Buổi Thảo Luận 2 Dân Sự 1 - 123doc

A. Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức. Câu 1: Những điểm mới của BLDS năm 2015 (so với BLDS năm 2005) về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và suy nghĩ của anhchị về những điểm mới này. Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. 2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.” Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Trước tiên, trong BLDS 2005 qui định để có hiệu lực pháp luật, giao dịch dân sự phải đáp ứng được một số điều kiện trong đó có điều kiện về năng lực xác lập giao dịch điều này được qui định rõ tại điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS là “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”. Còn đối với BLDS 2015 thì điều này có sự khác biệt tại điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 qui định “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Việc bổ sung như vậy khiến cho BLDS 2015 chặt chẽ hơn. Thứ hai, điểm mới của BLDS 2015 là qui định thêm điều kiện về năng lực pháp luật như sau: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Quy định này rất tiến bộ nhưng vẫn kèm theo những khó khăn trong việc áp dụng BLDS. Bởi vì, nó đưa ra như vậy và nếu như điều kiện này không đáp ứng thì giao dịch vô hiệu. Chúng ta vẫn không biết ai được yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu và yêu cầu này có hiệu lực là bao lâu. Tóm lại, sự thay đổi những trong BLDS năm 2015 về điều kiện có hiệu lực trong giao dịch dân sự là một bước tiến bộ và góp phần hoàn thiện các khuyết điểm của bộ luật trước (BLDS 2005). Câu 2: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự ? Căn cứ vào quyết định 3292013DSGĐT ngày 2572013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã đề cập:  Thời điểm thực chất ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức là vào năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được.  Thời điểm ông Hội bị tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự là ngày 07052010 bởi Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa. Câu 3: Giao dịch của ông hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự ? Căn cứ vào quyết định 3292013DSGĐT ngày 2572013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao thì ta có thể kết luận rằng giao dịch của ông Hội được xác lập trước khi ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế lúc này ông Hội đã mất đi năng lực hành vi dân sự. Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào? Căn cứ theo Khoản 1, Điều 125 BLDS 2015: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý”. Vậy nên Tòa án như dân tối cao đã quyết định phần giao dịch của ông Hội là vô hiệu. Vì trên thực tế từ năm 2007, ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được và ngày 1082010 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự. Chính vì vậy việc tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi nhân sự là quá muộn khiến cho các được thực hiện dù không có sự đồng ý của ông Hội vì vậy làm cho các giao dịch dân sự có liên quan đến ông vô hiệu. Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh ông Hội không và Tòa đã giải quyết theo hướng nào? Tóm tắt vụ việc. Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc giống hoàn cảnh ông Hội. Tóm tắt vụ việc: Ngày 20012004 ông Cường và bà Bính (vợ ông Cường) ký giấy chuyển nhượng cho anh Thăng (con riêng của bà Bính) một bất động sản (cụ thể là 288 m2 đất do mẹ ông để lại nhưng việc chia di sản chưa được thực hiện). Ngày 1362005, Tòa án huyện xử bà Bính ly hôn với ông Cường. Sau đó, anh Hưng (con riêng ông Cường) đón ông Cường về nuôi dưỡng và phát hiện ông Cường có biểu hiện của người bị tâm thần nên đã yêu cầu giám định pháp y tâm thần với ông Cường. Theo đề nghị của anh Hưng, Tòa án đã ra quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần với ông Cường. Tại Biên bản giám định pháp y tâm thần số 147GĐPY ngày 15122005, Tổ chức giám định pháp y tỉnh đã kết luận ông Cường bị mắc bệnh “loạn thần do sử dụng rượu”. Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01012004 với biểu hiện của căn bệnh là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều khiển hành vi của mình. Trên cơ sở kết luận giám định này, Tòa án đã cho rằng “ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày 01012004”. Giao dịch được thiết lập ngày 20012004 nhưng giấy xác nhận giám định là ngày 15122005 trong khi đó ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày 01012004. Điều đó có nghĩa là thời điểm Tòa án tuyên bố ông Cường mất năng lực hành vi dân sự là sau khi giao dịch được thiết lập nhưng thực tế ông Cường đã lâm vào tình trạng này trước khi giao dịch được thiết lập. Hướng giải quyết của Tòa: Tòa đã tuyên bố hợp đồng giữa ông Cường bà Bính với anh Thăng vô hiệu. Xử hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cường và bà Bính với anh Thăng. Buộc anh Thăng phải trả lại 288 m2 đất thổ cư cho ông Cường và người giám hộ của ông Cường là anh Hưng quản lý, sử dụng. Câu 6: Suy nghĩ của anhchị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý. Tuy ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được từ năm 2007 nhưng đến ngày 1082010 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa mới tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự nên giao dịch mua bán giữa bà Phạm Thị Hương (vợ ông Hội) và vợ chồng ông Hùng và bà Trinh diễn ra ngày 0822010 là hợp lý theo Điều 122 BLDS 2005 (Điều 117 BLDS 2015). Tuy nhiên người đại diện theo pháp luật của ông Hội là bà Đặng Thị Kim Ánh (con ông Hội) nên việc xác lập giao dịch phải do bà Ánh thực hiện theo Khoản 1 Điều 125 BLDS 2015 vì vậy giao dịch này vô hiệu. Bên cạnh đó thì bà Hương đã bán căn nhà gắn liền với mảnh đất có diện tích 167,3m2 cho ông Hùng. Tuy nhiên, Tòa án thành phố Tuy Hòa xác định ngoài diện tích 120m2 đất ông Hội, bà Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn có 43,7m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nê hợp đồng mua bán giữa bà Hương và ông Hùng vô hiệu.

