Cảm Nhận 4 Khổ Cuối Bài Thơ Ánh Trăng (6 Mẫu) - Văn 9

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng tuyển chọn 7 mẫu hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ cảm xúc của nhân vật trữ tình khi gặp lại vầng trăng tình nghĩa.

Ánh trăng

Qua 4 khổ thơ cuối Ánh trăng, nhà thơ Nguyễn Duy mượn hình ảnh vầng trăng để nói lên cách sống, lối sống, suy nghĩ của một bộ phận con người trong xã hội hiện đại, thờ ơ, vô cảm với xung quanh. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây để ngày càng học tốt môn Văn 9:

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng hay nhất

  • Dàn ý cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng
    • Dàn ý 1
    • Dàn ý 2
  • Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 1
  • Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 2
  • Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 3
  • Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 4
  • Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 5
  • Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 6
  • Phân tích 4 khổ thơ cuối Ánh trăng - Mẫu 7

Dàn ý cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng

Dàn ý 1

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm
  • Nêu giới hạn đoạn trích

II. Thân bầi

1. Khái quát chung

  • Hoàn cảnh sáng tác.
  • Nội dung 4 khổ cuối.

2. Phân tích

a. Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại:

Trên thực tế nhà thơ đã hoàn toàn thay đổi:

Vầng trăng đi qua ngõNhư người dưng qua đường

Tác giả đã lí giải vì anh ta đã thay đổi hoàn cảnh sống. Từ hồi về thành phố Quen ánh điện, cửa gương

-> Vì vậy vầng trăng dầu đi qua ngõ mà nhà thơ vẫn dửng dưng vì không cần đến nó nữa.

b. Gặp lại vầng trăng

Thình lình đèn điện tắt Phòng buyn đinh tối om

-> Tình huống bất ngờ.

Vội bật tung cửa sổ.

- Tác giả sử dụng 3 động từ: vội, bật, tung đặt liền nhau nhằm diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương hối hả của tác giả để tìm nguồn ánh sáng.

- Từ đột ngột diễn tả vầng trăng tròn bỗng nhiên hiện ra tình cờ mà tự nhiên vằng vặc giữa trời chiếu vào căn phòng tói om.

c. Cảm xúc suy nghĩ của tác giả

- Cử chỉ: Ngửa mặt lên nhìn trời

- Thái độ: Có cái gì dưng dưng

- Tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt nhìn trực tiếp với thái độ dưng dưng cảm xúc thiết tha thành kính, tâm trạng xúc động, cảm động trong lòng tác giảkhi gặp lại vầng trăng.

- Vầng trăng gợi nhớ cho anh quá khứ. Đó là những kỉ niệmcủa những năm tháng gian lao. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. như là đồng là bể như là sông là rừng

- Trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy thủy chung, nhân hậu.

- Đó là thái độ nhắc nhở nhà thơ, là sự trách mọc trong im lặng.

- Nhà thơ giật mình. - Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự thấy mình phải thay đổi.

- Con người không được quên quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên.Hãy trân trọng những quá khứ tốt đẹp.

3. Đánh giá chung

* Nghệ thuật.

  • Bài thơ như một câu chuyện riêng có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.
  • Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ 5 chữ.
  • Nhịp thơ khi thì tự nhiên nhẹ nhàng theo lối kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư.

Dàn ý 2

I. Mở bài

  • Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy, bài thơ Ánh trăng.
  • Khái quát về nội dung chính của bốn khổ thơ cuối.

II. Thân bài

1. Khái quát chung

  • Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác.

2. Phân tích bốn khổ thơ cuối

a. Hình ảnh vầng trăng trong hiện tại

  • Trên thực tế nhà thơ đã hoàn toàn thay đổi: “Vầng trăng đi qua ngõ/như người dưng qua đường”.
  • Tác giả đã lý giải lí do anh ta đã thay đổi: “Từ hồi về thành phố/quen ánh điện, cửa gương”

=> Vì vậy vầng trăng dầu đi qua ngõ mà nhà thơ vẫn dửng dưng vì không cần đến nó nữa.

b. Khi gặp lại vầng trăng

  • “Thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om/vội bật tung cửa sổ”: tình huống bất ngờ.
  • Tác giả sử dụng 3 động từ: “vội, bật, tung” đặt liền nhau nhằm diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương hối hả của tác giả để tìm nguồn ánh sáng.
  • Từ “đột ngột” diễn tả vầng trăng tròn bỗng nhiên hiện ra tình cờ mà tự nhiên vằng vặc giữa trời chiếu vào căn phòng tối om.

c. Cảm xúc suy nghĩ của tác giả

  • Cử chỉ: Ngửa mặt lên nhìn trời
  • Thái độ: có cái gì dưng dưng

=> Tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt nhìn trực tiếp với thái độ dửng dưng cảm xúc thiết tha thành kính, tâm trạng xúc động, cảm động trong lòng tác giả khi gặp lại vầng trăng.

