Chữ Việt Gốc Tàu - Nguyễn Hữu Phước

Hầu hết những chữ Việt gốc Tàu đều có trong quyển Tầm Nguyên Tự Điển Việt Nam của cố Giáo sư Lê Ngọc Trụ (LNT). Những chú thích cách đọc theo HV cũng từ quyển nầy.

*

Người Tàu Đến Vùng Đồng Nai – Cửu Long Từ Lúc Nào?

Sử sách chép rằng người TH đã có mặt ở VN từ hơn hai ngàn năm trước; nhưng con số lúc đó chắc là ít lắm. Miền Bắc gần ranh giới TH, nên có một số thương gia Tàu sang VN buôn bán. Nhưng đợt di dân quan trọng nhất của người TH vào VN xảy ra vào thế kỷ 17. Số là vào khoảng giữa thế kỷ 16 thương gia TH và Nhật đã dùng một số hải cảng của VN (ở miền Bắc và Trung) trong việc buôn bán vì thương gia TH không thể giao thương trực tiếp với các đối tác người Nhật tại lãnh thổ Nhật vì có lệnh cấm buôn bán với Nhật do nhà Thanh của TH đưa ra (Trần Gia Phụng).

Sau khi người Mãn Châu chiếm và cai trị toàn lãnh thổ TH và lập nên Nhà Thanh (1644-1911), có một số cựu thần nhà Minh không chịu đầu hàng. Họ lập phong trào “Bài Mãn Phục Minh.” Địa bàn hoạt động của họ mạnh nhất ở các tỉnh giáp giới với VN. Sự kiện nầy đã làm cho miền biên giới Hoa – Việt trở nên một vùng giặc giã liên miên “đã khiến dân Việt (vùng biên giới) vô cùng thống khổ vì đám giặc ‘Tàu Ô’ nầy” (Ngô Thế Vinh).

Vào năm 1679, một số cựu thần nhà Minh khác không chịu thần phục nhà Thanh, tìm cách trốn khỏi TH. Trong số nầy có:

Dương Ngạn Địch (cựu Trấn Thủ một số quận thuộc Quảng Tây) và Trần Thượng Xuyên (còn có tên là Trần Thắng Tài) cựu Trấn Thủ một số quận thuộc Quảng Đông) dẫn thuộc hạ (khoảng 3000 quân lính, gồm đa số là người QĐ và Phúc Kiến, và hơn 50 chiến thuyền) đến Tư Dung và Đà Nẵng tạm trú và xin theo Chúa Nguyễn. Rất ngại sự có mặt của nhóm người TH nầy ở Thừa Thiên (nơi có phủ chúa) và vùng lân cận, Chúa Nguyễn đã cho họ vào miền Đồng Nai, Cửu Long cư trú*, mặc dầu vùng nầy còn thuộc Chân Lạp. (Vào khoảng thập niên 1650-60 vua Chân Lạp đã chịu thần phục Chúa Nguyễn.) Nhóm Trần Thượng Xuyên vào lập nghiệp ở vùng “Cù Lao Phố” (Biên Hòa ngày nay). Còn nhóm Dương Ngạn Địch và phó tướng của y là Huỳnh Thắng vào cửa Tiền Giang, đi ngược lên và dừng lại lập nghiệp ở vùng Mỹ Tho ngày nay. Hai nhóm dân TH mới nầy có biệt danh là người “Minh Hương” hay người trung thành với nhà Minh của TH.

Trong lúc đó vào khoảng 1671, một thanh niên tên Mạc Cửu (người QĐ), sau khi nổi dậy và thất bại trong việc chống Nhà Thanh, đã đến phía Đông Nam Chân Lạp với mấy trăm tùy tùng, được phép vua Chân Lạp khai thác vùng bờ biển gần Phú Quốc. Tuy còn trẻ nhưng Mạc Cửu rất thành công trong việc mở mang vùng Hà Tiên (ngày nay), sau khi chiêu mộ thêm nhiều người TH (cùng hoặc khác tiếng nói) và cả người VN và người Cam Bốt. Vùng Hà Tiên trở nên một khu tự trị phồn thịnh. Tuy nhiên vì bị áp lực quân sự từ Thái Lan, nên vào năm 1708 , Mạc Cửu đã xin thần phục Chúa Nguyễn và nhận chức Tổng Binh Hà Tiên do chúa Nguyễn Phúc Chu phong (Trần Gia Phụng).

