo. Chính Thị Nở đã khẳng định : * Ôi sao mà hắn hiền, có phải đây mới là bản chất của Chí mà ngày thường bị lấp đi không. * Sao có lúc nó hiền như đất - Thiên chức của người nghệ sĩ: Phải nhìn đời bằng con mắt của tình thương. Phải tìm tòi và thấu hiểu những điều mà chưa ai ngờ tới, phải biết khơi những gì chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. | (3.0)
0.75
1.0
1.25 |
2. Ở tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao thực sự đã làm tròn thiên chức của người nghệ sĩ. a. Nhà văn đã biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. - Chí Phèo, không chỉ là nỗi khổ vật chất mà đau đớn hơn là bi kịch tinh thần, nỗi đau bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, bị cự tuyệt quyền làm người. Nam Cao muốn khẳng định còn có những nỗi đau, đau khổ hơn tất cả là con người bị loại ra khỏi cộng đồng. - Nhưng bên trong cái lốt của quỷ dữ là đốm sáng nhân tính. -> Đây là những phát hiện mới mẻ của nhà văn Nam Cao so với các nhà văn cùng thời. b. Nhà văn phải nhìn đời bằng con mắt của tình thương để tìm tòi để thấu hiểu - Trong các tác phẩm của mình, Nam Cao thường trân trọng giá trị của tình thương. Chính tình người có khả năng thức tỉnh tính người. Nam Cao đã xây dựng nhiều nhân vật biểu hiện cho lối sống tình thương. Và đó chính là tấm lòng của Nam Cao dành cho con người. (Là Từ trong Đời thừa, và ở Chí Phèo là Thị Nở) - Chỉ bằng tấm lòng bao dung độ lượng, người nghệ sĩ mới thực sự có những cảm thông sâu sắc trước những bất hạnh của con người. (Xót xa trước những quằn quại trong cô đơn của Chí; đau đớn trước nhân hình nhân tính của Chí bị rách nát ) - Và cũng chính bằng tấm lòng bao dung độ lượng, nhà văn cũng mới phát hiện và trân trọng vẻ đẹp khuất lấp, bên trong tâm hồn của con người.(Đồng cảm, xót thương, trân trọng trước nỗi buồn, sự ăn năn, niềm khao khát của Chí Phèo…) - Chính nhìn nhân vật bằng sự cảm thông như vậy, nên ngòi bút của Nam Cao nặng trĩu yêu thương. c. Muốn làm tròn thiên chức ấy, nhà văn phải luôn trau giồi tài năng, trau giồi lối sống. Để làm sao nhà văn có thể cùng một lúc sống nhiều cuộc đời, biết mở lòng để đón nhận những vang động của cuộc đời và bằng tài năng nghệ thuật phải thể hiện những nội dung ấy một cách da diết và lắng đọng. | (8.0)
1.0
1.0 0.5
1.0
1.0
1.0
1.0
1.5 | |
Đánh giá chung - Giá trị của tác phẩm Chí Phèo - Đóng góp của nhà văn Nam Cao cho nền văn học Việt Nam hiện đại. | (1.0) |
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
ĐỀ 17: “ Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời”
( Ngữ văn 11, Nâng cao, tập một, trang 197)
Với các nhân vật quản ngục ( Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân), Bá Kiến ( Chí Phèo- Nam Cao) , Anh/ chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Người ra đề: Vương Thị Vân Anh
2 | “ Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời” | 12,0 | |
| 1 | Dẫn dắt vấn đề | 0,5 |
2 | Giải quyết vấn đề | 11,0 | |
a | Giải thích kiến thức lí luận - Nhân vật là yếu tố quan trọng của thể loại tự sự. Kết tinh tài năng nghệ thuật và tấm lòng của nhà văn với con người, cuộc sống. - Có nhiều loại hình nhân vật: nhân vật chính/phụ, nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện/phản diện - Nhân vật thường biểu hiện qua các phương diện: lai lịch, ngoại hình, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ, nội tâm…. - Xây dựng nhân vật là một phương thức nhà văn gửi gắm tư tưởng, tình cảm hay một quan niệm nào đó về cuộc đời. | 2,0 | |
b | Ý nghĩa của các hình tượng nhân vật trong các tác phẩm + Nhân vật quản ngục trong “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
+ Nhân vật Bá Kiến trong Chí Phèo của Nam Cao
|
4,0
4,0 | |
| c | Đánh giá chung
| 1,0 |
| 3 | Kết thúc vấn đề | 0,5 |
THƠ MỚI
ĐỀ 18: Bằng hiểu biết về phong trào Thơ mới 1932 – 1945, anh (chị) hãy làm sáng tỏ quan điểm “Thơ đi giữa ý và nhạc” của Chế Lan Viên.
2 | * Giải thích - Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. - Tình cảm trong thơ là tình cảm được ý thức, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ, gắn liền với khoái cảm của sự tự ý thức về mình và về đời – đó là ý. - Ngôn từ thơ được cấu tạo đặc biệt (Thi trung hữu nhạc): có âm điệu, nhịp điệu, vần điệu, thanh điệu… Nhạc điệu thơ đa dạng, tương ứng với đa dạng của cảm xúc. => Thơ là những âm vang của tình cảm con người, là “nhạc của tâm hồn” (Vôn – te) đã được ý thức. (Thơ đi giữa ý và nhạc) |
3,0 |
* Chứng minh - Thơ là ngôn ngữ nghệ thuật gồm hai lớp vỏ: Ý nghĩa và âm thanh, nếu lớp vỏ ý nghĩa đưa đến những khái niệm, những hiểu biết thì lớp vỏ âm thanh với những tín hiệu riêng sẽ có sức ngân vang tạo ra nhạc, tạo cảm xúc và hình tượng cảm xúc. Ngược lại, nhạc tạo ra hình tượng cảm xúc và khi âm thanh kết tinh hàm súc, hài hoà với hình ảnh thì sẽ tạo ra ngôn ngữ thơ. - Nhạc biểu đạt ý trong thơ gồm: + Âm điệu được hiểu theo nghĩa hẹp là tiếng cao - thấp, dài - ngắn, mau – khoan được kết hợp hài hoà với nhau trong từng câu, từng đoạn thơ, tạo thành những âm thanh hoàn chỉnh. Trong tiếp nhận thi ca, người đọc bị cuốn hút, ám ảnh bởi độ ngân vang của từ ngữ, của nhịp điệu câu thơ để từ đó góp phần hiểu nội dung, ý nghĩa mà chúng biểu đạt. (Tràng giang, Tống biệt hành, Vội vàng, Đây thôn vĩ Dạ…) + Thanh điệu là độ trầm bổng của âm thanh thông qua tiếng nói hoặc chữ viết. Thông thường, muốn thể hiện sắc thái du dương, nhẹ nhàng, các nhà thơ dùng thanh bằng, những bài thơ khúc triết hay dùng thanh trắc. (Tống biệt hành, Hầu trời, Nguyệt cầm…) + Vần điệu là sự lặp lại những âm thanh như nhau hoặc gần giống nhau trong bài thơ. Đặc điểm của vần điệu là giúp cho ta có những ấn tượng cụ thể về một hình tượng, một ngôn từ, một âm thanh nào đó, để từ đó tạo một ấn tượng không phai mờ trong tình cảm của người đọc hoặc người nghe. (Mùa xuân chín, Tiếng thu, Chiều xuân…) + Nhịp điệu là kết quả của sự chuyển động nhẹ nhàng và sự lặp lại đều đặn những âm thanh mạnh, nhẹ khác nhau trong bài thơ. Maiacôpxki nói: Nhịp điệu là năng lực cơ bản, là sức mạnh cơ bản của câu thơ. Nhịp điệu không thuần tuý là những âm vang bên ngoài đi kèm ý thơ mà có khi nó ẩn bên trong ý thơ. (Tương tư, Đây mùa thu tới, Xuân, Tiếng sáo Thiên Thai…) | 6,0 | |
* Bình luận - Một trong những thành tựu nghệ thuật của Thơ mới là sử dụng nhạc điệu để biểu đạt tình cảm, tư tưởng. Nhạc của Thơ mới là điệu tâm hồn dân tộc quen thuộc phảng phất trong ca dao, dân ca, trong Đường thi qua nhiều thời kỳ. Trên nền tảng truyền thống ấy, các nhà Thơ mới đã nhanh nhạy tiếp thu những thành tựu về nhạc tính trong thơ Pháp để làm nên nhạc điệu của Thơ mới, qua thi pháp ngữ điệu của ngôn ngữ Việt. - Trong thơ có chất nhạc, trong nhạc có chất thơ, chỉ có điều ở bài thơ này chất nhạc ẩn đi trong cảm xúc, ở bài thơ khác, cảm xúc lại làm nền cho chất nhạc bộc lộ. Đó cũng là lí do tại sao trong số các tác phẩm âm nhạc của loài người, một phần lớn được phổ từ thơ. - Ý và nhạc kết hợp hài hòa với nhau tạo thành thơ. Điều đó không chỉ đòi hỏi tài năng của người nghệ sĩ mà còn cần cả sự hiểu biết và khả năng cảm thụ tinh tế của bạn đọc. |
3,0
|
Người ra đề và đáp án: Lê Thị Thu Huyền
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
ĐỀ 19: Về văn học trào phúng, có ý kiến cho rằng:
“Đó là một khái niệm bao trùm lĩnh vực văn học của tiếng cười”
(Từ điển thuật ngữ văn học, Nhiều tác giả, NXB Giáo dục, 2008, tr 303)
Cảm nhận của anh/chị về tiếng cười của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)
Yêu cầu về kiến thức:
– Đây là dạng đề mở. Thí sinh có thể trển khai bài làm của mình theo nhiều cách khác Tuy nhiên, bài làm cần đạt được một số yêu cầu cơ bản sau:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận
2.Giải thích
– Trào phúng có nghĩa là dùng lời lẽ khôi hài để mỉa mai, cười nhạo kẻ khác. Tiếng cười thường được tạo ra khi người ta phát hiện ra mâu thuẫn trào phúng, đó chính là sự mâu thuẫn hay không tương xứng giữa bản chất và biểu hiện, giữa mục đích và phương tiện, đặc biệt là giữa nội dung (xấu xa) và hình thức (đẹp đẽ). Muốn tiếng cười xuất hiện, đối tượng phải mang tính hài, đối tượng được miêu tả bằng bút pháp phóng đại, biếm hoạ, giọng văn giễu nhại.
– Văn học của tiếng cười là một khái niệm chỉ tất cả các thể loại, các tác phẩm văn học mang cảm hứng trào phúng, sử dụng bút pháp trào phúng, lấy tiếng cười làm mục đích hài hước, phương tiện bộc lộ thái độ chế giễu, mỉa mai, phê phán cái xấu, cái đáng cười. Đó là ca dao hài hước, trào phúng, truyện cười dân gian, thơ trào phúng ( của Nguyễn Khuyến, Tú Xương…), truyện trào phúng (của Nguyễn Công Hoan…)
– Tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là tác phẩm xuất sắc của văn học hiện thực trào phúng giai đoạn 1930-1945
*Tiếng cười của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích
+) Đối tượng của tiếng cười
Cười xã hội thượng lưu thành thị đương thời. Xã hội thu nhỏ trong đoạn trích gồm đám động những nhân vật có tên và không tên
- Nhân vật có tên: các thành viên trong gia đình cụ cố Hồng (Văn Minh, Cụ cố Hồng, Tuyết, Tú Tân..) các thành viên khác (Typn, cảnh sát…)
- Nhân vật không tên: những người đưa đám
Tất cả đều chứa đựng sự mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài buồn rầu, đau khổ, văn minh, chí hiếu và bản chất bên trong vui vẻ, sung sướng, bất hiếu, vô văn hoá…
+) Mục đích tiếng cười
Tác giả phê phán mãnh liệt bản chất lố lăng, đồi bại của xã hội thượng lưu thành thị, muốn tống tiễn nó vào cõi chết
+) Nghệ thuật tạo tiếng cười
– Xây dựng tình huống trào phúng cơ bản: hạnh phúc của gia đình có tang
– Xây dựng hình tượng đám đông bằng nghệ thuật biếm hoạ: cường điệu, nói ngược, tạo chi tiết nghệ thuật đặc sắc
– Sử dụng lời văn:
+ Đặt câu chứa đựng mâu thuẫn, nghịch lí (giữa hai vế trong một câu, giữa hai câu gần nhau)
+ Tạo giọng văn hài hước
- Đánh giá
– Hạnh phúc của một tang gia là chương truyện đặc sắc của tiểu thuyết: chương truyện đã hội đủ các nhân vật của toàn tiểu thuyết và đã thu nhỏ bộ mặt xã hội tư sản thành thị với tất cả bản chất xấu xa của nó: háo danh, hám lợi, giả tạo, rởm đời, vô văn hoá và bao trùm là thói đạo đức giả
– Chương truyện cũng tiêu biểu cho bút pháp trào phúng của Vũ Trọng Phụng nói riêng, của văn học trào phúng nói chung
SỞ GD& ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT HÀ HUY TẬP
VỘI VÀNG
ĐỀ 20: Nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép cho rằng: Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác (Dẫn theo Khrapchenco. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học. Nhà xuất bản tác phẩm mới, 1978). Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên và làm sáng tỏ cái giọng riêng biệt của Xuân Diệu qua một số bài thơ tiêu biểu.
1, Giới thiệu vấn đề (1,0 điểm) – Nhà văn I.X Tuốc- ghê- nhép cho rằng: Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác. – Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Qua sáng tác của mình, ông đã in được dấu vào nền văn học với một giọng riêng biệt, độc đáo hiếm thấy.
2, Giải thích ý kiến (2,0 điểm) – Tài năng văn học: Khả năng văn học, sự giỏi giang, điêu luyện của người nghệ sĩ ngôn từ trong sáng tạo nghệ thuật. Tài năng văn học còn là cách nói hoán dụ để chỉ những nhà văn nhà thơ có tài. – Nói : Là thể hiện thành lời một nội dung nào đó, giọng : Là cách phát âm, cách nói. Tiếng nói của mình, cái giọng riêng biệt của chính mình : Là cách diễn đạt, cách thể hiện độc đáo của một cá nhân về vấn đề nào đó. – Không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác: Duy nhất, không thể có người thứ hai giống mình. => Nhận định là cách nói hình ảnh có tính chất đúc kết về cái quan trọng của những tài năng văn học lớn. Đó là: Một nghệ sĩ có tài phải là người có phong cách riêng độc đáo, không lẫn với bất cứ ai, không giống với bất cứ người nào. 1,0
3, Bình luận ý kiến (3,0 điểm) – Phong cách nghệ thuật của nghệ sĩ là một cái gì đó bền vững, xuyên suốt, lặp đi lặp lại trong các sáng tác trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Nói cách khác phong cách là biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân người sáng tạo. – Phong cách nghệ thuật biểu hiện ở cái nhìn có tính chất khám phá, ở giọng điệu riêng biệt, ở hệ thống hình tượng, ở các phương diện nghệ thuật… – Điều quan trọng trong tài năng của người nghệ sĩ là cái riêng biệt, độc đáo mà không ai có thể bắt chước, làm theo. Đây vừa là yêu cầu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá vị trí của nghệ sĩ ấy trên văn đàn. Cái riêng ấy sẽ giúp họ ghi được dấu ấn trên nền văn học, được người đọc yêu mến, tôn vinh. 1,5 4. Phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu để làm rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của ông. (5,0 điểm) – Thơ Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới nhưng đồng thời cũng mang đậm bản sắc riêng của cái tôi trong thơ Xuân Diệu. Đó là cái tôi tích cực, mãnh liệt, lúc nào cũng thèm yêu, khát sống, khát khao tận hưởng, cống hiến ngay trên thiên đường trần thế này. Cái tôi mang giọng điệu vồ vập, vội vàng, cuống quýt…Dù khi vui hay khi buồn đều nồng nàn, tha thiết. – Cái nhìn của Xuân Diệu là cái nhìn tình tứ nên thiên nhiên luôn hiện ra với vẻ đẹp xuân tình. – Thơ Xuân Diệu tiêu biểu cho tinh thần lãng mạn. Mỗi tiếng thơ như một cơn lũ cảm xúc tuôn chảy, câu nọ gọi câu kia, hình ảnh này gọi hình ảnh kia trong một hơi thơ dồi dào, lôi cuốn. – Mỗi thi phẩm của Xuân Diệu đều có một cấu tứ khá chặt chẽ, không chỉ phơi trải tình cảm một cách đơn thuần, thi sĩ còn đưa ra những quan niệm, những triết lí về tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc, thời gian… – Xuân Diệu có những nỗ lực, có những cách tân thơ tiếng Việt bằng sự bền bỉ học hỏi và vận dụng cấu trúc thơ phương Tây, sáng tạo những điệu nói, những cách nói mới, phát huy được triệt để các giác quan trong cảm nhận. Lưu ý: Học sinh chọn các bài thơ tiêu biểu như Vội vàng, Thơ duyên, Đây mùa thu tới… để minh họa cho từng đặc điểm trên của phong cách thơ Xuân Diệu.