  • Vầng trăng gợi nhớ cho anh quá khứ. Đó là những kỉ niệm của những năm tháng gian lao. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu: “như là đồng là bể/như là sông là rừng”.
  • “Trăng cứ tròn vành vạnh” tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy thủy chung, nhân hậu.
  • “ánh trăng im phăng phắc”: Đó là thái độ nhắc nhở nhà thơ, là sự trách móc trong im lặng.
  • “đủ cho ta giật mình”: nhà thơ giật mình. Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự thấy mình phải thay đổi.
  • Con người không được quên quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên. Hãy trân trọng những quá khứ tốt đẹp.

3. Nghệ thuật 

  • Bài thơ như một câu chuyện riêng có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.
  • Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ.
  • Nhịp thơ khi thì tự nhiên nhẹ nhàng theo lối kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư.

III. Kết bài

  • Khẳng định lại ý nghĩa của khổ thơ.

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 1

Hình ảnh vầng trăng từ xưa đến nay luôn gần gũi, gắn bó với con người Việt Nam. Trăng rằm tháng tám, trăng tròn vành vạnh mỗi ngày rằm... ánh trăng chiếu sáng từ nhà ra ngõ... Cũng chính bởi sự gần gũi như vậy mà đây là hình ảnh đi vào những tác phẩm văn học của các thi sĩ như một nguồn cảm hứng đặc biệt. Nguyễn Duy cũng tìm thấy nguồn cảm hứng thi ca qua hình ảnh vầng trăng với một thi phẩm đặc sắc "Ánh trăng". Bài thơ là thông điệp, triết lí mà tác giả muốn gửi gắm. Điều này được thể hiện rõ nhất qua bốn khổ thơ cuối bài.

Nếu ở khổ thơ thứ nhất, vầng trăng nghĩa tình trọn vẹn với quá khứ thủy chung, gắn bó cùng con người thì đến khổ thơ thứ hai, vầng trăng ở hiện tại đã làm thay đổi mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình:

"Từ ngày lên thành phốQuen ánh điện cửa gươngVầng trăng đi qua ngõNhư người dưng qua đường"

Khi đất nước hòa bình, khi hoàn cảnh sống của con người thay đổi, đó là lúc suy nghĩ của con người cũng thay đổi. Khi được sống hòa mình với ánh điện, cửa gương, với những tiện nghi đủ đầy, xa rời với thiên nhiên, vầng trăng lúc này như người dưng qua đường, xa lạ không quen biết. Vầng trăng xưa kia đã trở thành dĩ vãng, đã trở thành những hoài niệm trôi vào quên lãng của con người. Vầng trăng vẫn thế, vẫn vẹn nguyên nghĩa tình, không thay đổi nhưng con người giờ đây đã đổi thay. Con người đã dửng dưng, lạnh nhạt đến vô tình với quá khứ nghĩa tình.

Mạch cảm xúc của nhân vật thay đổi khi xuất hiện một tình huống bất ngờ:

"Thình lình đèn điện tắtPhòng buyn - đinh tối omVội bật tung cửa sổĐột ngột vầng trăng tròn"

Một hoàn cảnh bất ngờ, con người khẩn trương, vội vàng bật tung cửa sổ. Người và trăng gặp gỡ nhau. Và mạch cảm xúc tiếp tục được thể hiện ở những câu thơ tiếp theo:

"Ngẩng mặt lên nhìn mặtCó cái gì rưng rưngNhư là đồng là bểNhư là sông là rừng"

Mặt đối mặt, ở đây ta hiểu mặt chính là mặt trăng và mặt người. Cả hai cùng đối diện với nhau. Con người lúc này có cảm xúc rưng rưng, như tất cả quá khứ ùa về. Đó là sự thức tỉnh sau những quên lãng của quá khứ nghĩa tình. Đối diện với vầng trăng, con người nhận ra sự thờ ơ, vô cảm của mình bấy lâu nay, tất cả quá khứ chợt ùa về trong xúc cảm rất đỗi thân thương. Vầng trăng vẫn ở đây, vẫn vẹn nguyên:

"Trăng cứ tròn vành vạnhKể chi người vô tìnhÁnh trăng im phăng phắcĐủ cho ta giật mình"

Vầng trăng vẫn như vậy nhưng "im phăng phắc" đủ khiến cho những sai lầm, những sự vô cảm của con người phải thức tỉnh, đủ để khiến con người ta giật mình. Đó là sự thức tỉnh đúng lúc, thức tỉnh về nhân cách, về lối sống.

Bốn đoạn thơ cuối nói riêng hay cả bài thơ nói chung chính là những xúc cảm rất đỗi chân thực về những thông điệp mà Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến với độc giả. Mượn hình ảnh vầng trăng để nói lên cách sống, lối sống, suy nghĩ của một bộ phận con người trong xã hội hiện đại, thờ ơ, vô cảm với xung quanh, với quá khứ và hiện tại.

