Chỉ Thực, Chỉ Xác: Vị Thuốc Kích Thích Tiêu Hóa
Vị thuốc chỉ thực còn gọi trấp, chấp, kim quất, khổ chanh, chỉ thiệt, trái non của quả trấp, đổng đình, niêm thích, phá hông chùy, chùy hông phích lịch (Hòa Hán dược khảo).Tên khoa học: Fructus ponciri Immaturi, Fructus aurantii Immaturi. Họ khoa học: thuộc họ Cam (Rutaceae).
Mô tả, công dụng vị thuốc
Thu hái, sơ chế: vào tháng 4 - 6 lúc trời khô ráo, thu nhặt các quả non rụng dưới gốc cây thì được chỉ thực. Dùng quả có đường kính dưới 1cm thì để nguyên, quả có đường kính trên 1cm thì bổ đôi theo chiều ngang, khi dùng rửa sạch đất bụi, ủ mềm, xắt lát hay bào mỏng, sao giòn. Cả hai vị chỉ thực (Fructus Aurantii immaturus) và chỉ xác (Frustus Aurantii) đều là quả của cây Cam chua (Citrus aurantium L.), họ Cam (Rlltaceae). Thu hái lúc quả non ta được chỉ thực, thu hái khi quả già ta được chỉ xác, đem bổ đôi, phơi hoặc sấy khô. Dược liệu chỉ thực có hình bán cầu, một số có hình cầu, màu đen hoặc màu lục nâu thẫm. Chỉ thực có mùi thơm mát, vị đắng hơi chua. Dược liệu chỉ xác có dạng hình bán cầu, màu nâu thẫm hoặc màu nâu. Chỉ xác có mùi thơm, vị đắng hơi chua.
Thành phần hóa học của chỉ thực và chỉ xác chủ yếu là tinh dầu, hesperidin, pectin.
Công dụng và cách dùng: chỉ thực và chỉ xác đều là những vị thuốc thông dụng trong Đông y. Theo tài liệu cổ chỉ thực và chỉ xác có vị đắng, tính chua, hơi hàn, vào hai kinh tỳ và vị. Tác dụng phá khí, tiêu tích, hóa đờm, trừ bĩ (báng ở bụng), lợi cách, khoan hung. Chỉ thực, chỉ xác tác dụng giống nhau nhưng chỉ xác yếu hơn.
Cả hai vị là những thuốc có tác dụng giúp sự tiêu hóa, trừ đờm, táo thấp, lợi tiểu tiện, ra mồ hôi, yên dạ dày, ruột...Ngày dùng 6 - 12g (có thể hơn) dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị khác.
Các bài thuốc
Trị trẻ nhỏ lỵ lâu ngày, tiêu ra cơm nước không đều: chỉ xác, tán bột, mỗi lần uống 4 - 8g.
Trị răng đau nhức: chỉ xác ngâm rượu súc miệng.
Cầm lỵ, thuận khí: chỉ xác sao 96g, cam thảo 24g, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước sôi
Trị trẻ nhỏ đi tiêu khó: nướng chỉ xác, bỏ múi, cam thảo mỗi thứ 4g, sắc uống.
Trị lở đau sưng: chỉ xác nướng nóng, chườm vào đó 7 trái.
Trị lở đau sưng: dùng bột chỉ xác, bỏ vào trong bình nấu sôi thật lâu, trước xông sau rửa.
Trị nấc cụt do thương hàn: chỉ xác 20g, mộc hương 4g tán bột, mỗi lần uống 4g, với nước sôi, chưa bớt thì uống tiếp.
Trị đau bụng khi có thai: chỉ xác 120g, sao với cám. Hoàng cầm 40g. tán bột. Mỗi lần uống 20g với 1 chén rưỡi nước, nếu có phù bụng căng thêm bạch truật 40g.
Trị ruột sệ xuống sau khi đẻ: chỉ xác, sắc lấy nước ngâm, đợi ít lâu thì rút vào.
Trị trẻ nhỏ nôn mửa, động kinh, nghẹn đàm, co giật: chỉ xác bỏ múi sao với cám, đạm đậu khấu, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê, nặng thì 1 muỗng. Nếu cấp kinh phong dùng bạc hà giã vắt lấy nước uống với thuốc. Nếu mạn kinh phong dùng kinh giới nấu uống với 3 - 5 giọt rượu, ngày 3 lần.