- Đánh giá (1,0 điểm) – Phong cách độc đáo chính là yếu tố quyết định tài năng và sức sống của tác phẩm văn học. – Xuân Diệu đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn bởi giọng điệu riêng biệt của chính mình mà không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác.
ĐỀ 21: Bàn về hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học, có ý kiến cho rằng:
“Một hình tượng nghệ thuật có tầm cỡ bao giờ cũng là một sự khám phá lớn. Sự khám phá này có thể bồi dưỡng tình cảm và làm phong phú thêm tâm hồn của con người.”
Bằng hiểu biết về những tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn lớp 11 THPT, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
A. Yêu cầu cần đạt
1. Yêu cầu về kĩ năng
- Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận văn học. Thể hiện được năng lực cảm thụ văn chương của bản thân.
- Bố cục rõ ràng, mạch lạc, có khả năng khái quát, tổng hợp vấn đề.
- Diễn đạt trôi chảy, câu văn sáng rõ, giàu cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.
2. Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách xong cần làm rõ được một số vấn đề sau:
2.1. Giải thích nhận định
- Hình tượng nghệ thuật có tầm cỡ: đó là những hình tượng mang tư tưởng lớn lao, có tính phổ quát, chuyển tải những vấn đề mà nhân loại quan tâm.
- Sự khám phá lớn: thể hiện những sáng tạo tài năng của nhà văn mang tính bản chất của cuộc sống: sắc sảo, nhạy bén, độc đáo, mới mẻ.
- Tác động đến tình cảm và tâm hồn con người: Những hình tượng nghệ thuật tầm cỡ có ảnh hưởng lớn đến lối sống, nhân cách, khuynh hướng thẩm mĩ của mỗi người.
2.2. Phân tích một số dẫn chứng để làm sáng tỏ nhận định
Học sinh có thể tùy ý lựa chọn các hình tượng nghệ thuật khác nhau trong những tác phẩm đã học, ở đây chỉ đưa ra một số gợi ý:
- Hình tượng Chí Phèo, Bá Kiến trong Chí Phèo, Hộ trong Đời thừa của Nam Cao,
- Hình tượng Xuân tóc đỏ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng,
- Hình tượng Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân...
2.3. Khẳng định lại ý nghĩa của nhận định sau khi đã phân tích dẫn chứng.
ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LỚP 11 TỈNH THÁI NGUYÊN
NĂM HỌC 2015 - 2016
VĂN LỚP 12
TÂY TIẾN
ĐỀ 22: Nhà thơ Lê Đạt cho rằng: Chữ bầu lên nhà thơ.
Bằng cảm nhận về hai bài thơ: Tự tình II (Hồ Xuân Hương) và Tây Tiến (Quang Dũng), anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.
Yêu cầu cụ thể
a. Giải thích ý kiến (3,0đ)
* Cắt nghĩa ý kiến: 1,5đ
– Chữ: không chỉ hiểu đơn giản là vỏ âm thanh mà quan trọng đó chính là ngôn ngữ được sử dụng, tổ chức một cách nghệ thuật.
– Chữ bầu lên nhà thơ: là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ. Ngôn ngữ góp phần: chuyên chở điệu hồn thi nhân; khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ; tôn vinh vị thế nhà thơ.
* Lí giải ý kiến: 1,5đ
– Ngôn ngữ là chất liệu, yếu tố đầu tiên của văn học. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt.
– Bản chất của thơ là trữ tình. Tiếng lòng của nhà thơ chỉ có thể được vang lên, được hữu hình hóa thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu.
– Lao động thơ thực chất là lao động chữ nghĩa, đòi hỏi tài năng, sự sáng tạo và tâm huyết của nhà thơ.
b. Cảm nhận về hai bài thơ: Tự tình II (Hồ Xuân Hương) và Tây Tiến (Quang Dũng) 7,0đ
* Thí sinh không phải cảm nhận toàn bộ bài thơ mà chỉ tập trung cảm nhận những nét đặc sắc trong cách sử dụng, tổ chức ngôn ngữ ở hai tác phẩm để thấy được vai trò của nó trong việc tôn vinh mỗi nhà thơ.
– Cảm nhận bài thơ Tự tình II:
+ Sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh: những động từ chỉ tình thái (dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc,…), những tính từ chỉ trạng thái (say, tỉnh, khuyết, tròn,…).
+ Phối hợp, tổ chức ngôn ngữ một cách sáng tạo: nghệ thuật đối, đảo ngữ, cách ngắt nhịp,…
=> Bằng cách sử dụng, tổ chức ngôn ngữ sáng tạo, tài tình, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ được tâm trạng bất mãn với cuộc đời, số phận và niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi.
– Cảm nhận bài thơ Tây Tiến:
+ Phối hợp, hòa trộn nhiều sắc thái phong cách ngôn ngữ với những lớp từ vựng đặc trưng. Có ngôn ngữ trang trọng mang màu sắc cổ kính (đoàn binh, viễn xứ, biên cương, khúc độc hành,…); lại có ngôn ngữ thông tục, sinh động của tiếng nói hàng ngày (bỏ quên đời, cọp trêu người, không mọc tóc, chẳng tiếc đời xanh,…).
+ Kết hợp từ độc đáo, mới lạ tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (nhớ chơi vơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, hoa đong đưa, dáng kiều thơm,…).
+ Sử dụng hệ thống các địa danh vừa tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người lại vừa gợi được sự hấp dẫn xứ lạ phương xa.
+ Sử dụng thể hành với những câu thơ phối hợp đan xen thanh điệu bằng, trắc tạo nên giọng điệu thơ bi tráng.
=> Những nét đặc sắc, tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng đã khắc họa nỗi nhớ da diết của nhà thơ về người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa trên nền thiên nhiên miền Tây hùng hiểm và thơ mộng.
* Đánh giá vai trò của ngôn ngữ ở hai bài thơ trong việc “bầu lên nhà thơ”:
– Cách sử dụng, tổ chức ngôn ngữ độc đáo trong bài Tự tình II đã góp phần tôn vinh nhà thơ Hồ Xuân Hương xứng đáng là nhà thơ của phụ nữ, “Bà chúa thơ Nôm” (Xuân Diệu).
– Những nét đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng chất liệu ngôn từ ở bài thơ Tây Tiến đã góp phần khẳng định sự tài hoa, tinh tế của nhà thơ Quang Dũng – “áng mây trắng xứ Đoài”. 2,0
c. Bình luận ý kiến (2,0đ)
– Lời chia sẻ của Lê Đạt chính là tâm niệm sâu sắc của người nghệ sĩ luôn ý thức cao về nghề: chọn lựa chữ, nghiêm khắc với chữ trong thơ cũng chính là sự chọn lựa của tình yêu và trách nhiệm với ngòi bút của mình.
– Ý kiến cũng là một định hướng, gợi mở cho người đọc khi đến với thơ: đọc thơ cần giải mã được cấu trúc ngôn từ để lắng nghe điệu hồn thi nhân; để trân trọng tài năng, sự lao động sáng tạo của nhà thơ.
– Tuy nhiên, khẳng định vai trò của ngôn ngữ với nhà thơ không có nghĩa là coi việc làm thơ chỉ là gò câu, đúc chữ, rơi vào chủ nghĩa hình thức cực đoan.
(SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA)
ĐỀ 23: Nghệ thuật chỉ làm ra những vần thơ khéo léo, còn trái tim mới làm nên tác phẩm thi ca. (V.Huygô)
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về vấn đề trên? Hãy phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ quan điểm của anh/chị.
Gợi ý:
*Giải thích ý kiến
– Nghệ thuật chỉ làm ra những vần thơ khéo léo:
+ Nghệ thuật: những yếu tố thuộc phạm trù hình thức của tác phẩm thơ ca: thể loại, cấu tứ, ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc điệu, các biện pháp tu từ…
+ Những vần thơ khéo léo: là những vần thơ đẹp, hấp dẫn bởi hình ảnh, ngôn từ, nhạc điệu…tạo ấn tượng ban đầu cho người đọc.
– Trái tim mới làm nên tác phẩm thi ca:
+ Trái tim: cách diễn đạt hình tượng biểu hiện những tình cảm, cảm xúc mãnh liệt…vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ.
+ Tác phẩm thi ca: sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Ở đây V.Huygô đề cập đến những tác phẩm thơ ca chân chính, có giá trị, có sức sống mãnh liệt trong lòng độc giả, vượt qua giới hạn của thời gian, không gian, trở thành tác phẩm chung của nhân loại, của muôn đời…
=> Ý kiến nhấn mạnh yếu tố tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ trong sáng tác thơ ca nói riêng, văn học nói chung. Đó là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định giá trị của tác phẩm.
*Bình luận
Bình: Khẳng định sự đúng đắn của ý kiến.
– Về lí luận:
+ Xuất phát từ đặc trưng của thơ ca là những rung động và cảm xúc của con người trước cuộc sống được bộc lộ một cách tự nhiên, chân thành. Tình cảm, cảm xúc là yếu tố có trước, khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho nhà thơ. Thơ là do tình sinh ra (Viên Mai), Thơ khởi phát từ lòng người ta (Lê Quý Đôn)…
+ Chức năng, giá trị của văn học: giáo dục tư tưởng, tình cảm, hướng con người tới vẻ đẹp Chân – Thiện – Mĩ…Thơ ca muốn lay động lòng người, truyền được tư tưởng tình cảm cho người đọc thì người cầm bút phải rung động mãnh liệt, có tình cảm thương yêu hay căm giận sâu sắc…Thơ sinh ra từ nụ cười trong sáng hay những giọt nước mắt đắng cay (Ra-xun Gam – za- tôp).
– Về thực tiễn: trong sáng tác thơ ca từ xưa tới nay, những tác phẩm có giá trị đều là những tác phẩm được tạo nên từ trái tim giàu cảm xúc của người cầm bút.
Luận
– Trong văn học nói chung, thơ ca nói riêng, những tác phẩm có giá trị, nội dung và hình thức luôn thống nhất chặt chẽ với nhau, chúng sẽ không thể tồn tại và không thể có ý nghĩa thực sự khi có cái này mà không có cái kia.
Chính sự thống nhất của các yếu tố nội dung và hình thức nghệ thuật đã tạo nên sức mạnh tư tưởng cho tác phẩm. Yêu cầu lí tưởng là nội dung của tác phẩm phải có ý nghĩa lớn lao đối với đời sống con người, nội dung đó phải được biểu hiện bằng một hình thức độc đáo. Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là những tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung (Lêônôp).
– Muốn làm được điều đó, nhà văn phải có tâm huyết và tài năng.
*Chứng minh ý kiến của V. Huygô qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến
– Giới thiệu thật ngắn gọn tác giả, tác phẩm, nhấn mạnh Tây Tiến là tác phẩm thơ ca có giá trị nội dung và nghệ thuật được tạo nên từ tâm huyết và tài năng của Quang Dũng.
– Về nội dung:
+ Nỗi nhớ chơi vơi, da diết về một thời Tây Tiến (gắn với hoàn cảnh ra đời của bài thơ).
+ Bức tranh thiên nhiên miền Tây vừa hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt, vừa thơ mộng, huyền ảo, trữ tình.
+ Hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn đậm chất bi tráng.
– Về nghệ thuật:
+ Bút pháp lãng mạn phát huy cao độ trí tưởng tượng để diễn tả cảm xúc, tình cảm.
+ Thủ pháp đối lập, tương phản, phóng đại, lí tưởng hoá tô đậm vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người.
+ Ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo, giàu tính nhạc, tính tạo hình.
=> Bài thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng: một cái tôi lãng mạn, tài hoa, phóng khoáng, hồn hậu; có khả năng diễn tả thiên nhiên, tình người một cách gợi cảm, tinh tế. Thi phẩm làm đẹp, phong phú thêm hình tượng người lính trong văn học kháng chiến và qua đó gửi đến người đọc thông điệp về lòng yêu nước và lí tưởng sống cao đẹp nên có sức hấp dẫn độc giả mọi thời đại.
Kết luận
– Đánh giá khái quát nhận định của V.Huygô. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể nghệ thuật được tạo nên từ sự thống nhất của hai yếu tố nội dung và hình thức biểu hiện. Trong đó nội dung bao giờ cũng đóng vai trò quyết định việc lựa chọn hệ thống các phương tiện biểu hiện của người viết.
– Bài thơ Tây Tiến được tạo nên từ tài năng và tâm huyết của Quang Dũng là minh chứng cho sự đúng đắn của nhận định đó.
– Rút ra bài học cho người sáng tạo và tiếp nhận.
ĐỀ 24: Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả.Anh/chị hiểu như thế nào về ý kiến trên ? Hãy phân tích bài thơ Tây Tiến để làm sáng tỏ ý kiến đó.
Gợi ý:
- Giải thích nhận định:
– Riêng: nét mới, cái độc đáo.
– Vì sao văn chương phải có cái riêng: văn chương là lĩnh vực của cái độc đáo. Mỗi tác phẩm văn chương phải có nét riêng, nét mới ở ý tưởng nghệ thuật cũng như ở hình thức biểu hiện. Mỗi nhà văn phải có một thế giới nghệ thuật riêng, một “chân trời” riêng, một “biên cương” riêng. Nhà văn có phong cách thì mới được người đọc chấp nhận và yêu mến. Phong cách càng độc đáo thì sức hấp dẫn càng lớn.
– Vì sao văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả: mới mẻ, độc đáo là điều kiện tồn tại của tác phẩm văn chương. Tác phẩm chương không có gì mới sẽ không được người đọc tiếp nhận. Nhà văn có phong cách nghệ thuật mờ nhạt sẽ bị người đọc quên lãng ; lặp lại mình hoặc lặp lại người khác đều là điều tối kị trong hoạt động sáng tác của nhà văn. Cái bình thường là cõi chết của nghệ thuật (M.Gorki).
=> Nhận định nhấn mạnh tầm quan trọng của phong cách nghệ thuật của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cái độc đáo cho tác phẩm.