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 2

Cũng như bao nhà thơ trẻ khác trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nguyễn Duy đã từng trải qua nhiều gian khổ, từng chứng kiến biết bao sự hi sinh, mất mát lớn lao của dân tộc, cùng gắn bó với thiên nhiên núi rừng nghĩa tình. Nhưng khi đã ra khỏi thời bom đạn ác liệt, được sống trong hòa bình với nhiều tiện nghi hiện đại, không phải ai cũng nhớ những gian nan, những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” đã ghi lại một thoáng, một lần giật mình trước cái điều vô tình dễ gặp ấy, đặc biệt là bốn khổ cuối bài thơ.

Bài thơ ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh. Đó là thời điểm ba năm sau ngày kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quá khứ một thời đã xa, hình ảnh vầng trăng trong hiện tại được nhà thơ miêu tả:

“Từ hồi về thành phốquen ánh điện, cửa gươngvầng trăng đi qua ngõnhư người dưng qua đường”

Đất nước hòa bình. Hoàn cảnh sống thay đổi, xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương”. Đó là một cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đó nhà thơ diễn tả sự đổi thay trong tình cảm của con người lãng quên vầng trăng từng một thời là tri kỷ. “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.

Tình huống bất ngờ xảy đến: “mất điện, phòng tối om”. Đây là một tình huống rất quen thuộc, rất thực nhưng cũng tình huống ấy đã tạo nên bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Tác giả sử dụng ba động từ: “vội, bật, tung” đặt liền nhau nhằm diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương hối hả của tác giả để tìm nguồn ánh sáng. Và nguồn sáng ấy chính là vầng trăng thuở nào. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình.

Từ đó, trong lòng nhà thơ bộn bề những suy nghĩ, cảm xúc trước vầng trăng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng là bểnhư là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình”

Nhà thơ lặng lẽ đối diện với trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt nhìn trực tiếp với thái độ dửng dưng cảm xúc thiết tha thành kính, tâm trạng xúc động, cảm động trong lòng tác giả khi gặp lại vầng trăng. Vầng trăng gợi nhớ cho anh quá khứ. Đó là những kỉ niệm của những năm tháng gian lao. Hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu: “như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.

Hình ảnh trăng cứ tròn vành vạnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, nguyên vẹn và tràn đầy thủy chung, nhân hậu. Từ “cứ” cho thấy sự bền bỉ, son sắt, dẫu năm tháng có qua đi thì trăng vẫn cứ như thuở ban đầu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Nhà thơ thấy giật mình vì chợt nhận ra sự vô tình bạc bẽo, sự vội vàng trong cách sống, cái giật mình của sự ăn năn tự trách mình, tự thấy mình phải thay đổi. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người. Vì thế, khổ thơ cuối là bài học triết lý sâu sắc đối với mỗi người: Con người không được quên quá khứ, phản bội lại quá khứ và thiên nhiên. Hãy trân trọng những quá khứ tốt đẹp.

Bài thơ như một câu chuyện riêng có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình cùng với giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ khi thì tự nhiên nhẹ nhàng theo lối kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư. Tất cả đã làm nổi bật chủ đề của tác phẩm: Đó là lợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 3

Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca truyền thống để giãi bày tâm sự, vẻ đẹp thánh thiện, sự chiêm nghiệm... và trong mỗi thể loại thơ trăng lại mang một nét đẹp riêng. Đặc biệt là trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đến với bốn khổ thơ cuối, người đọc sẽ cảm nhận được thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm.

Quỹ đạo của cuộc sống và dòng đời trong đục khiến con người cứ tất bật, hối hả, chìm trong nhịp sống gấp gáp làm ăn. Nhưng cuộc đời lại là một chuỗi những quy luật nhân - quả nối tiếp nhau, con người có lúc may, lúc rủi, lúc thành công, khi thất bại, lúc vui buồn và sự đổi ngôi là tất yếu để mỗi người tự hoàn thiện mình hơn: “thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om”. Một sự kiện bình thường, ngẫu nhiên trong cuộc sống hiện đại được Nguyễn Duy đưa vào trong thơ và sử dụng tài tình thành điểm thắt nút, đẩy bài thơ lên đến cao trào. Bởi nếu như không có cảnh hôm ấy chắc mấy ai đã nhìn lại mình mà suy xét bản thân để nhận ra sự thay đổi vô tình của mình. Bốn khổ cuối bài thơ đã làm nổi bật lên điều đó:

“Thình lình đèn điện tắtphòng buyn đinh tối omvội bật tung cửa sổđột ngột vầng trăng tròn”

Cả khổ thơ là một chuỗi những hành động liên tục, kế tiếp nhau, nhanh, dồn dập gấp gáp để rồi ngỡ ngàng, ngạc nhiên không nói thành lời: “đột ngột vầng trăng tròn”.