Trang 1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI GIAO DỊCH DÂN SỰ

A Giao dịch xác lập bởi người không có khả năng nhận thức.

Câu 1: Những điểm mới của BLDS năm 2015 (so với BLDS năm 2005) về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và suy nghĩ của anh/chị về những điểm mới này.

Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“Điều 117 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

1 Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2 Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân

sự trong trường hợp luật có quy định.”

Bộ luật dân sự 2005 quy định:

“Điều 122 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự

1 Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;

c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.

2 Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”

Trước tiên, trong BLDS 2005 qui định để có hiệu lực pháp luật, giao dịch dân

sự phải đáp ứng được một số điều kiện trong đó có điều kiện về năng lực xác lập giao

dịch điều này được qui định rõ tại điểm a khoản 1 Điều 122 BLDS là “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự” Còn đối với BLDS 2015 thì điều này có

sự khác biệt tại điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS 2015 qui định “Chủ thể có năng lực

Trang 2

pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” Việc bổ sung như vậy khiến cho BLDS 2015 chặt chẽ hơn.

Thứ hai, điểm mới của BLDS 2015 là qui định thêm điều kiện về năng lực pháp

luật như sau: “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” Quy định này rất tiến bộ nhưng vẫn kèm

theo những khó khăn trong việc áp dụng BLDS Bởi vì, nó đưa ra như vậy và nếu như điều kiện này không đáp ứng thì giao dịch vô hiệu Chúng ta vẫn không biết ai được yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu và yêu cầu này có hiệu lực là bao lâu

Tóm lại, sự thay đổi những trong BLDS năm 2015 về điều kiện có hiệu lực trong giao dịch dân sự là một bước tiến bộ và góp phần hoàn thiện các khuyết điểm của bộ luật trước (BLDS 2005)

Câu 2: Từ thời điểm nào ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức và từ thời điểm nào ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự ?

Căn cứ vào quyết định 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự Tòa

án nhân dân tối cao đã đề cập:

 Thời điểm thực chất ông Hội thực chất không còn khả năng nhận thức là vào năm 2007 ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được

 Thời điểm ông Hội bị tòa tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự là ngày 07/05/2010 bởi Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa

Câu 3: Giao dịch của ông hội (với vợ là bà Hương) được xác lập trước hay sau khi ông Hội bị tuyên mất năng lực hành vi dân sự ?

Căn cứ vào quyết định 329/2013/DS-GĐT ngày 25/7/2013 của Tòa dân sự Tòa

án nhân dân tối cao thì ta có thể kết luận rằng giao dịch của ông Hội được xác lập trước khi ông Hội bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự Tuy nhiên, trên thực tế lúc này ông Hội đã mất đi năng lực hành vi dân sự

Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giao dịch của ông Hội có vô hiệu không? Vì sao? Trên cơ sở quy định nào?