2. Phân tích bài thơ để làm rõ vấn đề nghị luận:
a/ Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
b/ Phân tích
– Nét riêng trong lựa chọn, xử lí đề tài, xác định chủ đề: Người lính Tây Tiến xuất thân là những trí thức Hà Thành. Họ vừa có dáng dấp của những tráng sĩ thuở trước vừa mang đậm vẻ đẹp của người lính chống Pháp, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn vừa có chất bi tráng.
– Cách nhìn, cách cảm thụ giàu khám phá nghệ thuật (cách nhìn, cách cảm mới mẻ về người lính): trong số những bài thơ viết về người lính năm 1948 như Nhớ của Hồng Nguyên, Cá nước của Tố Hữu, Đồng chí của Chính Hữu…..thì Tây Tiến của Quang Dũng nói nhiều đến sự hi sinh. Tác giả không ngần ngại nói đến cái chết của người lính ở chiến trường, ở rừng sâu nước độc, ở biên giới Tây Bắc, cái chết vì súng đạn, cái chết vì bệnh tật, thiếu thốn….nhưng đoạn thơ và cả bài thơ vẫn không hề gây cảm giac bi lụy.
– Giọng điệu riêng của bài thơ: Cả bài thơ được bao trùm trong nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy gợi về những kỉ niệm, những hình ảnh với nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau, được diễn tả bằng những giọng điệu phù hợp với mỗi trạng thái cảm xúc.
+ Đọan 1: gịong tha thiết, bồi hồi, được cất lên thành những tiếng gọi những từ cảm thán.
+ Đọan 2: tái hiện kỉ niện về những đêm liên hoan thắm tình quân dân, giọng điệu chuyển sang hồn nhiên , tươi vui; sau đó bâng khuâng, man mác khi gợi lại một cảnh chia tay trong một chiều sương mờ bao phủ Châu Mộc.
+ Đọan 3: giọng thơ trang trọng bi tráng, tái hiện hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh cao cả của họ.
+ Đọan 4: tha thiết, bồi hồi….
=> Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là bi tráng.
– Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn riêng:
+ Hình ảnh trong bài thơ được sáng tạo bằng nhiều bút pháp khác nhau, tạo nên những sắc thái thẩm mỹ phong phú. Trong bài thơ có hai hình ảnh chính: thiên nhiên miền Tây và người lính Tây Tiến. Ở mỗi loại hình ảnh có hai dạng chính, tạo nên sắc thái thẩm mỹ phối hợp, bổ sung cho nhau.
Thiên nhiên có cái dữ dội, khắc nghiệt, hoang sơ, hùng vĩ: thanh trắc, nét vẽ khoẻ khoắn, dữ dằn. Bên cạnh đó, có những hình ảnh thiên nhiên đầy thơ mộng, ẩn hiện trong sương khói, trong màn mưa, hoa đong đưa : thanh bằng, nét vẽ nhoè mờ kiểu tranh lụa. Tác giả đã sử dụng nhiều bút pháp để miêu tả, dựng hình ảnh, có khi tả cận cảnh, dừng lại ở những chi tiết khá cụ thể, có khi lại lùi xa để bao quát khung cảnh rộng, mở ra bức tranh phóng khoáng và hùng vĩ của miền Tây.
Hình ảnh người lính Tây Tiến cũng hiện ra với nhiều sắc thái, chủ yếu là hào hùng và hào hoa. Hào hùng ở ý chí, tư thế hiên ngang, coi thường gian khổ. Hào hoa ở tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên, đằm thắm tình người và cả những khát khao, mơ mộng.
=> Trong thơ có nhạc, có hoạ, có chạm khắc theo một cách riêng.
+ Đặc sắc ngôn ngữ của Tây Tiến là sự phối hợp, hòa trộn của nhiều sắc thái phong cách với ngôn ngữ những lớp từ vựng đặc trưng. Có thứ ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc cổ kính, chủ yếu miêu tả hình ảnh Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ. Có lớp từ ngữ sinh động của tiếng nói hàng ngày, in đậm phong cách người lính.
Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ là có những kết hợp từ độc đáo mới lạ tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới: nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, mùa em thơm nếp xôi…
Sử dụng địa danh : tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người; gợi được vẻ heo hút nhưng cũng rất hấp dẫn của xứ lạ phương xa.
+ Thể thơ 7 chữ với các biện pháp tu từ: nhân hoá, sử dụng từ láy, liệt kê, nghệ thuật đối…
Đánh giá chung:
– Nội dung: Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên đươc một bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến hào hoa, dũng cảm. Nhà thơ đã tái hiện được hiện thực bi hùng của cuộc kháng chống Pháp trong niềm cảm hứng lãng mạn dạt dào.
- Nghệ thuật: Bài thơ hội tụ nhiều nét tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng.
- Tây Tiến là một đóng góp đặc biệt của Quang Dũng cho thơ ca viết về người lính của văn học dân tộc.
VIỆT BẮC
ĐỀ 25: Xuân Diệu cho rằng: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Bằng đoạn trích Việt Bắc trong SGK Ngữ văn 12, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến ấy.
Gợi ý:
Mở bài:Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Dẫn ý kiến.
Thân bài:
Giải thích:
– Thơ chính trị: Là thơ trực tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị, những sự kiện chính trị nhằm mục đích tuyên tuyền, cổ động. Chính vì thế, thơ chính trị thường có nguy cơ rơi vào khô khan, áp đặt.
– Ý kiến của Xuân Diệu: Tố Hữu đã “trữ tình hóa” thơ chính trị, để thơ chính trị thực sự là thơ, có sức rung cảm sâu xa. Đây là ý kiến đánh giá rất cao về thơ Tố Hữu.
Bình luận
– Ý kiến của Xuân Diệu rất xác đáng và tinh tế, đánh giá, ghi nhận đúng vị trí đặc biệt và thành tựu lớn lao của đời thơ Tố Hữu.
– Thơ Tố Hữu đúng là thơ chính trị, bởi đề tài trong thơ Tố Hữu là những vấn đề chính trị, hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và niềm vui lớn của Đảng, dân tộc, cách mạng (chứng minh điều này qua các tập thơ từ Từ ấy đến Máu và hoa, phần đầu của phong cách thơ Tố Hữu trong SGK).
– Nhưng thơ Tố Hữu cũng rất đỗi trữ tình. Tố Hữu đã đưa thơ trữ tình chính trị lên đến đỉnh cao. Có được điều ấy là nhờ những vấn đề chính trị trong thơ Tố Hữu đã được thực sự chuyển hóa thành những vấn đề của tình cảm, cảm xúc rất mực tự nhiên, chân thành, đằm thắm với một giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, giọng của tình thương mến (Tiếng ru, Bác ơi, Quê mẹ…).
Chứng minh qua Việt Bắc
Chú ý làm rõ các điểm cơ bản sau:
– Việt Bắc là thơ chính trị: (đề cập đến sự kiện lịch sử là cuộc chia tay giữa những người kháng chiến với nhân dân Việt Bắc tháng 10 năm 1954, cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng ân tình cách mạng, niềm biết ơn sâu sắc với Đảng, Bác Hồ, căn cứ địa cách mạng, nhân dân…).
– Nhưng Việt Bắc cũng rất đỗi trữ tình:
+ Nỗi nhớ đằm sâu, tràn trào, mênh mang, lan tỏa cả không gian và thời gian của “ta” và “mình”, người đi và kẻ ở gắn liền với tình cảm sắt son chung thủy – nỗi nhớ về cảnh và người, nỗi nhớ về những kỉ niệm… Bài thơ mang âm điệu của một bản tình ca ngọt ngào, đằm thắm (chú ý những câu nói về nỗi nhớ, khẳng định tình nghĩa ).
+ Cùng với nỗi nhớ, cảnh và người Việt Bắc hiện lên với những chi tiết vừa chân thực, giản dị, vừa lộng lẫy, tươi tắn, thơ mộng, giàu sức rung động lòng người (chú ý “Nhớ gì như nhớ người yêu…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung).
+ Niềm vui hân hoan, âm điệu hùng tráng đậm chất sử thi (đoạn 2 – khúc hùng ca).
+ Giọng điệu ngọt ngào, tâm tình với kết cấu đối đáp, cách xưng hô mình – ta và thể thơ lục bát truyền thống, sở trường sử dụng từ láy và các hình ảnh so sánh ví von đậm đà tính dân tộc.
Kết bài:
– Khẳng định lại ý kiến.
– Những câu thơ giản dị và đằm thắm về Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, ta càng thêm kính, thêm yêu miền đất cội nguồn.
– Khẳng định ý nghĩa và đóng góp quan trọng của thơ Tố Hữu trong dòng văn học cách mạng của dân tộc
ĐỀ 26: Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. (Sóng Hồng).
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua việc phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
– Vấn đề cần giải quyết: Phân tích thi phẩm Tây Tiến của Quang Dũng để làm sáng tỏ một vấn đề lí luận văn học về mối quan hệ giữa đặc trưng của thơ và các loại hình nghệ thuật gần gũi với nó. Đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính hình tượng, tính nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác.
– Vùng tư liệu: Đặc trưng ngôn ngữ thơ, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
– Kiểu bài: kiểu bài nghị luận văn học có vận dụng kết hợp các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
– Yêu cầu về kỹ năng: Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát có cảm xúc, ngôn ngữ chọn lọc, không mắc chính tả, dùng từ, ngữ pháp (trong đó đề cao sáng tạo với những kiến giải riêng hợp lí).
Các chất liệu cần huy động:
– Hệ thống các luận điểm lớn, nhỏ (ý lớn, ý nhỏ).
– Các dẫn chứng: Ngoài kiến thức về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến, học sinh có thể viện dẫn những nhận định của các nhà nghiên cứu phê bình văn học có uy tín (tất nhiên phải gần gũi, phù hợp). Bước này học sinh cần vận dụng trí nhớ và ghi lại ngay khi kiến thức cần thiết ùa về.
– Dựng khung đề cương cho bài viết:
Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
1/ Giới thiệu vấn đề nghị luận.
Mở bài tham khảo :
“Phải phí tổn nghìn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi,
Một chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.”
(Maiacôpxki)
Thơ là tập hợp những tinh hoa tâm hồn và ngôn ngữ. Thơ là cái thật, cái đẹp của tâm hồn được chắt lọc, gọt giũa bằng nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ sĩ phải dùng bàn tay tài hoa và lăng kính nghệ thuật để biến ngôn ngữ đời sống thành ngôn ngữ văn học. Nhà thơ, để tạo nên một tác phẩm độc đáo cần trải qua quá trình lao động nhọc nhằn, như người đào vàng, tìm ngọc, đãi từ kho quặng chữ thô ráp lấy một viên ngọc chữ nghĩa tinh khôi. Nhiều khi khát cháy trên sa mạc ngôn từ vẫn chưa tìm được thứ báu vật thiêng liêng ấy. Nhiều “phu chữ” cả một đời luôn trăn trở: “Chữ chẳng làm kinh động lòng người chết chẳng yên” (Đỗ Phủ). Với chất liệu phi vật thể (ngôn từ), thơ ca đã tạo cho mình thế mạnh riêng, là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều bộ môn nghệ thuật. Bàn về vấn đề này, thi Sĩ Sóng Hồng cho rằng: Thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. Qua việc phân tích những biểu hiện của chất thơ, chất nhạc, chất hoạ, chất điêu khắc trong Tây Tiến – bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Quang Dũng- chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về nhận định mang tính lí luận
Thân bài:
1/ Giải thích ý kiến.
2.1 Thơ là thơ : Thơ trước hết phải là chính nó, nghĩa là phải mang đầy đủ những đặc trưng riêng khác với bất kì loại hình nghệ thuật nào: truyện, kịch… Thơ là phương thức trữ tình, là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc được thể hiện bằng một cấu tạo ngôn ngữ đặc biệt.
2.2 Thơ đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng:
+ Thơ – hoạ – nhạc – chạm khắc đều là những loại hình nghệ thuật, song có sự khác biệt, trước hết là chất liệu xây dựng hình tượng nghệ thuật để phản ánh đời sống. Chất liệu của thơ ca là ngôn ngữ – chất liệu phi vật thể có những đặc trưng riêng- vì vậy tác động nhận thức không trực tiếp bằng các loại hình nghệ thuật khác song sức gợi mở của nó lại hết sức dồi dào, mạnh mẽ. Nó tác động vào liên tưởng con người và khơi dậy những cảm nhận cụ thể về màu sắc, đường nét, âm thanh, hình khối.
+ Thơ là họa: Họa có nghĩa là hội họa, đặc trưng ngôn ngữ thơ giàu tính tạo hình, thơ có thể gợi lên trong tâm trí người đọc những hình ảnh, chi tiết sống động, chân thực như bản thân sự sống vốn có, “thi trung hữu hoạ”.
+ Thơ là nhạc: Nhạc là âm nhạc. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính. Tính nhạc của thơ thể hiện ở: thể thơ, cách gieo vần, ngắt nhịp, thanh điệu,… “thi trung hữu nhạc”. Nhạc là cỗ xe chở hồn thi phẩm (Hoàng Cầm).
+ Thơ còn là chạm khắc: Chạm khắc là điêu khắc. Cũng vì tính tạo hình, ngôn ngữ thơ ca có khả năng tạo dựng hình khối, đường nét sống động, chân thực.
+ Một cách riêng: Phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
2.3 Tóm lại: Sóng Hồng đã khẳng định tính chất kì diệu của thơ ca: thơ là thơ nhưng thơ còn có màu sắc, đường nét của hội hoạ, thanh âm của âm nhạc và hình khối của chạm khắc (điêu khắc). Thơ cất tiếng nhờ nhạc, đẹp lên nhờ hoạ và kiêu hãnh vì được thể hiện bằng nét chạm khắc. Tuy nhiên, tất cả những biểu hiện ấy phải được thể hiện theo “một cách riêng” nghĩa là nhà thơ phải có phong cách nghệ thuật độc đáo.
(Cũng như nhận xét của Biêlinxki “Bản thân văn học là toàn bộ nghệ thuật” hay “Thơ là kết tinh của cái đẹp trong mọi hình thức nghệ thuật”).
2/ Chứng minh qua bài thơ Tây Tiến.
3.1 Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
– Tác giả: Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng khoáng, lãng mạn và hào hoa.
– Tác phẩm: Tây Tiến (1948) là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ đươc in trong tập Mây đầu ô. Xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ: nỗi nhớ da diết về những người động đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả trong đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng, kí ức để kết tinh thành những hình ảnh sống động.
3.2 Chất thơ của Tây Tiến:
+ Bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của Quang Dũng: nỗi nhớ đơn vị cũ, nhớ thiên nhiên núi rừng, con người Tây Bắc.
+ Ngôn ngữ thơ hàm súc, đa nghĩa, có tính biểu cảm cao.
3.3 Tây Tiến cũng là bài thơ giàu chất hoạ, chất nhạc và điêu khắc:
+ Chất hoạ: Bức tranh thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, bí ẩn, dữ dội, mà mĩ lệ thơ mộng trữ tình. Nét vẽ gân guốc, khoẻ khoắn tái hiện thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở hoang sơ. Nét vẽ nhẹ nhàng, nhoè mờ kiểu tranh lụa lại làm hiện lên thiên nhiên Tây Bắc thơ mộng, trữ tình, ấm áp (dẫn chứng).