Ngoài người TH gốc Quảng Đông và Phúc Kiến, còn có rất nhiều người TH gốc Triều Châu (Tiều) lẫn lộn trong ba nhóm người trên. Nhóm TC đông nhất là thuộc nhóm Mạc Cửu.

*Ý nghĩ của Chúa Nguyễn khi gởi những người TH tỵ nạn đi xa khỏi vùng Thừa Thiên để tránh nguy hiểm cho phủ Chúa đã được chứng tỏ là đúng: Huỳnh Thắng và thuộc hạ của y, sau khi mở mang được nhiều vùng đất ven bờ Cửu Long, có dã tâm tách khỏi quyền lực Chúa Nguyễn và lập vùng tự trị như một nước riêng. Chúa Nguyễn phải dùng Trần Thắng Tài hành quân và chỉ đánh và giết được Huỳnh Tấn sau nhiều thiệt hại cho cả đôi bên. Nhưng phải vài chục năm sau, chúa Nguyễn mới dẹp hết nhóm tàn quân của Huỳnh Tấn, vì họ đã trốn lên vùng Biển Hồ, dựa vào quân Cam Bốt và quân Xiêm (Thái Lan) để tồn tại trong việc chống Chúa Nguyễn. (Trần Gia Phụng.)

Như vậy, trước khi Chúa Nguyễn bành trướng ở miền lưu vực Đồng Nai, Cửu Long thì một số người Tàu, cùng người Việt, đã đến khẩn hoang và lập nghiệp ở đây. Họ trở thành những người tiên phong cho VN đến khẩn hoang và mở mang miền Đồng Nai, Cửu Long. Dần dần, với tài buôn bán, họ trở thành một lực lượng kinh tế và do đó, lực lượng chánh trị, và góp phần vào nền văn hóa VN nói chung và của miền ĐN-CL nói riêng.

Mặc dầu người Minh Hương ít tham gia vào những chức vụ công quyền, (chỉ trừ một số ít người Việt gốc Minh Hương hay người Tàu lai Việt, sẽ nói ở đoạn cuối bài) nhưng với thế lực tài chánh, họ đã có một ảnh hưởng lớn vào những quyết định về chánh sách kinh tế, tài chánh và ngay cả việc bổ nhiệm những chức vụ quan trọng trong guồng máy cai trị của VN, nhứt là từ giữa thập niên 1950 trở về sau, ở Miền Nam VN. Mặt khác, họ cũng có lúc phải gánh chịu hậu quả của những cuộc tranh chấp nội bộ hay của những chánh sách có tính cách áp bức hay kỳ thị của VN:

Trong cuộc tranh chấp giữa Chúa Nguyễn và anh em Tây Sơn ở vùng Gia Định, có một số nhỏ người TH theo Tây Sơn, nhưng đa số phò trợ Chúa Nguyễn. Theo học giả Trần Ngươn Phiêu (TNP), thì ông Trần Thượng Xuyên, ngoài việc biến vùng đất hoang ở Cù Lao Phố thành một thương cảng phồn thịnh, còn lập nhiều công trận với chúa Nguyễn qua ba lần đánh với Cam Bốt vào những năm 1690, 1700, và 1715. Thắng lợi trong ba trận nầy đã mở rộng biên giới VN về phía Nam. Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn sắc phong “Nguyễn vi vương, Trần vi tướng, đại đại công thần bất tuyệt” (TNP). Vì vậy khi chiếm được thành Gia Định lần thứ tư, hoàng đế Thái Đức của Tây Sơn (Nguyễn Nhạc), sau khi biết được trong số binh sĩ của Chúa Nguyễn có một số là người Hoa, đã “ra lệnh tàn sát khoảng mười ngàn người Hoa ở khắp vùng Biên Hòa Sài Côn” (Trần Gia Phụng). Những người còn sống sót đã di cư xuống vùng gần Sài Gòn và lập vùng Chợ Lớn ngày nay.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, miền Nam Việt Nam có đạo luật buộc người ngoại quốc (thật sự nhắm vào người Hoa) phải nhập Việt tịch. Nếu không thì bị cấm hành một số nghề thuộc lãnh vực quan trọng trong nền kinh tế, như thương mại và kỹ nghệ. Tổng thống VNCH (Ngô Đình Diệm) đã lập ra phủ “Đặc Ủy Trung Hoa Sự Vụ” để giải quyết những vấn đề liên quan tới người Hoa và việc thi hành đạo luật trên.