Căn cứ theo Khoản 1, Điều 125 BLDS 2015: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó

vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý” Vậy nên Tòa án như dân tối cao đã quyết định phần

giao dịch của ông Hội là vô hiệu Vì trên thực tế từ năm 2007, ông Hội bị tai biến

Trang 3

nằm liệt một chỗ không nhận thức được và ngày 10/8/2010 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự Chính vì vậy việc tuyên

bố ông Hội mất năng lực hành vi nhân sự là quá muộn khiến cho các được thực hiện

dù không có sự đồng ý của ông Hội vì vậy làm cho các giao dịch dân sự có liên quan đến ông vô hiệu

Câu 5: Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc nào giống hoàn cảnh ông Hội không và Tòa đã giải quyết theo hướng nào? Tóm tắt vụ việc.

Trong thực tiễn xét xử, có vụ việc giống hoàn cảnh ông Hội

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 20/01/2004 ông Cường và bà Bính (vợ ông Cường) ký giấy chuyển nhượng cho anh Thăng (con riêng của bà Bính) một bất động sản (cụ thể là 288 m2 đất do mẹ ông để lại nhưng việc chia di sản chưa được thực hiện) Ngày 13/6/2005, Tòa án huyện xử bà Bính ly hôn với ông Cường Sau đó, anh Hưng (con riêng ông Cường) đón ông Cường về nuôi dưỡng và phát hiện ông Cường có biểu hiện của người bị tâm thần nên đã yêu cầu giám định pháp y tâm thần với ông Cường

Theo đề nghị của anh Hưng, Tòa án đã ra quyết định trưng cầu giám định pháp

y tâm thần với ông Cường Tại Biên bản giám định pháp y tâm thần số 147/GĐPY ngày 15/12/2005, Tổ chức giám định pháp y tỉnh đã kết luận ông Cường bị mắc bệnh

“loạn thần do sử dụng rượu” Thời điểm mắc bệnh là trước ngày 01/01/2004 với biểu hiện của căn bệnh là mất hoàn toàn khả năng tư duy, khả năng hiểu biết và khả năng điều khiển hành vi của mình Trên cơ sở kết luận giám định này, Tòa án đã cho rằng

“ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân sự từ thời điểm trước ngày 01/01/2004” Giao dịch được thiết lập ngày 20/01/2004 nhưng giấy xác nhận giám định là ngày 15/12/2005 trong khi đó ông Cường được coi là người mất hoàn toàn năng lực trách nhiệm, năng lực hành vi dân

sự từ thời điểm trước ngày 01/01/2004 Điều đó có nghĩa là thời điểm Tòa án tuyên

bố ông Cường mất năng lực hành vi dân sự là sau khi giao dịch được thiết lập nhưng thực tế ông Cường đã lâm vào tình trạng này trước khi giao dịch được thiết lập

Hướng giải quyết của Tòa: Tòa đã tuyên bố hợp đồng giữa ông Cường bà Bính với anh Thăng vô hiệu Xử hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Cường và bà Bính với anh Thăng Buộc anh Thăng phải trả lại 288 m2 đất thổ cư cho ông Cường và người giám hộ của ông Cường là anh Hưng quản lý, sử dụng

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc trên (liên quan đến giao dịch do ông Hội xác lập)? Nêu cơ sở pháp lý khi đưa ra hướng xử lý.

Trang 4

Tuy ông Hội bị tai biến nằm liệt một chỗ không nhận thức được từ năm 2007 nhưng đến ngày 10/8/2010 Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa mới tuyên bố ông Hội mất năng lực hành vi dân sự nên giao dịch mua bán giữa bà Phạm Thị Hương (vợ ông Hội) và vợ chồng ông Hùng và bà Trinh diễn ra ngày 08/2/2010 là hợp lý theo Điều 122 BLDS 2005 (Điều 117 BLDS 2015) Tuy nhiên người đại diện theo pháp luật của ông Hội là bà Đặng Thị Kim Ánh (con ông Hội) nên việc xác lập giao dịch phải do bà Ánh thực hiện theo Khoản 1 Điều 125 BLDS 2015 vì vậy giao dịch này vô hiệu

Bên cạnh đó thì bà Hương đã bán căn nhà gắn liền với mảnh đất có diện tích 167,3m2 cho ông Hùng Tuy nhiên, Tòa án thành phố Tuy Hòa xác định ngoài diện tích 120m2 đất ông Hội, bà Hương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn có 43,7m2 đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nê hợp đồng mua bán giữa bà Hương và ông Hùng vô hiệu

Câu 7: Nếu giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó

có bị vô hiệu không? Vì sao?