+ Chất nhạc: phép đối, điệp âm, sử dụng từ láy, cách ngắt nhịp, phối thanh Bằng – Trắc… => tạo nên giọng điệu gân guốc, mạnh mẽ khi nói về con đường hành quân gập ghềnh, trắc trở; giọng điệu êm đềm man mác khi nói về thiên nhiên thơ mộng trữ tình; giọng thơ vui tươi, khoẻ khoắn khi tái hiện kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết trong đêm liên hoan (dẫn chứng).
+ Đường nét của điêu khắc: chạm khắc bức tượng đài về người lính Tây Tiến sống động, chân thực, mang vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn mà bi tráng (dẫn chứng).
Đáng giá chung
3.4 Bài thơ Tây Tiến thể hiện phong cách riêng, độc đáo của Quang Dũng: bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng, hồn thơ bay bổng và ngôn ngữ sáng tạo, tinh tế, tài hoa.
4.1 Ý kiến đúng đắn, có giá trị của Sóng Hồng đã khẳng định sức sống và vẻ đẹp kì diệu của thơ ca: đặc trưng của ngôn ngữ thơ (tính chính xác, tính hình tượng, tính nhạc) khiến nó mang trong mình đặc điểm của các loại hình nghệ thuật khác.
4.2 Bài thơ Tây Tiến với vẻ đẹp kì diệu là minh chứng rõ nét cho điều đó. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Quang Dũng, xứng đáng là một trong những thi phẩm xuất sắc của nền thi ca cách mạng Việt Nam.
4.3 Để sáng tác được những bài thơ hay, nhà thơ không chỉ cần cảm xúc mãnh liệt, chân thành mà còn cần có tài năng trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, thanh điệu, nhịp điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của mình. Mỗi độc giả cần phải là người đọc “đồng sáng tạo” với nhà thơ.
Học sinh hoàn thành một kết bài sáng tạo và để lại ấn tượng với người đọc.
Kết luận: Tóm lược vấn đề, phát triển nâng cao và để lại ấn tượng sâu sắc.
Tóm tại, thơ là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sản phẩm tinh thần của nhà thơ. Mỗi bài thơ là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu hiện những trạng thái xúc cảm của người sáng tác. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học. Trong sự lao động của nhà thơ có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả. Với các đặc trưng: tính chính xác, tính hình tượng, tính tinh luyện, hàm súc kết hợp với tính nhạc phong phú của tiếng Việt, thơ là thơ đồng thời là hoạ, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng. Tuân thủ nghiêm ngặt điều đó, với Tây Tiến, Quang Dũng trở thành một trong những nhà thơ lưu danh hậu thế. Cũng như vậy, mỗi nghệ sĩ trong sáng tạo cần ghi nhớ: để sáng tác được những bài thơ hay, nhà thơ không chỉ cần cảm xúc mãnh liệt, chân thành mà còn cần có tài năng trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, thanh điệu, nhịp điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của mình. Nếu Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay(Chế Lan Viên) thì mỗi độc giả hãy là người đồng sáng tạo với nhà thơ, đừng quên lời nhắc nhở của Phôntan:
“Bạn ơi hãy học suy nghĩ bằng trái tim Và hãy học cảm xúc bằng lý trí”.
ĐẤT NƯỚC
ĐỀ 27: Khi bàn về công việc sáng tạo nghệ thuật, M. Goorki khuyên các nhà văn: “Bạn hãy giữ lấy cái gì là riêng của mình, làm sao cho nó phát triển tự do”.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng dòng sông trong hai doạn thơ sau để làm nổi bật cái riêng của từng tác giả khi khắc họa hình tượng đó:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr.89)
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
(Đất Nước, trích Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr.122)
Gợi ý:
I, Yêu cầu về hình thức và kĩ năng
Cần xác định đây là kiểu bài nghị luận văn học. Học sinh có thể có những cách làm khác nhau nhưng phải giải thích đúng câu nói của M. Goorki và phân tích hình tượng dòng sông để làm sáng tỏ “cái riêng”, sự sáng tạo của mỗi nhà thơ. Kết cấu chặt chẽ, viết văn lưu loát, có hình ảnh và cảm xúc; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
*Yêu cầu về nội dung
Trên cơ sở những hiểu biết cơ bản về kiến thức lí luận văn học, tác giả, tác phẩm thuộc phạm vi đề bài, học sinh cần làm rõ những nội dung sau:
*Giải thích ý kiến của M. Goorki
– Cái riêng của mình mà M. Goorki nói đến ở đây chính là dấu ấn cá nhân, nét độc đáo, mới lạ, nổi bật về tư tưởng cũng như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mĩ của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật mà ta gọi là phong cách. Phong cách mang tính ổn định, ít nhiều chịu sự chi phối của phong cách thời đại.
– Phát triển tự do: được hiểu là phát triển không bị gò bó, trói buộc, không bị lệ thuộc, chi phối bởi người khác.
– Cả câu trên khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng của nét riêng, cá tính sáng tạo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn.
– Nét riêng trong sáng tác biểu hiện ở cách nhìn, cách cảm thụ, giọng điệu, sự sáng tạo các yếu tố nội dung cũng như hình thức tác phẩm…Đặc điểm riêng trong sáng tác là dấu ấn trưởng thành về bản lĩnh nghệ thuật của tác giả và làm nên phong cách độc đáo của nhà văn.
– Nhu cầu cuộc sống nói chung, văn học nói riêng là sự xuất hiện những nhân tố mới mẻ. Nếu không có cái riêng, sự độc đáo cá nhân thì văn học nghệ thuật sẽ đơn điệu và không còn hấp dẫn nữa.
Phân tích vẻ đẹp hình tượng dòng sông trong hai đoạn trích để làm nổi bật “cái riêng” của từng tác giả
*Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ
Vẻ đẹp của hình ảnh dòng sông trong Tây Tiến
– Hình ảnh dòng sông mã xuất hiện ở đầu bài thơ và lặp lại ở khổ thơ này. Lần đầu, sông Mã là đối tượng gợi niềm thương nhớ, hoài niệm về một thời Tây Tiến…Lần sau, Sông Mã độc hành tấu lên khúc nhạc trầm hùng tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ.
– Dòng sông được khắc họa với bút pháp lãng mạn, bi tráng, nghệ thuật nhân hóa gợi lên vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ, thiêng liêng, bất tử hóa cái chết của người lính.
– Sông Mã là dòng sông tưởng niệm, tri ân, ngưỡng mộ…thể hiện tấm lòng của nhân dân, đất nước trước sự hi sinh cao cả của những chiến binh Tây Tiến.
Vẻ đẹp của hình tượng dòng sông trong Đất Nước
– Hình ảnh dòng sông không gợi bóng hình những dòng sông Việt Nam mà mang vẻ đẹp chiều sâu văn hóa, lịch sử.
– Dòng sông được khắc họa với bút pháp trữ tình – chính luận, có vẻ đẹp hài hòa giữa lí trí và tình cảm, cảm xúc và trí tuệ, giàu chất triết lí.
– Dòng sông gắn với vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt trong sự tiếp nhận, biến đổi làm nên vẻ đẹp đa dạng, phong phú của văn hóa dân tộc.
Đánh giá chung
– Hai đoạn thơ cùng khắc họa hình ảnh dòng sông nhưng mỗi dòng sông đều hiện lên với vẻ đẹp riêng với bút pháp, phong cách nghệ thuật riêng mang đậm dấu ấn sáng tạo của mỗi tác giả:
+ Thơ Quang Dũng mang vẻ đẹp hồn nhiên, tinh tế, hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn; sáng tạo về hình ảnh, ngôn từ, giọng điệu…
+ Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giọng thơ trữ tình – chính luận…
SÓNG
ĐỀ 28: “Ngàn trái tim mang trong một trái tim” (Cảm xúc – Xuân Diệu)
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em” (Tự hát – Xuân Quỳnh)
Đặc trưng nào của thơ đã được hai thi sĩ nhắc đến trong những ý thơ trên. Sự gặp gỡ và khác biệt của họ khi thể hiện đặc trưng ấy trong Vội vàng và Sóng?
Gợi ý:
- Giải thích
– Trái tim trong thơ là biểu tượng của tâm hồn.
+ Câu thơ của Xuân Diệu: muốn nhấn mạnh tâm hồn nhà thơ thật bao dung, nhân hậu không chỉ chứa đựng những tình cảm, những cảm xúc phong phú của riêng mình mà tập trung cho những buồn vui của cuộc đời rộng lớn, của số phận nhân loại.
+ Câu thơ của Xuân Quỳnh: muốn nói đến ước muốn sống chân thật với những khát vọng chân thành; tâm hồn nhà thơ xúc động mãnh liệt với những buồn vui, khổ đau hạnh phúc của mình, của đời “đúng nghĩa trái tim”.
– Học sinh có thể dựa vào lí luận đặc trưng của thơ để giải thích lí do sao hai câu thơ trên đều nói đến “trái tim”.
+ Đặc trưng của văn học là tình cảm. Văn học xuất phát từ tình cảm, từ tâm hồn tác giả tìm đến tâm hồn người đọc. Văn học cần sự đồng cảm, đồng điệu.
+ Nhà thơ, nhà văn phải biết sống chân thành, nhạy cảm với đời, với người thì tác phẩm của họ mới phong phú, giàu giá trị và tìm được sự đồng điệu trong tâm hồn người đọc.
- Chứng minh
Học sinh có thể phân tích hai tác phẩm và phát biểu những cảm nhận khác nhau nhưng phải xuất phát từ nội dung, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và của đề thi.
Giống nhau
– Cả hai nghệ sĩ đều trăn trở để làm sáng tỏ những điều sâu thẳm trong trái tim mình.
Khác nhau
*Vội vàng: Xuân Diệu muốn thể hiện điều sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình đó là khát vọng sống mãnh liệt, một niềm ham sống vô biên, khao khát vô cùng.
– Ca ngợi cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, hấp dẫn và quyến rũ.
– Ca ngợi tình yêu và tuổi trẻ.
– Giục giã vội vàng sống từng phút, từng giây, cố níu giữ thời gian cũng như niềm tiếc nuối mùa xuân, tuổi trẻ đều là biểu hiện của những khát vọng sống sâu xa trong trái tim của nhà thơ. Niềm khát sống ấy thể hiện qua cái nhìn của nhà thơ với hiện thực khách quan.
* Ở Sóng, Xuân Quỳnh muốn chứng minh một tình yêu vô bờ vừa truyền thống vừa hiện đại từ sâu thẳm trái tim của người phụ nữ.
– Nét đẹp truyền thống của người phụ nữ: đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, chung thuỷ.
– Nét đẹp hiện đại của người phụ nữ: táo bạo, mãnh liệt, dù có phấp phỏng lo âu trước cái vô tận của thời gian nhưng vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu.
- Đánh giá
– Người sáng tác thơ cần có cảm xúc chân thành.
– Nhưng cách thể hiện cảm xúc của mỗi tác giả có thể khác nhau. Chính điều đó đã góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú cho văn học.
– Người đọc khi tìm hiểu tác phẩm phải có sự đồng điệu với tâm hồn thi nhân
VỢ NHẶT
ĐỀ 29: Cái nhìn về người nông dân trong văn học trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945 qua hai tác phẩm: Chí Phèo của Nam Cao và Vợ Nhặt của Kim Lân.
Hướng dẫn
*Nêu và trình bày khái quát về vấn đề cần nghị luận
– Đề tài người nông dân trong văn học trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945 và cái nhìn của các nhà văn, tiêu biểu qua hai tác phẩm: “Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ Nhặt” của Kim Lân.
– Giải thích khái niệm “cái nhìn về người nông dân” để xác định nội dung vấn đề nghị luận: là thái độ, tư tưởng, tình cảm của nhà văn khi khám phá và phản ánh về số phận và tâm hồn người nông dân.
– Lược thuật hai tác phẩm: “Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ nhặt” của Kim Lân. Cái nhìn của các nhà văn về người nông dân vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt.
*Những điểm tương đồng của hai nhà văn về người nông dân:
– Cái nhìn đồng cảm, xót thương cho số phận cùng khổ. Phân tích số phận của nhân vật Chí Phèo và các nhân vật trong Vợ nhặt (Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt) để làm rõ.
– Cái nhìn phát hiện, trân trọng những phẩm chất cao đẹp trong tâm hồn. Phân tích bản tính lương thiện và niềm khát khao làm người lương thiện của Chí Phèo, phẩm chất người của Thị Nở; tấm lòng nhân ái của bà cụ Tứ, khát vọng sống và hạnh phúc của Tràng và người vọ nhặt để làm rõ.
– Thái độ phê phán đối với xã hội Thực dân – phong kiến đã xô đẩy người nông dân đến tình cảnh khốn cùng. Phân tích bộ mặt xã hội nông thôn Việt Nam với các thế lực đã xô đẩy Chí Phèo trong truyện “Chí Phèo”; phân tích nguyên nhân xã hội đã đẩy người nông dân đến tình cảnh nạn đói trong “Vợ nhặt”
*Điểm khác biệt trong cái nhìn về người nông dân của Nam Cao và Kim Lân, cũng là sự vận động, đổi mới của văn học giữa hai thời kỳ:
– Cái nhìn của Nam Cao thể hiện sự bi quan và bế tác trong vấn đề người nông dân. Phân tích ý nghĩa cái chết của Chí Phèo, chi tiết kết thúc tác phẩm (liên hệ đến những tác phẩm khác của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng…). Đây là sự hạn ché do sự chi phối của thời đại.
– Cái nhìn của Kim Lân thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai và về sự thay đổi về số phận người nông dân. Phân tích việc Tràng láy vợ, những thay đổi của các nhân vật, những dự định của bà cụ Tứ, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người phá kho thóc Nhật (liên hệ các tác phẩm của Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Văn Bổng, Đào Vũ…). Đây là sự thay đổi theo sự vận động chung của lịch sử xã hội và sự thay đổi của số phận người nông dân sau Cách mạng.
*Đánh giá chung: Cái nhìn về người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao và Kim Lân nói riêng, trong văn học hiện thực trước và sau Cách mạng tháng Tám nói chung đều thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc và mới mẻ.
Lưu ý: Thí sinh có thể trình bày theo những cách khác nhau, song cần đáp ứng được đầy đủ những ý cơ bản trên và không mắc các lỗi về lập ý, lập luận và diễn đạt. Ưu tiên những bài làm có tính sáng tạo.
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
ĐỀ 30: Nói về các giá trị của văn học, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (Tập 2, chương trình cơ bản, tr.187) cho rằng:
“Văn chương hướng tới chân, thiện, mĩ bao giờ cũng là văn chương cho mọi người và là văn chương của muôn đời”.