Ta bỗng dưng tự hỏi tại sao lại là trăng tròn mà không là trăng khuyết? Một câu hỏi thật khó trả lời bởi tròn khuyết vốn là quy luật của tự nhiên. Còn trăng ở đây đã được nhân cách hóa với những suy nghĩ, tâm tư rất con người, rất đời thường vậy mà: “trăng vẫn tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”. Cái khuyết trong tâm hồn con người bỗng trở nên ngại ngùng xấu hổ trước trăng, trước sự vẹn tròn; chung thủy trước sau như một của trăng. Phải chi trăng khuyết đi cho lòng người đã ân hận, đỡ hổ thẹn với trăng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng là bểnhư là sông là rừng”

Một khoảnh khắc im lặng trong hiện thực nhưng trong nội tâm con người nổi xúc động trào dâng đến đỉnh điểm. Mọi ký ức của một thời xa xăm, một thời gian khó, gắn bó thuở nào bỗng dội về trước mặt:

Ánh trăng, đó là những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm hạnh phúc. Hay là đồng là bể, là quê hương làng xóm và những người thân yêu ruột thịt. Cũng còn là sông là rừng, là những người đồng chí anh em. Đó còn là những vui buồn - hạnh phúc, những đắng cay ngọt bùi một thuở. Thế mà lòng người đã sớm quên mau để bây giờ chợt giật mình, chợt sực tỉnh, xót xa ân hận, để phải rưng rưng không nói thành lời.

Lại một lần nữa hình ảnh trăng được nhân hóa. Đó không phải là mặt trăng bình thường nữa. Đó là khuôn mặt của một người bạn đã từng tri kỷ với những người đang sống, đang hiển hiện trước trăng. Qua bao nhiêu biến động thăng trầm, người bạn ấy vẫn thủy chung son sắt, bao dung độ lượng, nhân ái như thuở nào.

Nhà thơ Nguyễn Duy đã tìm được một điểm nhìn vừa thông minh vừa sắc sảo; tinh tế mà cụ thể, chi tiết. Tại sao không phải là trăng chênh chếch; trăng xa xa hay trăng lấp ló mà lại là trăng trên đỉnh đầu để phải ngửa mặt lên nhìn mặt?

Phải chăng đó cũng là dụng ý của tác giả? Bởi trăng bao dung, độ lượng là thế. Từ điểm nhìn của nhà thơ, ánh trăng cứ lan tỏa ra mênh mông; soi rọi chiếu sáng. Một không gian mênh mông rộng lớn phủ đầy ánh trăng, ngập chìm trong ánh trăng - thánh sáng ngọc ngà tinh khiết. Thời gian và không gian (trăng rọi đỉnh đầu) trong khổ thơ đã khiến ta nhận thấy nó không phải là sớm nhưng cũng chưa đến nỗi muộn để không nhận ra mọi thứ. Phải chăng nhà thơ đã đồng nhất thời gian trong hiện thực và thời gian trong tâm tưởng con người? Hình ảnh trăng ở đây đã lên đến đỉnh điểm thành công của tác giả. Nó chứa đựng một ý nghĩa thật lớn lao sâu sắc, một giá trị nhân văn to lớn. Trăng không còn là trăng của thiên nhiên; không phải là trăng ví như một con người mà nó mang ý nghĩa tượng trưng cho cả một lớp người, một thế hệ. Một thế hệ với bao cống hiến hy sinh trong những thời khắc gian khó, ác liệt; những năm tháng cam go thử thách khi đất nước lâm nguy để đến khi trở về cuộc sống đời thường - đất nước thanh bình, họ lại bình dị đến đạm bạc, không chút đòi hỏi, bon chen danh vọng. Trong số họ có những người không may mắn được trở về; có những người còn gửi lại nơi chiến trường một phần cơ thể và những di chứng chiến tranh cho thế hệ con cái; có những người được Tổ quốc quê hương biết đến song vẫn còn có những người tài sản chỉ là chiếc ba lô sờn vai vì trận mạc và cuộc sống của họ chỉ diễn ra âm thầm lặng lẽ bình dị như bao người bình thường khác nhưng họ vẫn sống và giữ trọn nghĩa tình với quê hương, đất nước, với những người đồng chí đồng đội của mình. Một tấm lòng cao cả, bao dung, độ lượng, một niềm lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Tình cảm của họ vẫn tròn vành vạnh, trước sau như một đâu kể cho những người vô tình, những người lãng quên. Trăng lại trở về với chính nó; giản dị tự nhiên, mộc mạc:

“Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình”

Nghệ thuật láy khiến hình ảnh thơ được khắc sâu, in đậm trong tâm tưởng con người, khiến con người phải tự vấn lại lương tâm, tự suy xét lại bản thân. Hai câu cuối bài là lời kết nhẹ nhàng nhưng khá sâu sắc, tạo nên sức lắng cho bài thơ. Cái giật mình của tác giả hay cũng chính là điều Nguyễn Duy muốn gửi gắm, nhắn nhủ mỗi chúng ta: cuộc sống hôm nay dẫu ồn ào náo nhiệt; dẫu cho mỗi con người chỉ có một chút khoảnh khắc để giật mình sực tỉnh nhìn lại chính mình nhưng điều đó sẽ làm cho cuộc sống có ý nghĩa và giá trị biết bao.