Vì ông Hội đã được Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự nên ông không thể tự thực hiện bất cứ giao dịch nào mà cần phải thông qua người đại diện

theo pháp luật căn cứ theo Khoản 1 Điều 125 BLDS 2015: “ Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.” Đồng thời, căn cứ vào khoản 2, điều 22 BLDS 2015 qui định “ Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.Vì vậy, giao dịch có tranh chấp là giao dịch tặng cho ông Hội thì giao dịch đó vô hiệu

B Giao dịch xác lập do có nhầm lẫn

Câu 1: So với BLDS năm 2005, BLDS 2015 có gì khác về giao dịch vô hiệu do nhầm lẫn? Suy nghĩ của anh/chị về sự thay đổi trên.

Điều 131 BLDS năm 2005 quy định :

1 Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.

2 Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.

Trang 5

Điều 126 BLDS năm 2015 quy định :

1 Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2 Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên

có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.

Trên thực tế, có những trường hợp chủ thể tham gia xác lập giao dịch dân sự nhưng sau đó phát hiện giao dịch đó được xác lập bởi sự nhầm lẫn khiến cho mục đích tham gia giao dịch của một hoặc các chủ thể không đạt được Quy định về giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn được ghi nhận tại Điều 126 BLDS năm 2015 So với Điều 131 BLDS năm 2005 trước đây, thì Điều 126 BLDS năm

2015 có nhiều khác biệt đáng kể Trước đây, trong BLDS năm 2005, có hai vấn đề chính được đặt ra khi xác định một giao dịch dân sự được xác lập do bị nhầm lẫn theo Điều 131, đó là yếu tố lỗi và nhầm lẫn về nội dung giao dịch

Theo BLDS 2005, bên bị nhầm lẫn chỉ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu nếu bên kia không chấp nhận thay đổi, trong khi đó trên thực tế có những trường hợp nhầm lẫn là không thể thay đổi được Mặt khác, theo BLDS năm

2005, nếu một bên có lỗi vô ý làm bên kia nhầm lẫn mà xác lập giao dịch thì giao dịch vô hiệu do bị nhầm lẫn Quy định này chưa bao quát được hết trường hợp nhầm lẫn như cả hai cùng nhầm lẫn nên không thể coi là chỉ có một bên có lỗi nên mang tính chưa thuyết phục Đến BLDS năm 2015, trường hợp bên bị nhầm lẫn chỉ có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu nếu bên kia không chấp nhận thay đổi đã được bỏ đi và yếu tố lỗi không còn được đề cập trong quy định vừa nêu Nếu sự nhầm lẫn của một bên về nội dung của giao dịch và đã xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1 Điều 131 BLDS năm 2005) Như vậy, do chỉ quy định sự nhầm lẫn

về nội dung của giao dịch nên nội hàm của Điều 131 BLDS năm 2005 bị hạn chế, trên thực tế có cả sự nhầm lẫn về chủ thể và Tòa án cũng đã giải quyết theo hướng

vô hiệu giao dịch Chính vì vậy mà khi BLDS năm 2015 được thông qua, đối tượng bị nhầm lẫn không còn chỉ bị giới hạn về nội dung của giao dịch mà đã được mở rộng ra hơn so với BLDS năm 2005 Cụ thể, khoản 1 Điều 126 BLDS

năm 2015 quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô

Trang 6

hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” Khoản 2 Điều 126 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.” Với nội dung này, không phải

trong mọi trường hợp giao dịch dân sự được xác lập do nhầm lẫn đều có hậu quả pháp lý như nhau Ở đây, mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hay chưa mới là vấn đề quan trọng để xem xét giao dịch dân sự có vô hiệu hay không

Câu 2: Đoạn nào của bản án trên cho thấy Tòa án đã tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn?