Bằng việc phân tích hai tác phẩm: “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, anh/ chị hãy bình luận về ý kiến trên.
a) Yêu cầu về kĩ năng: Biết cách làm bài văn nghị luận văn học về một hình tượng nghệ thuật; lập ý rõ ràng, kết cấu chặt chẽ; diễn đạt sáng rõ, lưu loát, không mắc các lỗi về từ ngữ, chính tả, ngữ pháp. b) Yêu cầu về kiến thức: – Nắm vững kiến thức lí luận về các giá trị của văn học và mối quan hệ giữa chúng với sức sống, sức lan tỏa và ảnh hưởng của một tác phẩm văn chương. – Có những kiến thức cơ bản về lịch sử văn học, về sự phát triển của các giá trị văn học theo tiến trình lịch sử văn học dân tộc và văn học thế giới. – Nắm vững kiến thức về hai tác phẩm: “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu; biết khai thác những giá trị cơ bản để thuyết minh và bình luận cho vấn đề lí luận. – Học sinh có thể có những cách trình bày khác nhau, song phải đảm bảo các ý cơ bản sau: * Nêu vấn đề nghị luận: Các giá trị văn học và mối quan hệ của chúng đối với sức sống, sức lan tỏa của một tác phẩm; trích dẫn ý kiến lí luận. * Giải thích ý kiến: – Giải thích các khái niệm: chân, thiện, mĩ. + “Chân”: có nghĩa là chân thật, sự xác thực, là sự thật và chân lí được phản ánh vào trong tác phẩm văn học. Trái ngược với “chân” là giả dối, giả tạo, phù phiếm. Đi liền với “chân” là giá trị nhận thức. + “Thiện”: có nghĩa là cái tốt, cái hay được nhà văn thể hiện trong tác phảm, nó thuộc về phương diện đạo đức và nhân cách của con người, hướng con người đến với cái tốt đẹp trong cuộc sống. Trái với thiện là cái ác, là đi ngược lại với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Đi liến với “thiện” là giá trị giáo dục tư tưởng, tình cảm. + “Mỹ”: có nghĩa là đẹp, là cái đẹp trong cuộc sống. Trong tác phẩm văn học, “mỹ” được hiểu là cái đẹp nghệ thuật, là sự kết hợp hài hòa giữa “chân” và “thiện”, là khả năng đánh thức, khơi gợi và bồi dưỡng những tình cảm thẩm mĩ của người đọc. Đi liền với “mỹ” là giá trị giáo dục tình cảm thẩm mỹ. – Giải thích ý kiến: “Văn chương hướng đến chân – thiện – mỹ” là văn chương hướng đến những giá trị toàn diện, vừa phản ánh chân thực những vấn đề trong đời sống của con người, vừa hướng con người đến với cái tốt, cái đẹp, đồng thời khơi gợi và bồi dưỡng cho con người những rung cảm thẩm mĩ. Văn chương “chân – thiện – mỹ” là văn chương đem đến cho con người những giá trị về nhận thức, về những bài học tư tưởng đạo lí và về cái đẹp. Đó mới thực sự là văn chương chân chính vì con người. Khi đó, tác phẩm văn học sẽ được đón nhận, được lưu truyền và trở thành món ăn tinh thần của tất cả mọi người ở mọi thời đại. – Đánh giá ý kiến: Ý kiến trên là sự đánh giá tổng hợp về các giá trị của tác phẩm văn học, vừa như một sự định hướng vừa là một yêu cầu đối với mỗi người cầm bút trong sáng tác văn chương. * Khái quát vấn đề nghị luận – Khái quát quy luật về mối quan hệ giữa các giá trị “chân – thiện – mỹ” và sức sống của một tác phẩm văn học qua sự vận động, phát triển của văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng: Những tác phẩm đạt đến “chân – thiện – mỹ” là những tác phẩm vượt mọi giới hạn của thời gian và không gian để trở thành tác phẩm chung của cả nhân loại và với mọi thời đại. (Nêu một số tác phẩm tiên biểu trong lịch sử văn học để minh họa) – Giới thiệu khái quát về hai tác giả Thạch Lam và Nguyễn Minh Châu trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam qua mỗi thời kỳ, đồng thời khẳng định các tác phẩm của hai nhà văn là những tác phẩm đã đạt đến “châm – thiện – mỹ”. Tiêu biểu với Thạch Lam là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và Nguyễn Minh Châu là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. * Phân tích truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam – Giới thiệu khái quát về tác phẩm: nội dung cốt truyện, thế giới nhân vật, giá trị chung về nội dung tư tưởng và nghệ thuật… Nhấn mạnh các giá trị “chân – thiện – mỹ” – Phân tích cụ thể các biểu hiện về “chân – thiện – mỹ” trong tác phẩm: + Phản ánh một cách chân thực bức tranh đời sống xã hội Việt Nam những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 qua bức tranh phố huyện và những kiếp người trên phố. (Phân tích các chi tiết cụ thể về phố huyện và đời sống các nhân vật) + Thể hiện một cái nhìn, một tình cảm nhân ái, yêu thương, đồng cảm với những cảnh đời bé nhỏ, tàn lụi trên phố huyện nghèo; đồng thời là một mơ ước, một niềm hi vọng về sự đổi thay, về một điều tươi sáng sẽ đến. (Phân tích các biểu hiện cụ thể của tinh thần nhân đạo Thạch Lam trong tác phẩm) + Những sáng tạo riêng, độc đáo về hình thức nghệ thuật, tạo nên một tác phẩm văn xuôi giàu chất thơ trữ tình, nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng. * Phân tích truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – Giới thiệu khái quát về tác phẩm: nội dung cốt truyện, thế giới nhân vật, giá trị chung về nội dung tư tưởng và nghệ thuật… Nhấn mạnh các giá trị “chân – thiện – mỹ” – Phân tích cụ thể các biểu hiện về “chân – thiện – mỹ” trong tác phẩm + Phản ánh chân thực và sâu sắc những vấn đề trong đời sống xã hội, những góc khuất, những khoảng lấp đằng sau cái vẻ bề ngoài thơ mộng của cuộc sống. (Phân tích những vấn đề được Nguyễn Minh Châu phản ánh trong tác phẩm) + Thể hiện cái nhìn phát hiện, khám phá, đồng cảm, trân trọng đối với người lao động, những con người bé nhỏ bất hạnh còn bị khuất lấp trong sự vận động đi lên của xã hội. (Phân tích tư tưởng, tình cảm và thái độ của nhà văn qua các nhân vật) + Những đặc sắc nghệ thuật: nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống… Đặc biệt là sự đổi mới ngòi bút phù hợp với việc phản ánh hiện thực trong nền văn học mới sau chiến tranh: đổi mới đề tài, đổi mới cách tiếp cận cuộc sống, dổi mới cái nhìn đối với người nghệ sĩ… * Bình luận, đánh giá: – Đánh giá về các giá trị “chân – thiện – mỹ” và sức sống của hai tác phẩm “Hai đứa trẻ” và “Chiếc thuyền ngoài xa” trong lòng người đọc và trong đời sống văn học. – Đánh giá về ý nghĩa lí luận và thực tiễn của vấn đề nghị luận. Lưu ý: Chỉ cho điểm tối đa khi thí sinh đáp ứng được cả những yêu cầu về kĩ năng và kiến thức.
NHẬN ĐỊNH VỀ THƠ
ĐỀ 31: Trong Nhân giai từ thoại, Vương Quốc Duy, nhà thơ đời Thanh của Trung Quốc, có đưa ra nhận định:
“Nhà thơ, đối với vũ trụ nhân sinh, nên bước vào bên trong, mà lại nên đi ra bên ngoài. Bước vào bên trong mới có thể viết được. Đi ra bên ngoài mới có thể quan sát được. Bước vào bên trong mới có sinh khí. Đi ra bên ngoài mới đạt cao siêu”.
(Lí luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc- Khâu Chấn Thanh (Mai Xuân Hải dịch), NXB Văn học, 2001, trang 67).
Và trong Nghĩ về thơ, nghĩ về thơ, nghĩ…in trong tập Đối thoại mới (1973), Chế Lan Viên Viết:
“Mỗi câu thơ là một lần lặn vào trang giấy
Lặn vào cuộc đời
Rồi lại ngoi lên”.
Từ hai ý kiến trên, hãy cho biết suy nghĩ của anh/chị về mối quan hệ giữa sự “bước vào’, “bước ra”, “lặn vào”, “ngoi lên” trong sáng tạo văn học và hiện thực đời sống thông qua phân tích một tác phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn lớp 12.
Gợi ý:
Yêu cầu chung: Đề bài này đề cập đến vấn đề cơ bản trong lí luận văn học là mối quan hệ giữa sáng tạo nghệ thuật và hiện thực đời sống thông qua hai nhận định của Vương Quốc Duy và Chế Lan Viên. Vì vậy, trong khi trình bày những vấn đề lí thuyết, học sinh phải bám sát hai nhận định, thực hiện thao tác giải thích và phân tích để bàn luận, đồng thời phân tích một vài tác phẩm thơ lớp 12 để làm sáng tỏ các luận điểm.
Yêu cầu cụ thể
1/ Đặt vấn đề:
– Hai ý kiến đều đề cập đến mối quan hệ giữa sáng tạo nghệ thuật và hiện thực đời sống .
2/ Giải quyết vấn đề:
a/ Giải thích nhận định
– Trong quá trình sáng tạo, nghệ sĩ phải “bước vào”. “lặn vào” để “say”, để trải nghiệm, thẩm thấu, chiếm lĩnh hiện thực, nhưng đồng thời cũng phải biết “bước ra”, “ngoi lên” để tạo một độ lùi, một sự gián cách với đối tượng phản ánh để “tỉnh”, để chiêm nghiệm, khám phá hiện thực dưới nhiều góc độ và mang tính khái quát cao hơn.
– Văn học là một hình thái ý thức xã hội, luôn láy hiện thực đời sống làm đối tượng và chất liệu phản ánh. Hai ý kiến đề cập đến động thái của người nghệ sĩ với hiện thực đời sống trong quá trình sáng tạo. Người nghệ sĩ phải thâm nhập để thấu hiểu hiện thực, đồng thời cũng phải biết vượt lên hiện thực để chiêm nghiện.
b/ Phân tích vấn đề
– Hiện thực là nguồn gốc của nhận thức, của ý thức, là mảnh đất dồi dào, màu mỡ của nghệ thuật. Văn học bao giờ cũng là sự nhận thức và phản ánh hiện thực.
– Nhà văn muốn phản ánh hiện thực một cách sâu sắc thì phải “bước vào”, “lặn vào” hiện thực để thâm nhập vào đối tượng một cách tuyệt đối cả trên bề rộng lẫn chiều sâu. Đời sống bao giờ cũng phức tạp, đa chiều và luôn biến chuyển, nhà văn phải trải nghiệm thì mới có vốn sống, mới hiểu sâu vào đời sống để sáng tác.
– Tuy nhiên, không chỉ đắm mình trong thế giới hiện thực để khai thác chất liệu đời sống, người nghệ sĩ phải biết “bước ra”, “ngoi lên” khỏi môi trường chất liệu ấy, dùng chính lí trí và cảm xúc, cái say và cái tỉnh của mình để quan sát, soi ngắm một cách kỹ lưỡng, thấu suốt để khám phá mọi ngóc ngách, mọi giá trị của hiện thực, đồng thời, khái quát hoá lên tầm triết lí, tầm tư tưởng để đạt ngưỡng “cao siêu”.
– “Bước vào” là để thâm nhập vào nhân quần, “bước ra” là dùng chính bản thể sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ để chiêm nghiệm nhân quần ấy. Vì vậy, nhận định còn cho thấy vai trò của cá nhân người nghệ sĩ đối với hiện thực được tái hiện. Đó là quá trình chuyển hoá cái khách quan thành cái chủ quan, đưa khách thể vào cái nhìn của chủ thể. như vậy, sự phản ánh mới sâu sắc và có giá trị về mặt tư tưởng.
Lưu ý: Trong quá trình phân tích, học sinh phải dùng tác phẩm theo yêu cầu của đề để chứng minh.
c/ Đánh giá vấn đề
– Hai ý kiến đặt ra những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với người cầm bút.
– Hai nhận định này không chỉ miêu tả quá trình, trạng thái sáng tạo mà còn thể hiện phương pháp và ý thức sáng tạo của người nghệ sĩ.
3/ Kết thúc vấn đề
– Khẳng định mối quan hệ giữa văn học và hiện thực -một mối quan hệ tất yếu giữa cái phản ánh và cái được phản ánh - sẽ góp phần làm nên sức sống vững bền của tác phẩm cũng như tên tuổi của người nghệ sĩ.
ĐỀ 32: Có ý kiến cho rằng ngôn ngữ thơ phải giản dị. Ý kiến khác lại nhấn mạnh làm thơ là cần một phần nghìn miligam quặng chữ. Quan điểm của em về vấn đề này?
Gợi ý:
Chọn một trong hai câu:“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi/ Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang.” hay “Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt/ Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay” (Chế Lan Viên) để dẫn dắt theo định hướng đề (mở bài gián tiếp).
1/ Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học (Goorki). Etmông Fabex nói: “Chữ bầu lên nhà thơ”.Ngôn ngữ trong văn học giống như màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Trong sự lao động của nhà văn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả.
2/ Ngôn ngữ thơ giản dị là ngôn ngữ thơ giống như ngôn ngữ hằng ngày của đời sống nhân dân.
*Vì sao ngôn ngữ thơ phải giản dị:
– Thơ tồn tại như sự minh chứng cho sức sống của ngôn ngữ dân tộc. Một đất nước yêu thơ ca chứng tỏ quốc gia ấy có tâm hồn lành mạnh, sâu sắc và tinh tế. Chưa có dân tộc nào chối bỏ hay hạ thấp các nhà thơ chân chính, những người biết tôn vinh và chia sẻ với tổ quốc, đồng bào mình bằng thi ca.
– Cũng không ai đánh giá, ghi nhận, xếp hạng nhà thơ chính xác, công bằng và sòng phẳng như đông đảo quần chúng nhân dân. Họ đọc thơ bằng trái tim và sự chiêm nghiệm, từng trải cuộc sống, bằng những linh cảm bản năng, bằng lòng yêu không gì có thể thay thế được với tiếng nói mẹ đẻ.
– Với các thi sĩ chúng ta, tôi nghĩ, làm thơ, trước hết là để đi vào thẳm sâu hay bay cao trong cõi ngôn ngữ Việt. Sau đó mới là giao lưu, hội nhập với bè bạn bốn phương. Khó đạt tới sự thấu tỏ tuyệt đối về cảm xúc và ý tứ, về những lung linh của con chữ, về tiết tấu nhịp điệu mang dấu ấn văn hóa, lịch sử, phong tục, thói quen bản địa khi đọc thơ không nguyên văn ngôn ngữ nguồn cội của thi sĩ. Thơ không chỉ có nghĩa mà chủ yếu phải là tình, là hồn, những khái niệm ai cũng biết nhưng lý giải một cách thấu triệt và sâu sắc là vô cùng khó. Trong thơ có hơi thở, hồn vía của dân tộc mình, đồng bào mình. Nó chính là cái thấm sâu nhất, lâu nhất và đương nhiên chi phối nhiều hơn cả trong hành trình sáng tạo của người cầm bút.
– Các nhà thơ đích thực ít ai không khởi đầu và đề cao chất truyền thống trong sáng tác thi ca, trong đó có việc sử dụng ngôn ngữ. Nhà văn không biết đến văn học dân gian là nhà văn tồi (M.Goorki)
(dẫn chứng)
3/ Nhưng làm thơ còn là cần một phần nghìn mili gam quặng chữ: ngôn ngữ thơ ca phải tinh luyện, mang dấu ấn sáng tạo riêng của người nghệ sĩ.
- Vì sao ngôn ngữ thơ ca cần sáng tạo, tinh luyện:
+ Vì đặc trưng của ngôn ngữ thơ: hàm súc, cảm xúc, hình tượng (khác với văn xuôi).
+ Vì yêu cầu mỗi nhà thơ thứ thiệt cần có một vân chữ / không trộn lẫn (Lê Đạt).
+ Vì căn cứ vào đối tượng miêu tả, nội dung bài thơ và ý tưởng nghệ thuật của nhà thơ=> lựa chọn ngôn ngữ phù hợp.
(Dẫn chứng- lựa chọn những từ đắt, hay trong một số bài thơ để phân tích. Ý này cần làm rõ hơn ý ngôn ngữ thơ giản dị.)