Trị trẻ nhỏ bị chứng nhuyễn tiết (mụn nhọt mềm có nước): chỉ xác 1 trái lớn (không lấy loại trắng), mài cho bằng miệng rồi lấy hồ miến bôi quanh miệng, úp lên trên đầu miệng mụn thì có thể tự ra hết máu mủ và không có sẹo.
Lợi khí sáng mắt: chỉ xác 40g, sao, tán bột, uống với nước.
Trị thương hàn âm chứng, do uống thuốc lầm hạ quá sớm sinh đầy tức ngực nhưng không đau, đè vào thấy mềm: chỉ xác, binh lang 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 12g với nước sắc hoàng liên.
Trị tiêu ra máu: chỉ xác 240g sao với cám, hoàng kỳ 240g, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước cơm, hoặc trộn với hồ làm viên uống.
Trị bụng đầy, người lớn cũng như trẻ nhỏ, khí huyết ngưng trệ: dùng những vị có tác dụng thông ruột, thuận khí gọi là “Tứ Diệu Hoàn” gồm chỉ xác đầy mà lưng còn xanh, bỏ múi đi, lấy 160g chia làm 4 phần, 40g sao với thương truật, 40g sao với la bặc tử, 40g sao với hồi hương, 40g sao với can tất, xong bỏ các vị ấy đi, lấy chỉ xác, tán bột dùng. Lấy 4 vị trước sắc lấy nước trộn bột gạo làm thuốc viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm, sau khi ăn.
Trị vùng xương sườn đau nhức vì sợ quá mà tổn thương tới khí: dùng chỉ xác (sao) 40g, đào chi (sống) 20g, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước sắc gừng và táo.
Trị uất khí ở thượng tiêu làm đầy trướng vì hàn: chỉ xác, tô tử, quất bì, cát cánh, mộc hương, bạch đậu khấu, hương phụ.
Trị tiêu ra máu giai đoạn đầu: chỉ xác, hoàng liên, hòe hoa, can cát, phòng phong, kinh giới, thược dược, hoàng cầm, đương quy, sinh địa, địa dư, trắc bá diệp.
Trị ngứa do phong chẩn: chỉ xác, kinh giới, khổ sâm, phòng phong, thương nhĩ thảo, bại bồ, nấu nước tắm gội.
Trị lỵ, mót rặn: chỉ xác, binh lang, thược dược, hoàng liên, thăng ma, cát căn, cam thảo, hồng khúc, hoạt thạch.
Trị khí hư, đại tiện khó: chỉ xác, nhân sâm, mạch môn đông.
Trị đau ở hông sườn phải, dùng chỉ xác, nhục quế.
Chỉ thực, chỉ xác là vị thuốc dùng trong Đông y, ngoài là vị thuốc kích thích tiêu hóa còn ứng dụng được nhiều trong cuộc sống, làm đẹp,hương liệu góp phần cải thiện, chữa bệnh và nâng cao sức khỏe.
Từ khóa » Chỉ Xác Là Gì
-
Chỉ Xác Và Những Bài Thuốc Quý Cho Bệnh Gan Mật
-
Chỉ Xác Có Tác Dụng Gì? Cách Sử Dụng Và Liều Dùng
-
Chỉ Xác – Chỉ Thực | BvNTP - Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương
-
Chỉ Xác: Vị Thuốc Quý Cho Người Bệnh Tiêu Hóa, Gan Mật
-
Chỉ Xác Và Những Lợi ích Không Ngờ Với Người Bệnh Sỏi Mật
-
Chỉ Thực-Chỉ Xác: Giải Mã 2 Vị Thuốc Cùng Nguồn Gốc
-
Chỉ Thực, Chỉ Xác Là Gì Và Công Dụng đối Với đường Tiêu Hóa
-
Chỉ Sác, Tác Dụng Chữa Bệnh Của Chỉ Sác
-
Công Dụng, Cách Dùng Chỉ Xác - Tra Cứu Dược Liệu
-
Chỉ Xác – Công Dụng – Liều Dùng – Kiêng Kỵ - VIETMEC
-
Chỉ Thực - Chỉ Xác Là Gì? Công Dụng Của Dược Liệu đối Với Sức Khỏe
-
Chỉ Xác - Viện Y Học Bản địa Việt Nam
-
CHỈ XÁC 枳 殼 - Trung Tâm Kế Thừa - Ứng Dụng Y Học Cổ Truyền