Tòa án đã tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn trong bản án ở đoạn sau:

“Như vậy, vị thế và giá trị nhà đất có mặt tiền đường nhựa rộng 18m và vị thế, giá trị nhà đất chỉ có lối đi nhỏ rộng 2m là hoàn toàn khác nhau; chênh lệch rất lớn về giá trị và điều này mọi người đều biết và thừa nhận Rõ ràng đường nhựa rộng 18m được vẽ trước nhà (trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) là đường đi của quân đội, quản lí trực tiếp là Sư đoàn BB7; sơ đồ bản vẽ thửa đất

do cơ quan có thẩm quyền lập (khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho

bà Anh vào năm 2010) ghi không rõ ràng, gây nhầm lẫn cho người sử dụng đất

và cho người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất Bà Mai không biết thông tin về đường nhựa rộng 18m trước nhà là của Quân đội, Quân đội sẽ xây tường chắn ngang vào đầu năm 2016; do đó, có căn cứ xác định bà Mai bị nhầm lẫn về

vị thế của nhà đất khi thực hiện giao dịch Khoản 1 Điều 126 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2005) quy định: “Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu…”; bà Mai có liên hệ với bà Anh để thương lượng giảm giá trị của hợp đồng là có thiện chí nhưng bà Anh không đồng ý thương lượng, trong trường hợp này bà Mai yêu cầu hủy hợp đồng là đúng quy định của pháp luật”.

Câu 3: Theo anh/chị, nhầm lẫn là gì và, trong vụ việc trên, có nhầm lẫn không? Vì sao?

Theo em, nhầm lẫn là sự khác biệt giữa nhận thức và thực tế của vấn đề Cụ thể hơn, nhầm lẫn trong giao dịch dân sự có thể hiểu là việc các bên hình dung sai

về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từ nhận thức các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định được

Trang 7

Trong vụ việc trên có nhầm lẫn vì theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện hướng Đông là đường vào Sư đoàn BB7, còn hướng Tây là giáp đất ông

Lê Văn Tú, không thể hiện lối đi 2m Theo lời khai của các đương sự tại phiên tòa thì trước và trong khi thực hiện giao dịch hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bị đơn dẫn nguyên đơn đi coi đất cũng đi trên đường của Sư đoàn BB7, cả nguyên đơn và bị đơn đều không biết rõ con đường hướng Đông là đường thuộc quyền quản lí của Sư đoàn BB7 hay con đường công cộng nên có sự nhầm lẫn về đối tượng của hợp đồng

Câu 4: Gỉa sử có nhầm lẫn, việc Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn

có thuyết phục không? Vì sao?

Gỉa sử có nhầm lẫn, việc Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn không thuyết phục vì hợp đồng được thiết lập để đem lại cho mỗi bên lợi ích hợp pháp nên khi có nhầm lẫn, Tòa án không nên triệt tiêu hợp đồng nếu nhầm lẫn có thể khắc phục được Vì vậy, BLDS cho phép tuyên bố hợp đồng vô hiệu nhưng có kèm theo điều kiện: khi có nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự “thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu” Trong trường hợp này, nguyên đơn bà Trần Thị Kim Mai có liên hệ với bà Anh để thương lượng giảm giá trị của hợp đồng là có thiện chí nhưng bà Anh không đồng ý thương lượng, trong trường hợp này bà Mai yêu cầu hủy hợp đồng là đúng quy định của pháp luật

C Giao dịch xác lập do có lừa dối

Câu 1: Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo BLDS 2005 và BLDS 2015.

Điều 127 BLDS 2015:

“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ

ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại

về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.”

Điều 132 BLDS 2005

Trang 8

“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.”

Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 521 cho thấy thỏa thuân hoán nhượng đã

bị tuyên vô hiệu do có lừa dối?

Trong Quyết định số 521, chi tiết cho thấy thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên vô hiệu do có lừa dối được thể hiện ở đoạn:

“Việc anh Vinh và người liên quan (ông Trần Bá Toàn, bà Trần Thị Phú Vân – họ hàng của anh Vinh) không thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình trạng

về nhà, đất mà các bên thỏa thuận hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa, đền bù (căn nhà đã có quyết định tháo dỡ do xây dựng trái phép từ năm 1998 nên không được bồi thường giá trị căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư theo Quyết định số 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002) là

có sự gian dối Mặt khác, tại bản “thỏa thuận hoán nhượng” không có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu) và là người cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho bà Phố (mẹ của anh Vinh) Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giữa anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng Điều

132 BLDS để giải quyết”.

Câu 3: Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ anh/chị biết.