4/ Đánh giá
- Hai ý kiến bổ sung cho nhau.
– Việc sử dụng lựa chọn ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên quyết định thành công của mỗi tác phẩm.
– Bên cạnh ngôn ngữ hay, độc đáo bài thơ cần có nội dung sâu sắc và ý nghĩa được diễn đạt những qua ngôn ngữ đó.
– Bài học với người sáng tao: lựa chọn và sáng tạo ngôn ngữ phù hợp, sáng tạo trong sự kế thừa và cách tân.
– Bài học cho người tiếp nhận: tìm hiểu thơ bắt đầu từ việc tiếp cận ngôn ngữ văn bản, bám vào đặc trưng của thơ, phong cách nghệ thuật nhà thơ để thấy đóng góp riêng trong sử dụng từ ngữ của người nghệ sĩ ngôn từ.
ĐỀ 33: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay” (Xuân Diệu).
Trình bày suy nghĩ của anh, chị về nhận định trên. Phân tích một vài bài thơ giai đoạn 1945-1975 (lớp 12) để làm sáng tỏ quan điểm của mình về vấn đề này.
Gợi ý:
YÊU CẦU VỀ KĨ NĂNG
Học sinh biết kết hợp các thao tác lập luận để làm bài văn nghị luận tổng hợp về một vấn đề văn học.
Bài viết có bố cục hợp lý, lập luận chặt chẽ, diễn đạt biểu cảm, lựa chọn và phân tích được các dẫn chứng tiêu biểu để làm sáng tỏ nội dung chính mà đề yêu cầu.
Không mắc lỗi về chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
YÊU CẦU VỀ KIẾN THỨC
Học sinh có thể trình bày theo các cách khác nhau. Tuy nhiên cần thể hiện được nội dung cơ bản sau:
- Giải thích
Ý kiến của Xuân Diệu đã nêu lên một cách khái quát những yêu cầu cơ bản của người đọc thơ đối với thơ ca.
– Nguồn gốc của thơ ca: thơ phải xuất phát từ thực tại.
Thơ được sinh ra từ trong hiện thực cuộc đời, cái đẹp trong thơ phải mang dấu ấn của cái đẹp trong sự thật đời sống.
– Nội dung của thơ ca phải thể hiện một tâm hồn, một trí tuệ.
Thơ ca phải thể hiện được tình cảm và tư tưởng của thi nhân để rồi đưa tình cảm, tư tưởng đó đến với mỗi người đọc. Thơ ca chính là tiếng nói của một cái tôi cá nhân với cuộc đời.
– Nghệ thuật sáng tạo thơ ca càng cá thể, càng độc đáo càng hay.
Thơ ca phải mang dấu ấn sáng tạo và thể hiện phong cách nghệ thuật riêng biệt của thi nhân.
Tóm lại, đối với Xuân Diệu, một tác phẩm thơ cần bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, thể hiện những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ, độc đáo cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức nghệ thuật để đem lại giá trị thẩm mỹ.
- Chứng minh và bình luận
– Cuộc sống là điểm xuất phát (là đề tài vô tận, gợi nhiều cảm xúc phong phú … ), là đối tượng khám phá chủ yếu và cũng là cái đích cuối cùng của thơ ca nghệ thuật. Thơ ca nghệ thuật luôn vận động và phát triển trong sự ràng buộc tự nhiên với đời sống xã hội. Những giá trị nghệ thuật chân chính xưa nay đều là những sáng tác bắt rễ sâu xa trong mảnh đất thực tế của thời đại mình. Thơ ca chỉ có ý nghĩa thẩm mỹ, chỉ chinh phục trái tim người đọc khi thể hiện những vấn đề, những cảm xúc mà con người hằng quan tâm, trăn trở. Nếu thơ ca không bắt nguồn từ hiện thực, xa rời cuộc đời, thoát ly thực tại, thơ ca sẽ không thể đến với người đọc, không thể tồn tại trong cuộc đời, khi ấy thơ ca đã tự đánh mất chức năng cao quý nghệ thuật vị nhân sinh của mình.
– Vẻ đẹp của thơ ca trước hết thể hiện ở những tư tưởng, tình cảm mà tác phẩm hàm chứa. Không có chất liệu đời sống thì không làm nên nội dung và giá trị của tác phẩm. Nhưng sự việc đời sống mà không âm vang vào tâm hồn, không lay động sâu xa cảm xúc của người nghệ sĩ thì không thể hóa thân thành cái đẹp của nghệ thuật. Chính vì vậy cần thấy rằng thơ ca là cuộc đời nhưng đó không phải là sự sao chép máy móc mà phải được cảm nhận và thanh lọc qua tâm hồn, trí tuệ của thi nhân để thành thơ. Thơ ca là hình ảnh của đời sống tươi nguyên được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ. Vì vậy nếu thơ không có tư tưởng, tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng, nhạt nhẽo, vô vị, tầm thường, chỉ là trò làm xiếc ngôn từ vụng về chẳng thể đánh lừa được người đọc.
– Vẻ đẹp của thơ ca còn cần được đánh giá ở hình thức thể hiện. Bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Vì vậy, thơ ca cũng đòi hỏi nhà thơ phải in dấu tâm hồn, trí tuệ mình vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay. Nhờ khả năng sáng tạo tuyệt vời mà các thi nhân luôn tìm ra những cách nói mới về những điều đã cũ. Nếu không có sáng tạo, không có phong cách riêng thì tác phẩm và tác giả đó sẽ không thể tồn tại trong văn chương. Những sáng tạo về hình thức biểu hiện rất phong phú qua thể loại, cấu tứ tác phẩm, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ…
(Học sinh biết vận dụng, phân tích một số bài thơ giai đoạn 1945-1975 trong chương trình Ngữ văn 12 để chứng minh và bình luận về ý kiến của Xuân Diệu. )
- Đánh giá, nâng cao
– Ý kiến của Xuân Diệu đã thể hiện tiêu chuẩn để đánh giá một thi phẩm đích thực và giúp ta hiểu rõ hơn về ý nghĩa to lớn của thơ ca đối với cuộc sống con người.
– Đây cũng là một quan điểm sáng tác định hướng cho mọi nhà thơ: thơ phải từ cuộc đời, hướng về cuộc đời, vẻ đẹp của một tác phẩm văn học phải kết hợp hài hòa cả nội dung và hình thức. Từ đó giúp nhà thơ có ý thức và trách nhiệm hơn trong quá trình sáng tạo thơ ca.
ĐỀ 34: Bàn về thơ, nhà thơ Ấn Độ R.Tagore viết:
Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong.
Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên qua một số bài thơ giai đoạn 1945-1975 đã học trong chương trình 12
Gợi ý:
Yêu cầu.
Về kĩ năng.
– Trên cơ sở những kiến thức lí luận về đặc trưng thơ, học sinh biết vận dụng kết hợp các thao tác nghị luận để giải quyết vấn đề theo định hướng của đề bài.
– Bài làm có bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, hành văn mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ.
Về kiến thức.
Học sinh có nhiều cách trình bày nhưng cơ bản cần đảm bảo những yêu cầu sau:
Giải thích:
– Nụ cười và nước mắt: là những trạng thái cảm xúc của tâm hồn, là niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ… Đó là những cung bậc, sắc thái phong phú đa dạng của tâm hồn, là biểu hiện của thế giới “bên trong” con người.
– Phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong: là cảm xúc đã đến độ chín, cao hơn, là sự thống nhất giữa cảm xúc và lí trí, giữa tư tưởng và tình cảm của nhà thơ. Thơ là tình nhưng không phải là những cảm xúc hời hợt mà là lí trí đã chín muồi, nhuần nhuyễn. Bài thơ nào cũng gói ghém bên trong một chiều sâu suy nghĩ, tư tưởng, chứa đựng ít nhiều chân lí của cuộc đời.
=> Câu nói của Tagore đã nêu chính xác bản chất, đặc trưng của thơ là sự bộc lộ tình cảm, cảm xúc mãnh liệt đã được ý thức, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ của nhà thơ.
– Lí giải vì sao thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong:
+ Vì văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, phản ánh cuộc sống trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, không phải đơn giản là mô phỏng, sao chép, miêu tả sự vật bên ngoài, các sự kiện xảy ra mà là sự tái tạo thông qua thế giới chủ quan của người nghệ sĩ.
+ Do đặc trưng của thơ ca: Nói đến thơ là nói đến cảm xúc, nhà thơ tái hiện cuộc sống thông qua những rung động của chủ thể trữ tình, bằng những xúc cảm mãnh liệt. Tình cảm mãnh liệt ở đây không phải là những khóc cười ồn ào bên ngoài mà là sự rung động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Nhà thơ phải sống rất sâu vào tâm hồn mình, lắng nghe các xao động, đau đớn, sướng vui với những xúc động nội tâm. Thiếu tình cảm mãnh liệt và sâu sắc thì sẽ không có thơ. Độ chín của cảm xúc nhà thơ làm nên chiều sâu của sự thể hiện cuộc sống và lay động tâm hồn người đọc.
Chứng minh:
Thí sinh cần lấy được dẫn chứng tiêu biểu (một số bài thơ đã học trong chương trình 12) và phân tích một cách thuyết phục để làm sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề nghị luận.
Đánh giá, bình luận:
– Câu nói của R.Tagore đã nêu chính xác đặc trưng nội dung của thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, là những rung động rất sâu ở bên trong tâm hồn nhà thơ, là tấc lòng, tư tưởng tình cảm mà thi sĩ kí thác, gửi gắm. Đó không phải là sự bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp mà là tình cảm nảy sinh từ những tiếp xúc với cuộc sống, là tình cảm được ý thức, được lắng lọc qua những xúc cảm thẩm mĩ, gắn liền với sự tự ý thức của nhà thơ về mình và cuộc đời.
– Thơ là kết quả của sự thăng hoa cảm xúc, là sự kết tinh vốn văn hoá, thể hiện cái nhìn về cuộc đời và biểu hiện những trạng thái xúc cảm của nhà thơ. Tình cảm trong thơ phải là tình cảm lớn, cao đẹp, cao thượng, mang tư tưởng sâu sắc, thấm nhuần chất nhân văn, mang giá trị Chân- Thiện- Mĩ… thì thơ mới có sức vang động trong lòng người, tạo nên sức sống lâu bền.
– Ý kiến của Tagore mới chỉ nhấn mạnh đến đặc trưng nội dung của thơ là tình cảm đã được ý thức, mang đậm tính cá thể mà chưa đề cập đến đặc trưng hình thức của thơ. Thơ là tình đời, tình người ngân lên trong những âm vang ngôn ngữ, kết cấu, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu… Sự hoàn thiện từ bên trong cần được biểu hiện bằng sự hoàn thiện của hình thức nghệ thuật để có thơ hay
ĐỀ 35: Nhà thơ Trung Quốc đời Tống, Lục Du đã viết: Công phu của thơ là ở ngoài thơ (công phu tại thi ngoại).
Suy nghĩ của anh (chị) về lao động thơ ca từ ý kiến trên.
Nội dung yêu cầu | Điểm |
I. Yêu cầu về kĩ năng - Biết cách làm bài nghị luận văn học; bố cục và cách trình bày hợp lí. - Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt; dẫn chứng phù hợp. - Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. |
|
II. Yêu cầu về nội dung (Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách nhưng cần hướng tới nội dung cơ bản sau): |
|
1. Giải thích - Ở ngoài thơ: vai trò vốn sống khả năng hiểu biết cuộc đời, sự từng trải là nhân sinh của người cầm bút Lục Du muốn khẳng định sức mạnh của thơ nằm ở đời sống chứ không phải ở ngôn từ. | 1,0 |
2. Khẳng định vấn đề |
|
- Nói đến thơ là nói đến cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ, cảm hứng ấy chỉ xuất hiện trong việc tiếp xúc với hiện thực đời sống, cho nên cảm hứng thơ ca không tự nhiên mà có, nó đến trong sự va đập của nhà thơ với cuộc đời. {Nguyễn Du để có cảm hứng đau đớn lòng phải bắt đầu từ "những "điều trông thấy"…}. | 1,5 |
- Nói đến thơ là nói đến cái Đẹp, đó là cái Đẹp bất ngờ, đa dạng, tiềm ẩn trong hiện thực đời sống và chỉ khi đi vào hiện thực người cầm bút mới có cơ duyên bắt gặp được những cái Đẹp ấy. {Những hình ảnh thi vị trong thơ không phải lúc nào cũng là sự hư cấu mà nó bắt nguồn từ hiện thực cuộc đời: đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu…}. | 1,0 |
- Chính hiện thực là chất liệu nhào nặn lên bản lĩnh của nhà thơ. Cuộc sống với sự tương tác của nó đem lại cho anh ta cái nhìn riêng, và đó là yếu tố quyết định tài năng của người nghệ sĩ. { Chính cuộc đời đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du (sống trong thời đại nhiều biến cố, đã đưa đến cảm thức về thân phận bé bỏng của con người)…}. | 1,0 |
3. Mở rộng, nâng cao |
|
- Nếu chỉ có thi ngoại (chỉ có hiểu biết cuộc sống) thơ sẽ không còn thuyết phục (làm người quý thẳng, làm thơ quý cong). Vì thế bên cạnh sự hiểu biết cuộc sống, thơ còn phải là thế giới nghệ thuật của ngôn từ (cách tổ chức lời thơ, nhịp thơ…). | 1,0 |
- Tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là sự kết hợp hài hòa của hai yếu tố "thi ngoại" và "chuốt lời" mới tạo nên sự xuất thần. | 0,75 |
- Chính sự cao quý của thơ nên người nghệ sĩ phải sống, phải không ngừng trải nghiệm, phải vật lộn với ngôn từ mới có thể đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.
| 0,75 |
SỞ GD&ĐT QUẢNG BÌNH KỲ THI CHỌN HSG TỈNH NĂM HỌC 2015-2016
ĐỀ 36: “Thơ là mở ra được một cái gì mà trước câu thơ đó, trước nhà thơ đó, vẫn như là bị phong kín” (Nguyễn Tuân - Thời và thơ Tú Xương - Văn học 12, tập một, sách chỉnh lí hợp nhất năm 2000, tr. 186).
Hãy giải thích ý kiến trên và làm sáng tỏ bằng một thi phẩm trong chương trình.
Nội dung yêu cầu | Điểm |
I. Yêu cầu về kĩ năng - Biết cách làm bài nghị luận văn học; bố cục và cách trình bày hợp lí. - Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt; dẫn chứng phù hợp. - Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. |
|
II. Yêu cầu về nội dung (Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách) |
|
1. Giải thích ý kiến: - Hiểu được quan niệm về thơ của Nguyễn Tuân: thơ ca phải có sức gợi mở vô cùng, chứa đựng những điều mới mẻ độc đáo. - Lí giải được vì sao: + Vì thơ là tiếng nói về thế giới tâm hồn đầy riêng tư, bí mật của con người. Cảm xúc trong thơ là cảm xúc riêng, nỗi niềm riêng, mà nếu nhà thơ không giãi bày thì mãi mãi là một vương quốc bí mật. + Vì cuộc sống được thể hiện trong thơ là cuộc sống được phản chiếu qua thế giới cảm xúc của nhà thơ, in đậm một cách nhìn, một cách cảm mới mẻ, độc đáo. + Cảm xúc trong thơ bao giờ cũng tìm đến với một cách thể hiện tương ứng đầy sáng tạo, không lặp lại. | 4,0 1,5
1,0
1,0
0,5
|
2. Làm sáng tỏ quan niệm của Nguyễn Tuân bằng một thi phẩm cụ thể: - Chọn được tác phẩm phù hợp. - Biết cách phân tích, lí giải để làm sáng tỏ vấn đề. | 6,0 |
3. Mở rộng nâng cao: - Tiếng nói trong thơ dù riêng tư nhưng phải được nâng lên ở tầm phổ quát. - Sự độc đáo, mới mẻ không chỉ là yêu cầu của thơ ca mà còn là yêu cầu của sáng tạo nghệ thuật nói chung. | 2,0 1,0
1,0
|
SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO KÌ THI CHỌN ĐỘI TUYỂN DỰ THI HSG QUỐC GIA
QUẢNG BÌNH LỚP 12 THPT, NĂM HỌC 2016 – 2017
ĐỀ TỔNG HỢP
ĐỀ 37: Nhà văn I.X. Tuocghenhev nói: Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác.