Sau năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản ở VN đã có chính sách đưa người TH về Tàu. Hàng nhiều trăm ngàn người Việt gốc Hoa đã phải “đăng ký” về Trung Quốc, cũng như hàng triệu triệu người Việt ở Miền Nam đã rời VN tìm tự do, họ đã mất hết tài sản trong cuộc di cư dưới hoàn cảnh đặc biệt nầy.

Chữ Việt Gốc Tàu Trong Đời Sống Hằng Ngày: Câu Chuyện “Thằng Phúc”

- Trong vòng chữ nghĩa về bà con dòng họ, chúng ta có những chữ HV và chữ Việt gốc Tàu không?

- Tiếng HV thì nhiều lắm, nhiều vô số kể. Sơ sơ chúng ta có thân phụ, thân mẫu (cha mẹ), nhạc phụ, nhạc mẫu (cha mẹ vợ); bào huynh bào đệ (anh em ruột) v.v. Có một vài chữ, rất gần với giọng QT. Chữ (Hán) “cha và mẹ”, giọng QT đọc là “phù tsin, phù mù-ẩu.” Có điều ít ai để ý là những chữ “cô” (em gái hay chị của người cha), “dì” (em gái hay chị của người mẹ), “dượng” (chồng của cô hay của dì), đều là chữ Việt gốc QĐ. Riêng chữ Cậu chúng ta lại đọc giống QT và TC; (trong khi giọng HV đọc là “cữu”, thì TC đọc “cựu”, và QT đọc là “khạo phụ”).

Nhưng người Tàu dùng chữ “dượng” rõ ràng hơn dân ta. Họ gọi người chồng của dì là “dì-dượng”, và chồng của cô là “cô-dượng”. Trong cách xưng hô, người Tàu có một hệ thống ngôn từ phức tạp hơn VN ta nhiều lắm. May mà dân ta không bắt chước, nhờ vậy mà cách xưng hô của ta tương đối đơn giản hơn nhiều (và do đó ít khó khăn hơn cho các cô thầy dạy tiếng Việt cho con em VN hải ngoại).

Sau đây tôi sẽ kể câu chuyện của “thằng Phúc”. Những chữ Việt gốc Tàu trong chuyện sẽ được viết đậm.

Ngày xưa ở làng Đa Phước Hội có một thằng bé tên “thằng Phúc”. Nó sống gần một chành (nhà kho) lúa. Chành nầy của một người Hoa gốc TC có biệt danh là “chú Sáu Chiệc* (hoặc Chệc). Người trong xóm gọi vợ của chú sáu chệc (một người gốc QĐ) là “thím xẩm* gạo” vì thím có một tiệm gạo ở chợ quận, cách chành chỉ độ nửa cây số. “Thằng Phúc” thường hay đi chơi đánh đáo, câu cá, và bơi lội với “thằng Tửng” (TC = thằng nhỏ, “tửng” còn là tên gọi một đứa nhỏ), cháu nội của “chú Sáu Chệc”. Khi hai đứa nó muốn tranh chấp một vấn đề gì thì chúng nó dùng trò xình xầm báo chí tập* để giải quyết.

Hai thằng bé nầy thường chứng kiến cái cảnh chị thằng Tửng bị những thằng bé khác trong xóm chọc bằng những câu sau đây:

Xẩm lai, xẩm lai, thường hay thường hayNgồi đái gốc xoài, bị phạt đồng hai.

Hoặc

“Cắc chú” lai ăn khoai sình bụngTriều châu dành*, ăn vụng chảy re.

Hay là:

Cắc Chú, Thím Xẩm, Ba Tàu Người nào cũng như người nấyLuôn luôn trong mình có giấy, Kiếm cách để đi về Tàu.

Khi nào hai đứa nó câu được nhiều cá, tía* (cha) thằng Tửng bảo thằng Phúc: Hày, bữa nay ở lại “xực phàn” há, ngoài cá tươi nấu canh chua, còn có hàm dũy chứng chí dục*ngầu dục (thịt bò) xào giá (TC: Thầu giá; HV: đậu nha = mầm đậu = giá) nữa, hẩu xực lớ (hẩu xực = ăn ngon; HV đọc hảo thực, TC: hó chéc). Thế là bữa đó, sau khi xin phép cha mẹ, thằng Phúc có một bữa cơm Tàu Việt rất là ngon, nó ăn no nê.