Lời thơ không triết lý, chỉn chu nhưng đã để lại trong lòng người đọc dòng suy nghĩ về nhân tình thế thái; quá khứ và hiện tại luôn song hành nhắc nhở hoàn thiện mỗi con người; chính nghệ thuật dùng sự hồi tưởng, tự đấu tranh, suy nghĩ trong nội tâm con người đã làm nên thành công, khiến bài thơ còn mãi với thời gian.

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 4

Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác như một lời tự nhắc nhở nhớ về những năm tháng gian lao đã qua của người lính. Đặc biệt, bốn khổ cuối của bài thơ đã làm rõ cảm xúc của nhân vật trữ tình khi gặp lại cái vầng trăng tình nghĩa:

“Từ hồi về thành phốquen ánh điện, cửa gươngvầng trăng đi qua ngõnhư người dưng qua đường”

Chiến tranh qua đi, người lính từ biệt nơi chiến trường đau thương để về với thành phố. Cuộc sống hiện đại của thành phố với “ánh điện”, “cửa gương” - đó là ánh sáng của văn minh hiện đại đã khiến con người dần quên đi cuộc sống ở chiến trường. Và sự thay đổi hoàn cảnh sống đã dẫn đến sự thay đổi về tình cảm. Những ánh sáng của văn minh, làm khuất đi ánh sáng quen thuộc của ánh trăng. Để rồi ngay cả khi vầng trăng vô tình đi qua ngõ, lại giống như người dưng qua đường. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh: “vầng trăng” - “người dưng”. Hai chữ “người dưng” dùng để chỉ những người không quen biết, hoàn toàn xa lạ. Vậy mà ở đây, thật buồn làm sao khi “ánh trăng” đã từng là người bạn tri kỷ gắn bó suốt những năm tháng chiến tranh lại trở nên xa lạ. Để rồi chỉ khi rơi vào tình huống thật bất ngờ, nhân vật trữ tình mới chợt nhận ra:

"Thình lình đèn điện tắtphòng buyn-đinh tối omvội bật tung cửa sổđột ngột vầng trăng tròn"

Tình huống bất ngờ xảy ra ở đây là mất điện, khiến cho “phòng buyn-đinh” trở nên tối om. Nhân vật trữ tình vội vàng “bật tung cửa sổ” - một hành động mạnh mẽ, quyết liệt để tìm kiếm ánh sáng. Và rồi ánh trăng hiện ra ngay trước mắt. Không phải đến hôm nay ánh trăng mới xuất hiện, trăng vẫn ở đó, chỉ có con người là không để ý. Cách dùng từ “đột ngột” gợi ra một cảm giác bất ngờ, không báo trước khiến con người thấy bàng hoàng và xúc động. Thì ra biết bao lâu nay, ánh trăng vẫn ở đó, tròn đầy và sáng rõ. Nếu trước đó chỉ là sự tình cờ “đi qua ngõ” thì ở đây, nhân vật trữ tình đã đối mặt trực tiếp với anh trăng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng là bểnhư là sông là rừng”

Đối mặt với ánh trăng, bỗng nhiên mọi kỉ niệm xưa cũ lại quay về. “Có cái gì rưng rưng” - sự xúc động nghẹn ngào khi nhớ về kỉ niệm tuổi thơ hòa mình với thiên nhiên, nhờ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ bên vầng trăng hiện về. Để rồi, nhân vật tự trách móc bản thân:

“Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình”

Ánh trăng thì vẫn tròn đầy như vậy, mang trong nó một tình cảm thủy chung chân thành. Còn con người thì lại vô tình thay đổi. Nhưng trước sự thay đổi ấy, ánh trăng lại không một lời trách móc - “im phăng phắc”, mà bao dung và tha thứ. Điều đó khiến cho con người phải cảm thấy “giật mình” - thức tỉnh trước ánh trăng. Con người nhận ra sự vô tâm, có phần bội bạc của bản thân và rồi tự nhắc nhở mình không được quên đi thứ tình nghĩa tốt đẹp ấy.

Như vậy, bốn khổ thơ cuối là bước chuyển biến lớn trong mạch cảm xúc của bài thơ. Nguyễn Duy đã tạo ra một tình huống độc đáo để từ đó gửi gắm những bài học sâu sắc.