(Dẫn theo Khravchenko, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, NXB Tác phẩm mới, 1978)
Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên.
Nội dung yêu cầu | Điểm |
I. Yêu cầu về kĩ năng - Biết cách làm bài nghị luận văn học; bố cục và cách trình bày hợp lí. - Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt; dẫn chứng phù hợp. - Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. |
|
II. Yêu cầu về nội dung (Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách nhưng cần hướng tới nội dung cơ bản sau): |
|
1. Giải thích
|
|
- tiếng nói của mình: dấu ấn riêng trong cách nhìn, cách cảm thụ, cách thể hiện mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn. | 0,5 |
- giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác: nét độc đáo không trộn lẫn hòa tan trong sáng tạo văn học. | 0,5 |
Ý kiến nhằm khẳng định: Khi đánh giá một tài năng văn học thì phong cách là tiêu chí quan trọng, mang tính quyết định.
| 0,5 |
2. Bàn luận Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề |
|
- Đặc trưng của văn học là sáng tạo và phát hiện những điều mới mẻ, văn học không minh họa cho những tư tưởng có sẵn, vì thế cái quan trọng là nhà văn phải tạo lập được cho mình một cá tính sáng tạo riêng biệt. - Cá tính sáng tạo biểu hiện ở cách nhìn mang tính phát hiện, cách cảm thụ có tính khám phá, đưa đến cho người đọc một cái nhìn mới về cuộc đời thông qua những hình thức nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người nghệ sĩ {HS lấy dẫn chứng chứng minh}. - Chính cá tính sáng tạo đem đến sức sống lâu bền cho tác phẩm và chỗ đứng vững chắc cho tác giả trong mọi thời đại { HS lấy dẫn chứng, chứng minh}. | 1,0
1,0
1,0 |
3. Mở rộng, nâng cao |
|
- Tiếng nói riêng không có nghĩa tạo sự dị lập, khác biệt mà phải phù hợp văn hóa, quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương nghệ thuật, phải hướng đến phẩm chất thẩm mĩ, đem đến cho người đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào. - Nhà văn phải không ngừng trau dồi năng lực văn chương, nỗ lực tìm tòi sáng tạo, mở mang vốn sống, có kiến thức uyên bác về nhiều lĩnh vực mới có thể tạo nên tiếng nói riêng của chính mình. | 0,75
0,75 |
|
|
SỞ GD&ĐT QUẢNG BÌNH KỲ THI CHỌN HSG TỈNH NĂM HỌC 2015-2016
ĐỀ 38: “Nghệ thuật là lời nói dối giúp chúng ta nhận ra chân lí” (Picasso).
Bằng những hiểu biết về văn học, anh/ chị hãy bình luận ý kiến trên.
Nội dung yêu cầu | Điểm |
I. Yêu cầu về kĩ năng - Biết cách làm bài nghị luận văn học; bố cục và cách trình bày hợp lí. - Hệ thống ý (luận điểm) rõ ràng và được triển khai tốt; dẫn chứng phù hợp. - Diễn đạt suôn sẻ; mắc ít lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp. |
|
II. Yêu cầu về nội dung (Học sinh có thể sắp xếp, trình bày theo nhiều cách) |
|
1. Hiểu và giải thích được nội dung câu nói: - Lời nói dối được hiểu là sự hư cấu tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật [ Nhà văn có thể bớt đi hay thêm vào, nhấn mạnh hay làm lu mờ đi, hoặc hoàn toàn sáng tạo ra một chi tiết, một tình huống, một nhân vật nào đó phục vụ cho ý tưởng sáng tạo của mình]. - Chân lí là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của hiện thực một cách đúng đắn, chính xác, thể hiện được bản chất của đời sống. - Nội dung câu nói: câu nói đề cập đến đặc trưng cơ bản nhất của sáng tạo nghệ thuật: người nghệ sĩ phải bằng tưởng tượng hư cấu để phản ánh hiện thực đời sống. | 3,0 1,0
1,0
1,0
|
2. Vận dụng kiến thức lí luận văn học và tác phẩm văn học để khẳng định và đánh giá vấn đề: - Văn học bao giờ cũng phản ánh hiện thực. Chức năng của văn học là giúp người đọc nhận ra chân lí đời sống. - Tuy nhiên, văn học phản ánh đời sống bằng hình tượng. Hình tượng chính là sự nhào nặn đời sống một cách sáng tạo, thông qua trí tưởng tượng phong phú và thế giới cảm xúc của nhà văn. Vì vậy, hư cấu tưởng tượng là yêu cầu tất yếu của quá trình sáng tác. - Nói đến hư cấu tưởng tượng trong tác phẩm văn học là thừa nhận tính không đồng nhất giữa sự thật đã từng tồn tại trong đời sống thực và các chi tiết, sự kiện đó được phản ánh vào trong tác phẩm văn học nghệ thuật. - Hư cấu tưởng tượng giúp nhà văn phản ánh hiện thực một cách sống động, vừa cụ thể vừa khái quát và có khả năng tác động đến người đọc một cách sâu sắc, ám ảnh, mãnh liệt hơn chính cả hiện thực đời sống. | 6,0
1,5
1,5
1,5
1,5
|
3. Mở rộng nâng cao vấn đề: - Nếu các chi tiết trong tác phẩm văn học được phản ánh trung thực gần như sao chép sự thật đã và đang xảy ra trong đời sống thực thì cùng lắm đấy chỉ là một cuốn biên niên sử, chứ không thể là một tác phẩm văn học nghệ thuật. - Hư cấu tưởng tượng nếu bị lạm dụng quá đà, rời xa hiện thực sẽ dễ đi vào con đường hoặc tô hồng hiện thực, hoặc bóp méo hiện thực, hoặc xuyên tạc hiện thực. Khi đó, tác phẩm văn học sẽ không thể chứa đựng chân lí đời sống. - Hư cấu tưởng tượng là tư chất cần thiết của người nghệ sĩ. - Nhà văn phải có vốn sống phong phú, dồi dào, sâu sắc thì sự hư cấu tưởng tượng của nhà văn trong tác phẩm mới có khả năng chứa đựng chân lí đời sống. | 3,0 1,0
1,0
0,5 0,5
|
SỞ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO KÌ THI CHỌN ĐỘI TUYỂN DỰ THI HSG QUỐC GIA
QUẢNG BÌNH LỚP 12 THPT, NĂM HỌC 2016 - 2017
ĐỀ 39: Nghĩ về thơ, thi sĩ Hoàng Cầm từng khẳng định:
“Âm điệu là cỗ xe chuyên chở điệu hồn thi phẩm.”
Hãy lắng nghe âm điệu ấy trong một số bài thơ mà anh/chị tâm đắc.
|
| Lắng nghe âm điệu trong một số bài thơ từ chia sẻ của thi sĩ Hoàng Cầm: “Âm điệu là cỗ xe chuyên chở điệu hồn thi phẩm” | 12.0 |
|
| Yêu cầu chung |
|
| - Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài. - Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng. |
| |
| Yêu cầu cụ thể |
| |
a. | Giải thích ý kiến | 3.0 | |
| * Cắt nghĩa ý kiến: - Âm điệu: là sự hòa điệu giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ, là dạng thức hết sức vi diệu của điệu hồn trong thơ. Cảm xúc được gợi ra từ nghệ thuật tổ chức các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, thanh điệu, vần điệu, giọng điệu… - Điệu hồn: chiều sâu xúc cảm, tinh thần của bài thơ. => Bằng cách nói khẳng định “chuyên chở”, Hoàng Cầm đã nhấn mạnh vai trò của của âm điệu trong thơ. Đây là phương tiện đắc lực trong việc thể hiện cảm xúc và linh hồn của bài thơ, cảm xúc hóa thân trong âm điệu thơ. | 1.5 | |
| * Lí giải ý kiến: - Đặc trưng của thơ là trữ tình, nghiêng về biểu hiện thế giới chủ quan của con người với trạng thái tình cảm, rung động (thơ là tiếng lòng, là rung cảm mãnh liệt của nhà thơ trước cuộc sống) - Nội dung cảm xúc trong thơ được thể hiện qua cách tổ chức ngôn từ đặc biệt, hàm súc, giàu nhạc tính, cụ thể các yếu tố: thể thơ, nhịp điệu, vần điệu, thanh điệu, giọng điệu… Đọc thơ, cảm được âm điệu coi như đã nhập được vào hồn thơ, chạm vào được “cõi thơ” thực sự. Trong thực tế, có rất nhiều bài thơ mà sức hấp dẫn, sức sống của nó trong lòng người đọc bắt đầu từ âm điệu. | 1.5 | |
b. | Lắng nghe âm điệu trong một số bài thơ tâm đắc | 7.0 | |
| Thí sinh được tự do lựa chọn một vài thi phẩm mình tâm đắc để cảm nhận. Tuy nhiên cần tập trung vào những vấn đề chính sau: - Các dấu hiệu nghệ thuật thuộc âm điệu bài thơ: từ thể thơ đến thanh điệu, nhịp điệu, vần điệu, giọng điệu, khoảng lặng ngôn từ… Mỗi thi phẩm có một âm điệu riêng với cách tổ chức các yếu tố nghệ thuật đó một cách đặc biệt. - Cảm nhận rõ ý nghĩa của âm điệu trong việc bộc lộ cảm xúc, chiều sâu tư tưởng của thi phẩm: + Tạo nên sự hấp dẫn cho bài thơ về mặt nghệ thuật, đặc biệt là âm vang của lời thơ. + Dẫn dắt, hòa điệu tâm hồn người đọc vào thế giới cảm xúc lắng sâu cùng điệu hồn thi phẩm. |
3.0
4.0 | |
c. | Bình luận ý kiến | 2.0 | |
| - Ý kiến của thi sĩ Hoàng Cầm giúp ta nhận thức sâu sắc vai trò của âm điệu trong thơ. Chỉ khi bài thơ là kết quả của sự rung động mãnh liệt và sự sáng tạo độc đáo trong cách tổ chức ngôn từ thì âm điệu thơ mới trở nên ngân vang. Như thế, âm điệu đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ quan trọng của bài thơ. - Ý kiến ấy không chỉ có ý nghĩa với người sáng tác mà còn là sự định hướng, gợi mở cho người tiếp nhận, đọc thơ, cần “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, cần nắm bắt âm điệu thơ để đến được điệu hồn thi phẩm. - Từ phương diện âm điệu, có thể thấy được thực tài, thực tâm của người nghệ sĩ, đó cũng là một yêu cầu để thi phẩm có sức sống lâu bền trong lòng người đọc. | 0.75
0.75
0.5 | |
Lưu ý chung 1. Đây là đáp án mở, thang điểm không quy định chi tiết đối với từng ý nhỏ, chỉ nêu mức điểm của phần nội dung lớn nhất thiết phải có. 2. Chỉ cho điểm tối đa theo thang điểm với những bài viết đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đã nêu mỗi câu, đồng thời phải được triển khai chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, có cảm xúc. 3. Khuyến khích những bài viết có sáng tạo. Chấp nhận bài viết không giống đáp án, có những ý ngoài đáp án nhưng phải có căn cứ xác đáng và lí lẽ thuyết phục. 4. Không cho điểm cao đối với những bài chỉ nêu chung chung, sáo rỗng. 5. Cần trừ điểm đối với những lỗi về hành văn, ngữ pháp và chính tả. |
...................................................HẾT...................................
ĐỀ 40: Bàn về văn học, Thanh Thảo cho rằng:
“Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người.”
(Theo Nhà văn nói về môn Văn - Văn học và tuổi trẻ - NXB GD, 2015)
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào, bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại, hãy làm sáng tỏ.
2 |
| Tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại để làm sáng tỏ nội dung ý kiến của Thanh Thảo | 12.0 |
|
| Yêu cầu chung |
|
| - Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài. - Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng. |
| |
| Yêu cầu cụ thể |
| |
a. | Giải thích ý kiến | 3.0 | |
| * Cắt nghĩa ý kiến: - Văn chương: là loại hình nghệ thuật bao gồm các sáng tác dùng ngôn từ nghệ thuật để phản ánh cuộc sống con người. - Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc: văn chương thầm lặng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mà một cuộc đời khó lòng thấu trải hết. Nó giúp người đọc thỏa mãn nhu cầu nếm trải sự sống muon hình vạn trạng. Đến với văn học, ta không chỉ khám phá, nhận thức hiện thực mà còn cảm nhận, hiểu biết tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của nhân loại và chính mình. - Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn, nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: + nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: (+) vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người: sự phát hiện của nhà văn về những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong thế giới tâm hồn con người, có tác động tích cực đối với con người, cuộc đời. Người đọc sẽ nhận ra ý nghĩa của văn chương với tâm hồn mình từ chính điều này. (+) Nếu người đọc chủ động tìm kiếm cái đẹp ẩn kín, tiềm tàng cũng như nhận ra sự thể hiện những vẻ đẹp sâu thẳm trong hình tượng nghệ thuật ở tác phẩm thì sẽ nhận ra được những thông điệp thẩm mĩ sâu xa. + Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn: tác phẩm văn học đem lại cho con người niềm vui trong sáng, thánh thiện, làm nảy nở trong tâm hồn ta những xúc cảm cao đẹp, hướng ta đến những phẩm chất tốt đẹp mang tính nhân văn. | 1.5 | |
| * Lí giải ý kiến: - Văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách tổng hợp, toàn vẹn trong mọi quan hệ đa dạng, phức tạp, tập trung khám phá chiều sâu khôn cùng của tâm hồn con người. - Văn học có sứ mệnh cao cả bởi tác động sâu sắc tới đời sống tinh thần con người: văn học làm giàu thêm nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về chính bản thân mình; văn học bồi đắp, nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người -> khiến con người trở nên hoàn thiện, người hơn, sống tốt hơn. - Văn học luôn đồng hành với nhân loại, có vị trí không thể thay thế được trong đời sống của con người. | 1.5 | |
b. | Làm sáng tỏ ý kiến bằng việc tìm hiểu một số truyện ngắn hiện đại trước 1945 | 7.0 | |
| Thí sinh được tự do lựa chọn một vài truyện ngắn hiện đại mà mình yêu thích để thấu hiểu vấn đề. Tuy nhiên, đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung vào hai phương diện: - Chỉ ra các thông điệp nghệ thuật, những trải nghiệm về cuộc sống, số phận, nhân cách hay chiều sâu tâm hồn con người trong tác phẩm. Từ tác phẩm, khám phá những điều mới mẻ trong cái bình thường, phát hiện chân lí sâu xa trong những điều giản dị. - Từ việc phát hiện cái Đẹp sâu xa của nội dung tác phẩm ở những vệt sáng, nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của nhân vật, hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm mà nhận ra giá trị nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người của tác phẩm. Đó cũng chính là sứ mệnh cao cả muôn đời của văn chương nghệ thuật. |
3.0
4.0 | |
c. | Bình luận ý kiến | 2.0 | |
| - Ý kiến là lời tâm sự, chia sẻ của một người cầm bút luôn yêu quý và trân trọng văn chương, chỉ ra sứ mệnh cao cả của văn chương với con người. - Ý kiến là định hướng để người đọc tìm hiểu, tiếp cận tác phẩm trong chiều sâu tư tưởng của nó. - Bồi dưỡng tình yêu, niềm say mê văn học nói riêng, tình nhân ái, tư tưởng sống đẹp cho bạn đọc nói chung. | 0.75
0.75
0.5 |
...................................................HẾT..................................................