Cạnh chành lúa là một tiệm chạp phô (tạp hóa), hay là tiệm hàng xén (TC = tạp hóa), bán hàm bà lằng* những vật cần dùng trong nhà, từ cây đinh, cái bao bố tời (bao vải bằng bố, ngày xưa thường dùng làm bao đựng 100 kí lô gạo), các loại xì dầu, xa tế (tương có gia vị cay) cho đến nhiều loại kẹo bánh như bánh bẻn (bẻn = bánh; bánh bẻn là bánh ngọt giòn), kẹo thèo lèo (kẹo có đậu phọng), và các hương liệu (các gia vị có mùi thơm, HV cũng đọc hương liệu), phổi tai, cà na (1 loại trái cây hình bầu dục, ướp muối đường, ăn như kẹo trái cây), cánh chỉ (QĐ đọc cá-ying chi-i, HV đọc “gia ứng tử” = cũng là một loại kẹo trái cây), xí muội (một loại kẹo trái cây khác, nhiều vị mặn hơn ngọt, HV đọc là “toan mai” sau nầy thành “ô mai”), và cả trái cây như cam quít, trái bôm, trái xá lỵ (trái lê Tàu; HV: tuyết lê) v.v..

Xì thẩu (người chủ) của tiệm nầy là một phì lũ (anh mập) có nạm (bụng) to và phệ. Tuy to béo, nhưng vì còn trẻ, nên ông ta mặc quần áo bằng xá xẩu (loại tơ lụa màu đen) láng cón (Cón = láng, dân ta xài luôn cả hai chữ thành “láng cón” = thật láng), do có ủi đàng hoàng; dân ta còn dùng chữ “sạch cón” = hết sạch, không còn chút gì; thật sạch, không một chút vết dơ nào). Khi mấy xây lũ cố (em nhỏ, thằng nhỏ) cỡ mười, mười hai tuổi vào tiệm, không mua hàng ngay mà lại phá phách các đồ chơi, ổng thường la rầy và gọi mấy đứa nó là xò chẩy (thằng nhỏ ngu) khi chúng làm hư hay làm xáo trộn chỗ để của những món hàng trong tiệm.

Có người hỏi ông ta từ đâu tới, ông trả lời là từ Quảng Tông (= QĐ. Tàu đọc t, VN đọc đ). Ông ta nói cha mẹ ông ta đã xẩy lớ (chết, chết rồi, HV: tử) , đã hui nhị tỳ (đi nghĩa địa = chết) từ lúc ông ta được mười hai tuổi. Ông nói trước khi mở tiệm chạp phô, ông ta đã từng làm công cho nhiều nơi, nói được tiếng TC và QT nữa. Nhưng có nhiều chỗ vì tài bán (QĐ đọc tài pán = người cầm đầu = chủ sự hay người “sếp”) khó quá nên không làm được lâu. Hiện tại tuy là chủ tiệm, nhưng ông ta cũng kiêm luôn vai trò tài phú (người lo về trông coi tiền thu, xuất) lo việc sổ sách. Ông nói tuy tiệm phải có sở hụi (sở phí, chi phí) lớn, và làm nhiều giờ mỗi ngày, nhưng được tự do hơn và dậu tố lúi (có nhiều tiền) hơn là đi làm công.

Trong tiệm còn có chỗ để một xe bán mì và hủ tiếu. Ông mướn một phổ ky người gốc TC, vừa nấu mì vừa bưng dọn. Thằng Phúc và thằng Tửng thường hay đến ăn hủ tíu ở đây. Anh phổ ky tánh tình dễ thương, ăn mặc toàn những bộ quần áo tuy sạch sẽ nhưng thuộc loại xập kỉ nìn* (cũ kỹ). Ông chủ tiệm tạp hóa nầy tánh tình thường ngày là hiền lành vui vẻ. Khi gặp các bà cụ trả giá lúc mua hàng hóa, ông ta hay nói xín xáy bò lái bò khự*, ngộ* (tôi) bán cho bà già. Bà già đừng “lói” ngộ bán “dẻ” (rẻ) tụi mấy thằng chảy nó phân bì, ngộ làm ăn không được. Lấy tiền xong, ông nói tố chè, tố chè (cám ơn) luôn miệng.