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 5

Nguyễn Duy là thơ tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Trong số các tác phẩm của ông, chắc hẳn ai cũng đều biết đến bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác năm 1978. Đến với bốn khổ thơ cuối, người đọc sẽ cảm nhận được tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đối mặt với vầng trăng của hiện tại:

“Từ hồi về thành phốquen ánh điện, cửa gươngvầng trăng đi qua ngõnhư người dưng qua đường

Thình lình đèn điện tắtphòng buyn-đinh tối omvội bật tung cửa sổđột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng là bểnhư là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình”

Ánh trăng trong hiện tại gắn với thời điểm khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc. Người lính từ biệt nơi núi rừng khắc nghiệt để về với thành phố của hòa bình, của hiện đại. Dần quen với những thứ ánh sáng của văn minh là “ánh điện”, “cửa gương”, họ dần quên đi cái vầng trăng từng bầu bạn suốt những năm tháng chiến tranh. Ánh trăng lúc này đã trở thành một “người dưng” - xa lạ, không còn thân quen.

Chỉ đến khi tình huống thật bất ngờ xảy ra, thành phố mất điện, chìm vào bóng tối. Nhân vật trữ tình liền vội vàng “bật tung cửa sổ”, một hành động đầy mạnh mẽ, quyết liệt để tìm kiếm ánh sáng. Thì bỗng nhiên nhìn thấy hiện ra trước mắt là “đột ngột vầng trăng tròn”. Không phải hôm nay, ánh trăng mới xuất hiện, nhưng phải đến hôm nay - khi xảy ra một tình huống thật bất ngờ, nhân vật trữ tình mới nhận ra ánh trăng. Từ láy “đột ngột” diễn tả một sự việc xảy ra không báo trước. Ở đây, nhân vật trữ tình cảm thấy thật ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của vầng trăng - một người bạn đã từng thân quen trong quá khứ.

Trong tình huống bất ngờ ấy, người lính khi xưa giờ mới có dịp đối mặt trực tiếp với vầng trăng năm xưa. Để rồi bao nhiêu kỉ niệm trong quá khứ lại ùa về khiến anh cảm thấy “có gì đó rưng rưng” - thể hiện sự xúc động, nghẹn ngào. Đó là những năm tháng tuổi thơ hòa mình với thiên nhiên có vầng trăng bầu bạn, những năm tháng sống ở nơi rừng núi, chiến đấu có ánh trăng sẻ chia…

Vầng trăng ấy cứ tròn vằng vặc như vậy, giống như tình nghĩa thủy chung của người bạn tri kỷ dành cho người lính. Không một chút trách móc con người kia đã quá vô tình, quên đi tình nghĩa bao nhiêu năm gắn bó trải qua gian khổ. Ánh trăng vẫn im lặng dõi theo từng bước đi của con người với cái nhìn bao dung, rộng mở. Chính sự cao thượng ấy đã khiến cho “ta giật mình”. Sự giật mình ấy là sự thức tỉnh để rồi chợt nhận ra rằng bản thân đã quá vô tâm, quên đi những người bạn tri kỷ.

Bằng giọng điệu tự nhiên, cùng với việc xây dựng hình ảnh thơ giàu tính biểu cảm, Nguyễn Duy đã gửi gắm một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị và hiền hậu.

Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng - Mẫu 6

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bước ra từ cuộc chiến, hồn thơ Nguyễn Duy lại đau đáu, trăn trở với những miền kí ức xa xưa và ân nghĩa trong kháng chiến thuở nào. Bài thơ “Ánh trăng” thể hiện một phần tâm sự như thế của nhà thơ. Đoạn thơ sau đây thể hiện rất rõ điều đó:

“Từ hồi về thành phố…đủ cho ta giật mình”

Bài thơ ra đời khi đất nước đã đi qua những cuộc chiến tranh gian khó. Nhà thơ rời những chiến trường để về với hoà bình, về với ấm êm. Cứ ngỡ rằng cuộc đời từ nay chỉ có phố phường, đèn điện; những năm tháng cũ đã qua rồi, tất cả một đi không trở lại...

Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hòa tình nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:

“Từ hồi về thành phốquen ánh điện, cửa gươngvầng trăng đi qua ngõnhư người dưng qua đường”

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói lóa của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Thuở trước, ta hồn nhiên sống “với đồng, với sông, với bể”, với gian lao “ở rừng”, khi ấy trăng chan hòa tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri kỷ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.

Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:

“Thình lình đèn điện tắtphòng buyn-đinh tối omvội bật tung cửa sổđột ngột vầng trăng tròn…”

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ.

Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tri kỷ, nghĩa tình. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng tròn đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc “thình lình” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rưng rưng” sống dậy, thổn thức lòng người:

“Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng là bểnhư là sông là rừng”

“Ngửa mặt lên nhìn mặt” viết như vậy để hai gương mặt - hai người bạn cũ nhìn thẳng vào nhau, để tự hỏi nhau rằng còn nhớ nhau chăng, để những kỉ niệm xưa chợt vụt về trong ký ức, để làm se thắt lòng người vì những vô tình hờ hững của chính mình. Quả có vậy, đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa...