- Hướng giải quyết trên chưa có tiền lệ

- Vì theo Nguyên tắc áp dụng án lệ là khi áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, tên của án lệ, tính chất, tình tiết tương tự được nêu trong án lệ

và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý được án lệ giải quyết, phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do Và trong Bản án vừa rồi không có bất cứ một tình tiết nào được viện dẫn mà chỉ căn cứ vào luật để giải quyết

Câu 4: Hướng giải quyết phù hợp với BLDS năm 2015 không? Vì Sao?

Trang 9

Hướng giải quyết trên còn phù hợp với BLDS năm 2015 Bởi vì theo theo quy định theo điều 127 của BLDS năm 2015 có quy định:

“Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng

ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.

Và theo điểm b khoản 1 điều 132 cũng quy định: “Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối”

Trong bản án cũng ghi rõ ràng việc anh Vinh giấu bà Thu và ông Đô về tình trạng nhà đất và thông tin quyết định thu hồi giải tỏa đền bù khi kí giao dịch 'Thỏa thuận hoán nhượng' vào ngày 19/5/2004 Theo điều khoản trên thì hợp đồng này là vô hiệu Do đó quyết định hủy bỏ bản án của Tòa án là hợp lí

Câu 5: Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, ai được yêu cầu và ai không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu ?

Theo Tòa án dựa vào quy định của BLDS 1995 và BLDS 2005 thì bà Nhất không được yêu cần Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì bà Nhất không phải là một bên trong giao dịch Ông Tài mới là người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu Trường hợp của bà Nhât khởi kiện thì Tòa án phải căn cứ vào Điều 28 luật hôn nhân và gia đình

về “Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung” để xác định hợp đồng

chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên bị vô hiệu theo Điểm b Khoản 1 Điều 122 và Điều 127 BLDS năm 2005:

Điểm b khoản 1 điều 122 qui định: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”

Điều 127 qui định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”

Câu 6: Trong Quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên

bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?

Về thời hiệu:

Khoản 1 điều 136 BLDS 2005 quy định thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do bị lừa dối là 2 năm kể từ ngày xác lập

Trang 10

Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong trường hợp pháp luật không

có quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2 năm,

kể từ ngày người có quyền khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm

Bà Nhất khai năm 2007 vợ chồng ly hôn bà mới biết ông Dưỡng giả mạo chữ

kí của bà để chuyển nhượng đất cho ông Tài, nhưng đến 10/12/2010 bà Nhất mới khởi kiện Đã quá thời gian 2 năm nên bà Nhất không được quyền khởi kiện hợp đồng vô hiệu do lừa dối

Câu 7: Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu quả do lừa dối có còn không? Vì sao?

Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối, Tòa án sẽ công nhận hợp đồng

- Cơ sở pháp lý:

Khoản 2, Điều 132 BLDS 2015: “Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.”

- Tức là giao dịch dân sự không bị Tòa tuyên vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia kí hợp đồng vẫn được xác lập, hợp đồng mặc nhiên được Tòa án công nhận

Câu 8: Câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ có sự khác biệt nếu áp dụng các quy

định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210?

Câu trả lời cho các câu hỏi trên sẽ có sự khác biệt nếu áp dụng các quy định tương ứng của BLDS 2015 vào tình tiết như trong Quyết định số 210:

- Cơ sở pháp lý:

Điểm b, Khoản 1, Điều 132, BLDS 2015: “Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128

và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày: Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối.”

- Tại thời điểm giao dịch, ông Tài không biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ

kí Tính từ khi ông Tài biết việc ông Dưỡng giả mạo chữ kí cho đến lúc khởi kiện là chưa quá 2 năm nên vẫn còn thời hiệu khởi kiện

Câu 9 : Quay trở lại vụ việc trong phần nhầm lẫn, vì sao Tòa án tuyên hợp

đồng vô hiệu do nhầm lẫn mà không tuyên hợp đồng vô hiệu do lừa dối?

Từ khóa » Dân Sự 2 Thảo Luận 1