ĐỀ 41: Nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki cho rằng:
Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Từ cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh; đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm văn học, kĩ năng tạo lập văn bản, khả năng cảm nhận văn chương của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể cảm nhận và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải có lí lẽ, căn cứ xác đáng.
Yêu cầu cụ thể
a. Giải thích ý kiến 3,0đ
* Cắt nghĩa ý kiến:
– Chất thơ: là chất trữ tình thể hiện ở việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu và sức biểu cảm.
– Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển: là một cuộc sống chân thực đến trần trụi, thô ráp.
– Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả: là hiện thực phản ánh không mang tính định hướng, không có khả năng tác động đến tư tưởng, tâm hồn người đọc.
- Bằng cách nói phủ định, ý kiến đã khẳng định ý nghĩa của chất thơ trong văn xuôi: chất thơ chính là đôi cánh nâng đỡ để cuộc sống được phản ánh vừa trở nên thi vị, trong sáng, giàu tính thẩm mĩ vừa thúc gọi, dẫn dắt, bồi đắp những tư tưởng, tình cảm nhân văn cho tâm hồn bạn đọc. 1,5đ
* Lí giải ý kiến:
– Phương thức biểu đạt chủ yếu của văn xuôi là tự sự, nhà văn thường chú ý đến xây dựng cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết, tình huống. Trong khi đó phương thức biểu đạt chủ yếu của thơ là biểu cảm, nhà thơ tập trung bộc lộ tiếng nói tâm hồn mình bằng vần điệu. Vậy nên, khi văn xuôi chứa đựng chất thơ sẽ tạo nên phong vị ngọt ngào, dễ lan thấm vào tâm hồn người đọc.
– Trong thực tế sáng tác, các nhà văn thường có xu hướng phối hợp, đan xen nhiều thể loại. Đưa chất thơ vượt biên giới thể loại sang văn xuôi chính là sự vận dụng kết hợp linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức biểu đạt của nhà văn. 1,5đ
b. Cảm nhận về một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích (7,0đ)
Thí sinh được tự do lựa chọn một vài tác phẩm văn xuôi yêu thích để cảm nhận. Tuy nhiên đây không phải là cảm nhận toàn bộ tác phẩm mà cần tập trung hướng sự cảm nhận vào hai phương diện:
– Chỉ ra được biểu hiện của chất thơ trong tác phẩm trên cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
– Phân tích được ý nghĩa của chất thơ trong việc phản ánh hiện thực ở tác phẩm văn xuôi trên hai khía cạnh:
+ Thứ nhất, làm cho cuộc sống trong trang văn trở nên thi vị, trong sáng, vút cao.
+ Thứ hai, khiến hiện thực đó có thể định hướng, dẫn dắt tâm hồn người đọc
c. Bình luận ý kiến (2,0đ)
– Khẳng định câu nói của nhà văn Nga K.Pau-tôp-xki là sự đề cao, đánh giá ý nghĩa của chất thơ trong văn xuôi. Đồng thời cũng là sự chia sẻ kinh nghiệm quý giá của một nhà văn đã không ngừng lao động sáng tạo viết nên những áng văn xuôi đẹp, thấm đẫm chất thơ.
– Đây cũng chính là sự gợi nhắc, cổ vũ cho người cầm bút vận dụng kết hợp nhiều phương thức biểu đạt để mong có được những tác phẩm văn chương giá trị.
– Đưa chất thơ vào trong văn xuôi không có nghĩa là nhà văn thoát li hiện thực cuộc sống, tô hồng và thi vị hóa cuộc sống.
ĐỀ 42: Bàn về nghề văn, có người đã mượn một câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” . Nhưng có người lại cho rằng : “Văn chương trước hết phải là văn chương” . Anh /chị hãy bình luận ý kiến trên
I. Mở bài
- Bản chất của nghệ thuật là sáng tác ,người nghệ sĩ phải có tâm huyết và tài năng
- Giới thiệu hai ý kiến trong đề bài .
II. Thân bài
1. Giải thích
- “Tâm” là tâm hồn , tình cảm , tấm lòng của người nghệ sĩ đối với con người và cuộc đời .
– Vì sao phải có cái tâm ? cái tâm là yếu tố trước hết của nghệ thuật , là điều không thể thiếu trong tác phẩm của người nghệ sĩ . Không có một tấm lòng trước cuộc đời người nghệ sĩ sẽ không có những rung cảm chân thật , mãnh liệt . Người đọc trân trọng trí tuệ nhưng trước những trái tim cao cả thì lại càng trân trọng , yêu quý hơn. Có người đã nói : “Trước một trí tuệ vĩ đại tôi cúi đầu , trước một trái tim vĩ đại tôi quỳ gối”.
- “Tài” là tài năng của người nghệ sĩ . Cái tài của người nghệ sĩ một phần do thiên phú, một phần do quá trình rèn luyện , trau dồi mà có .
- Trong văn chương , chữ tâm chiếm một vai trò rất lớn nhưng không thể phủ định , quên đi tài năng của người nghệ sĩ . Không có tài năng , không thể gọi đó là văn chương . Phải có cả hai yếu tố “tâm” và “tài” thì nhà văn mới tạo nên một tác phẩm thật sự có giá trị .
Ý kiến “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là đề cao chữ tâm nhưng vẫn khẳng định vị trí tài năng , khẳng định cái thiên phú của người cầm bút . Có thể nói ý kiến này đã bao quát cả quá trình sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật , đặt ra yêu cầu lớn với người nghệ sĩ , phải kết hợp giữa cái tài năng với cái tâm huyết của mình .
- Nhưng khi đề cao cái tâm lại cần chú ý đến quan niệm cho rằng : “Văn chương trước là văn chương” . Quan niệm này có đối lập với quan niệm “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” của Nguyễn Du hay không ? Một bên đề cao cái tâm , cái lòng của người nghệ sĩ ; một bên lại đặt ra “Văn chương trước hết là văn chương” . Nếu chú ý đến hai chữ “trước hết” thì ý kiến này muốn chỉ muốn khẳng định tác phẩm văn học trước hết phải có chất nghệ thuật . Một tác phẩm nghệ thuật mà không có chất văn chương thì không còn là tác phẩm văn học nữa rồi mà nó sẽ là một thứ thuyết giáo , một sự thật lịch sử , là một bản sao chép cuộc đời…
- Như vậy , ý kiến “Văn chương trước hết là văn chương” không phải là sai nhưng chưa đầy đủ . Văn chương phải đặt song hành tài năng và tâm huyết của người sáng tạo nghệ thuật . Nếu tác phẩm chỉ có “văn chương” mà không có tấm lòng thì chỉ như một bông hoa đẹp mà vô hương .Phải có cái tâm trong sáng cao đẹp thì tài năng mới tỏa sáng . Đọc một câu văn , ta ngạc nhiên khâm phục trước sự sử dụng câu chữ tài tình của tác giả ; đọc một cuốn truyện ta cảm thấy thích thú trước sự sắp đặt những tình tiết bất ngờ của nhà văn …Và đằng sau những hấp dẫn về văn chương ấy ta nhận ra được tấm lòng thiết tha của tác giả thì câu chuyện ấy sẽ đọng lại trong tâm trí ta sâu sắc biết bao !. Như vậy “Văn chương trước hết là văn chương” nên hiểu theo một cách thật đầy đủ là bao hàm cả tài năng và tâm huyết của người cầm bút . Thiếu một trong hai yếu tố ấy thì “văn chương” đâu còn là văn chương nữa .
2. Bình luận và chứng minh
- Không thể coi “Văn chương trước hết là văn chương” mà cái “trước hết” ấy phải là tấm lòng , tư tưởng của người nghệ sĩ . Nguyễn Tuân cũng từng quan niệm : “Văn chương trước hết là văn chương , nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật”, nhưng cũng chính ông , hơn ai hết đã suốt đời cống hiến cho một nền nghệ thuật vì con người. Mỗi tác phẩm của ông của ông đều hướng con người tới “thiên lương”.
- Tài năng và tâm huyết , là hai yếu tố không thể tách rời trong sáng tạo nghệ thuật . Cái tài nhờ cái tâm để “cháy lên” . Cái tâm nhờ cái tài mà “tỏa sáng”.Đưa hết tâm linh vào sáng tác , suy nghĩ , dằn vặt , trăn trở cho những vấn đề cuộc sống , người nghệ sĩ sẽ có được những giây phút “xuất thần” , tài năng sẽ bừng sáng . Lec-môn-tốp nói : ‘Có những đêm không ngủ , mắt rực cháy và thổn thức , lòng tràn ngập nhớ nhung …khi đó tôi viết”. Nhà thơ Tố Hữu : “Mỗi khi có cái gì chất chứa trong lòng , không nói ra , không chịu được thì lại thấy cần làm thơ”
- Nhà văn phải là người “đi tìm cái hạt ngọc ẩn dấu sâu trong tâm hồn con người”(Nguyễn Minh Châu). Quá trình “đi tìm” ấy không đơn giản , người nghệ sĩ ngoài cái tâm ra , phải có tài năng nắm bắt , khám phá , phải nhận ra viên ngọc quý lấp lánh bên trong . Cái tài đi liền với cái tâm. Anh không thể trở thành nhà văn nếu anh không có tài năng , nhưng để trở thành một nhà văn vĩ đại thì không chỉ cần có tài năng mà nhất thiết phải có một cái tâm cao quý . Viên Mai nói : “Tài gia tình chi phát, tài thịnh tình tắc thâm” (tài là ở tình phát ra , tài cao ắt tình sâu)
- Chứng minh
+ Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng tài năng xuất sắc nhưng cũng chính là bằng “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
- Tài năng qua miêu tả tâm trạng , cảnh vật , ngôn ngữ …
- Tấm lòng thể hiện ở chỗ lên án , tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người , đau nỗi đau của người phụ nữ …
+Nam Cao là nhà văn có cái tài và cái tâm hết sức nhuần nhuyễn . Mỗi từ , mỗi chữ, mỗi chi tiết , mỗi cốt truyện… của ông , chỗ nào cũng thấm nhuần tình cảm , tấm lòng của nhà văn .
- Chính tài năng và tâm huyết ấy đã giúp Nam Cao dựng lên một Đời thừa , một Trăng sáng , một Sống mòn với những cuộc sống “áo cơm ghì sát đất” để người đọc cùng đau đớn nỗi đau của nhân vật , dằn vặt , trăn trở trước mỗi số phận , mỗi cuộc đời …(phân tích sự dằn vặt của Hộ )àĐó chính là cái tâm luôn giữ vững niềm tin vào con người của Nam Cao đã khiến nhà văn hiểu sâu xa cuộc vật lộn giữa cái thiện và cái ác, giữa lí trí cao cả và dục vọng thấp hèn của mỗi con người , nhận ra khát vọng hướng về ánh sáng của con người.
- Trong truyện ngắn Chí Phèo khi dựng lên hình ảnh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, Nam Cao vẫn phát hiện ra ánh sáng lương tri còn le lói trong con người Chí , để có lúc nó bùng cháy lên dữ dội , mãnh liệt “Ai cho tao lương thiện?’, “Làm thế nào …trên mặt này?”…Câu hỏi đau đớn ,nhức nhối ấy của Chí , phải chăng cũng chính là câu hỏi xoáy vào lòng NC về số phận của những con người .
+Nam Cao được xếp vào hàng những nhà văn lớn của chúng ta vì những tác phẩm của ông đả sinh ra từ tài năng , nước mắt , từ khát vọng hạnh phúc của con người và sự thấu hiểu con người : “Chao ôi ! Đối với những người xung quanh ta nếu ta không cố tâm mà tìm hiểu họ , ta chỉ thấy họ gàn dở , ngu ngốc , xấu xa , bần tiện…toàn những cớ để ta ta tàn nhẫn , không bao giờ ta thấy họ đáng thương, không bao giờ ta thương”
+Nguyễn Minh Châu là nhà văn luôn “đi tìm cái hạt ngọc ẩn dấu sâu trong tâm hồn con người”(chứng minh qua tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng , Chiếc thuyền ngoài xa)
III. Kết luận
- Mỗi nghệ sĩ có một cá tính sáng tạo riêng, nhưng điều không thể thiếu của một nghệ sĩ đó là cái tài và cái tâm. Cái tài và tâm là vấn đề đặt ra với người nghệ sĩ muôn đời, dù xưa hay nay, phương Đông hay phương Tây ……
- Người nghệ sĩ muốn tác phẩm của mình bất hủ với thời gian thì phải mở lòng ra với cuộc đời, vì cuộc đời.
---------- HẾT ----------
Bài viết gợi ý:
1. Dàn bài chi tiết hình tượng người lái đò Sông Đà
2. Tác giả Nguyễn Tuân và hình tượng con sông Đà ( phân tích chi tiết)
3. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ “Tây Tiến”
4. Người lái đò sông đà
5. Nỗi nhớ Tây Bắc của nhà thơ Quang Dũng qua bài thơ Tây Tiến.
6. Hình tượng người lính trong khổ thơ thứ ba của bài "Tây Tiến"
7. So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến
Từ khóa » Cuối Cùng Truyện Ngắn Cũng Như Tiểu Thuyết
-
DE ON HS Giỏi Ngữ Văn 11 - Tài Liệu Text - 123doc
-
Đề Thi HSG Văn 11 Về Truyện Ngắn Đời Thừa Của Nam Cao
-
Trong Bài Viết Đôi điều Về Truyện Ngắn, Nhà Văn Nguyễn Minh Châu ...
-
Em Hiểu ý Kiến Trên Như Thế Nào? Qua Văn Bản Lão Hạc Của Nam ...
-
Cuối Cùng Truyện Ngắn Cũng Như Tiểu Thuyết, đ... - Hoc24
-
Chuyên Văn - ĐÔI ĐIỀU VỀ TRUYỆN NGẮN (Nguyễn Minh Châu)...
-
Hãy Làm Rõ ý Kiến: Trong Tác Phẩm Tự Sự Như Tiểu Thuyết, Truyện Ngắn ...
-
Trong Bài Viết Đôi điều Về Truyện Ngắn, Nhà Văn ... - Ask & Learn 24/7
-
Đề Thi HSG Trại Hè Hùng Vương Ngữ Văn 11 Năm 2019 Chuyên ...
-
Thuyết Minh Về Truyện Ngắn (7 Mẫu) - Văn 8
-
Đề Thi Chọn đội Tuyển Học Sinh Giỏi Lớp 8 Môn Ngữ Văn Phòng ...
-
Phân Tích Truyện Ngắn đời Thừa 2023
-
Thuyết Minh Về Truyện Ngắn - SOANBAICHOCON
-
[PDF] Phần Thứ Hai. CHƯƠNG TRÌNH CÁC MÔN HỌC MÔN NGỮ VĂN I ...