“Trăng cứ tròn vành vạnhKể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình”

Vầng trăng đột ngột hiện ra với một vẻ đẹp ám ảnh lòng người. “Trăng cứ tròn vành vạnh”, thời điểm trăng tròn chính là vào ngày rằm hàng tháng. Câu thơ gợi đến vẻ đầy đặn, tròn trịa của vầng trăng và cũng là vẻ sáng tươi hiền dịu của thứ ánh sáng trong lành nhất vũ trụ. Đêm trăng tròn, trăng để khắp không gian tràn đi ánh sáng vàng dịu, sóng sánh như mật ngọt. Trăng như rải bạc trên mặt nước. Trăng như tưới sạch, làm đẹp, làm bóng lên những lùm cây. Trăng làm mặt người hớn hở vui cười. Và nói như nhà văn Nam Cao: “trăng làm mọi thứ đẹp lên”. Nhưng vẻ “tròn vành vạnh” của vầng trăng còn gợi đến một suy tưởng khác: vầng trăng còn tròn đầy “vành vạnh” nghĩa là trăng vẫn còn trọn vẹn những ân nghĩa xưa với những người lính năm nào. Và điều đáng quý, đáng nghĩ là trăng vẫn tròn ngay cả khi người đã “vô tình”: “Trăng cứ tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”.

Câu thơ gieo vào lòng người đọc một thoáng giật mình để rồi thấy ăn năn, day dứt. Vầng trăng kia cũng giống như bao con người, bao kí ức đẹp đẽ đã đi qua đời ta. Những con người của quá khứ, những kí ức xa xưa... tất thảy vẫn còn nguyên tấm lòng thuỷ chung trọn vẹn. Còn riêng ta, mới một chút phù hoa, danh lợi mà đã quên đi những ân tình, những thề nguyền thiêng liêng xưa cũ. Và rồi, ta càng thấy day dứt, băn khoăn hơn bởi khoảng lặng mênh mang của vầng trăng tròn cao thượng: “Ánh trăng im phăng phắc/đủ cho ta giật mình”.

“Ánh trăng im phăng phắc” để ngân mãi những dòng ánh sáng tỏa đi khắp nhân gian. Điều đó cũng có nghĩa trăng mãi hao dung, hiền từ và độ lượng. Cái đáng sợ là cái im lặng của kí ức. Ta đã quên đi quá khứ, ta đã có lỗi với người xưa để sống một cuộc đời ồn ào, náo nhiệt nhưng tất cả vẫn im lặng dõi theo ta với cái nhìn bao dung, rộng mở. Và chính bởi sự cao thượng ấy đã khiến ta “giật mình”. “Giật mình” để nhận ra sự cao đẹp của người xưa. “Giật mình” để nhận ra phần hờ hững, lãng quên đáng chê trách của mình. “Giật mình” còn để biết nhìn lại mình cho đúng. Tiền tài danh lợi, đó chưa phải là điều quý giá nhất ở đời. Phải biết sống có tình, có nghĩa, thuỷ chung trọn vẹn trước sau mới khiến lòng người sạch trong và thanh thản.

Không dùng nhiều thủ pháp nghệ thuật cầu kỳ, tinh xảo, đoạn thơ của Nguyễn Duy đi vào lòng người bởi sự giản dị của quy luật tình cảm rất con người. Đọc khổ thơ, người đọc thấy thấm thía triết lý sâu xa mà nhà thơ đã gửi gắm. Phải biết sống đủ đầy, trọn vẹn với những ân tình xưa cũ để chúng ta được sống đủ đầy, thanh thản trong cuộc đời.

Bài thơ giống như một câu chuyện riêng, một câu chuyện ân tình giữa người với trăng. Sự kết hợp giữa yếu tố tự sự và trữ tình tạo nên giọng điệu tâm tình cho cả bài thơ. Nhịp thơ nhịp nhàng theo lời kể tự nhiên của nhân vật trữ tình, nhưng cũng có khi ngân nga, tha thiết hay có khi trầm lắng, suy tư.

Phân tích 4 khổ thơ cuối Ánh trăng - Mẫu 7

Trăng từ lâu đã đi vào lòng người qua rất nhiều tác phẩm văn học. Trăng không rực rỡ chói chang như mặt trời, nhưng trăng lại là nguồn cảm xúc để cho ta gợi lên những nỗi niềm sâu lắng. Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp vào kho tàng văn học VN bài thơ “Ánh trăng”. Nếu như “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết, “Vọng nguyệt” của HCM thể hiện phong thái ung dung lạc quan và tình yêu thiên nhiên tha thiết của Người thì “Ánh trăng” gợi nhắc chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Bài thơ “Ánh trăng” là lời tự nhắc nhở bản thân của nhà thơ về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính. Vầng trăng gắn bó với tác giả suốt cả một quãng đời tuổi thơ. Trăng lại tiếp tục dõi theo từng bước chân hành quân trong suốt cuộc chiến, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ và cùng tận hưởng chiến thắng. Người và trăng lúc ấy gắn bó với nhau như những người bạn tri âm tri kỉ.

Ngỡ như không bao giờ quên được “vầng trăng tình nghĩa” nhưng sự thay đổi của lòng người như một nhát chổi cuống phăng đi tất cả những kỉ niệm, hình ảnh về vầng trăng:

“Từ hồi về thành phốquen ánh điện cửa gươngvầng trăng đi qua ngõnhư người dưng qua đường”

Chiến tranh kết thúc, những người lính rời khỏi chiến trường khốc liệt để trở về quê hương xứ sở. Họ tận hưởng một cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại, văn minh hơn. Người lính ngày xưa bây giờ được sống trong “ánh điện, cửa gương” và vầng trăng dần dần bị phai nhạt trong kí ức của họ. Vầng trăng giờ đây không còn là “vầng trăng tri kỉ” hay “vầng trăng tình nghĩa” nữa mà đã trở thành một “người dưng”, một người không có bất kì mối quan hệ nào với người lính. Phép nhân hóa “người dưng qua đường” đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Nó đã làm nổi bật lên sự thay đổi của lòng người. Sự ồn ã của phố phường, sự bận bịu mưu sinh bươn chải kiếm sống cùng với sự vô tâm của người lính đã lấn át đi lí trí của họ mà xóa bỏ vầng trăng ra khỏi trí nhớ. Điều này cũng nói lên một thực tế: khi con người được tận hưởng sự sung sướng đến từ vật chất thì họ bắt đầu lãng quên những kí ức gắn bó với mình lúc khó khăn.

Cuộc đời cũng như dòng sông có lắm thác ghềnh quanh co uốn khúc, đôi khi xảy ra những chuyện không bao giờ lường trước được:

“Thình lình đèn điện tắtphòng buyn-đinh tối omvội bật tung cửa sổđột ngột vầng trăng tròn”

Đèn điện tắt, cuộc sống hiện đại xa hoa của chốn thị thành bất chợt dừng lại và bao quanh con người giờ đây chỉ là một màn đêm. Như là một bản năng, con người không bao giờ muốn ở trong bóng đêm, họ tìm mọi cách để có được ánh sáng thế là “vội bật tung cửa sổ”. Trước mặt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên bấy lâu nay. Vầng trăng ấy vẫn cứ “tròn”, vẫn lành lặn vẹn nguyên như hồi nào. Trăng không bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách cứ hờn dỗi dù có bị xem là “người dưng”. Cái lòng vị tha, bao dung của ánh trăng đã làm thức dậy trong nhà thơ những suy nghĩ bâng khuâng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặtcó cái gì rưng rưngnhư là đồng, là bểnhư là sông, là rừng”

Mặt người phải đối diện với mặt trăng hay chính tác giả đang phải đối diện với người bạn tri kỉ của mình ? Vầng trăng im lặng, chẳng nói, chẳng trách móc mà nhà thơ vẫn cứ cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. Cảm xúc giờ đây như muốn trào ra thành từng giọt nước mắt. Điệp từ “như là” cùng với cấu trúc song hành và nghệ thuật liệt kê đã làm nổi bật lên dòng kí ức tuôn trào, vỡ òa trong thâm tâm của nhà thơ. “Đồng, bề, sông, rừng”, những cảnh vật đã gắn bó với người lính ngày xưa ùa về. Nó như là một thước phim chiếu lại những kỉ niệm thân thương mà bị lãng quên. Giọt nước mắt bây giờ khiến cho tâm hồn nhà thơ trở nên thanh thản, trong sáng lại, giúp ông nhận ra lỗi lầm của mình.

Ở khổ cuối, vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnhkể chi người vô tìnhánh trăng im phăng phắcđủ cho ta giật mình”

Đến đây, hình ảnh vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống. Vầng trăng “tròn vành vạnh” thể hiện một vẻ đẹp viên mãn trọn vẹn, bất chấp sự vô tình của con người. Trăng “im phăng phắc”, không nói gì mà chỉ nhìn. Trăng đã trở thành hiện thân của quá khứ chân tình, chung thủy và nghiêm khắc nhắc nhở con người tự soi rọi lại chính mình. Con người có thể lãng quên, chối bỏ quá khứ nhưng quá khứ vẫn cứ mãi bất diệt, vẹn nguyên.

Thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Giọng điệu tâm tình tự nhiên của nhà thơ cùng kết cấu độc đáo của đoạn thơ tạo nên tính chân thực, có sức truyền cảm sâu sắc cho người đọc. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ không bao giờ bỏ rơi người lính.

Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là lời tự nhắc nhở bản thân của tác giả mà đó còn là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người. Bài thơ đồng thời củng cố ở người đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. “Nếu anh bắn quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ nã đại bác vào anh”.

Từ khóa » Khổ 3 ánh Trăng