Một đôi khi “xì thẩu” ta nổi ngầu* (giận) lên rầy anh phổ ky khi anh ta quá chậm chạp trong việc tiếp rước khách hàng: “Nị* xò (nị = anh, mầy; xò = khờ khạo, ngu) quá đi thôi, chậm chạp quá mất hết khách làm sao mần ăn tốt, tụi nó gọi nị là “xò chảy” đúng quá mà; nị làm ăn kiểu nầy thì xí-í-léo* (chết) cả đám.” Tuy đôi khi la rầy anh phổ ky lớn tiếng, nhưng xì thẩu nầy lúc nào cũng cho anh phổ ky ăn cơm chung. Câu chuyện về “thằng Phúc” đến đây chấm dứt.

Tất cả những người nào có giao thiệp hay làm ăn với người Tàu đều hiểu nghĩa những chữ tô đậm trong câu chuyện trên. Nhưng có nhiều chữ có thể không rõ nghĩa. Xin mời độc giả xem phần chú thích tiếp liền theo đây; chú thích theo thứ tự các chữ dùng trong câu chuyện trên.

* Tiều Châu gọi chi-ệc hay chệc = chú = em của cha, hoặc là tiếng gọi một người lớn, nhưng nhỏ tuổi hơn cha mình. Gọi người Triều Châu bằng chữ “chiệc” là bình thường. Họ vui vẻ đón nhận cách xưng hô đó. Nhưng các nhóm dân TH khác ở VN không thích chữ nầy. Họ coi chữ nầy là không kính trọng khi dân VN dùng chữ nầy để chỉ tất cả người TH. Ngoài ra, dân ta còn dùng chữ “cắc chú” (do chữ “khách trú” nói trại ra), hay chữ “ba tàu” hoặc “anh ba”, để gọi hay chỉ người TH. Hai chữ nầy, người Hoa ở VN cũng không vừa lòng mấy. Tuy nhiên khi chúng ta gọi nước TH hay người TH bằng từ ngữ “Tàu” (viết hoa = capital letter) thì đó chỉ là một thói quen do lịch sử mà thôi. Trong văn nói hay trong văn viết, từ ngữ “Trung Hoa” và “Tàu” thường được dùng lẫn lộn, không hề có ý nào khác. Việc gọi TH là Tàu cũng giống chúng ta gọi Korea là Hàn quốc, Triều Tiên hay Đại Hàn, và United Kingdom là nước (và người) Anh, Ăng Lê, hay Vương Triều Anh Cát Lợi, và United States of America là Hiệp Chúng Quốc, Hoa Kỳ, Mỹ hay xứ (người) Cờ Hoa v.v.

Trong ca dao VN ngày xưa, lúc Tây có quyền và Tàu có tiền ông bà ta có khuyên các cô gái VN nên chọn người VN hiền hậu, có nhân nghĩa:

Lấy Tây lấy chiệc làm gìSo bề nhân nghĩa, sao bì An Nam.

Xẩm. = “thím” = vợ của chú. Thí dụ: Sao chú và “xẩm” không dẫn em Hoa đi theo cho vui. Dân ta dùng luôn hai tiếng Việt và QĐ “thím xẩm” và hiểu là “thím xẩm” là thím người Tàu, hay “người đàn bà Tàu.” Tửng (TC = đứa trẻ nhỏ, như thằng tửng); còn tửng của QĐ có nghĩa là sang nhượng lại như: Anh tôi có “tửng” một căn phố thương mại gần chợ để mở tiệm cơm. “Tiền tửng” một cái nhà là số tiền phải đưa cho một người để họ dọn ra và người chịu “tiền tửng” sẽ dọn vào nhà đó.

Xìn xầm báo chí tập = trò chơi “bao (bàn tay xè ra), kéo (hai ngói trỏ và giữa, banh ra như cái kéo) và búa (tay nắm lại như cái búa) giữa hai hoặc ba người để phân định hơn thua về một ý kiến gì. Người ta cũng ta gọi nó là trò chơi “thùng một, thùng hai, thùng ba, ra cái gì ra cái nầy.” Sau câu nói đó, những tham dự viên sẽ đưa tay của mình ra theo một trong ba hình dáng “bao, kéo, hay búa” nói trên. Trong trò chơi nầy, “tay xoè” thua “cái kéo”, “cái kéo” thua “cái búa” và “cái búa” thua “tay xoè”. Một số người VN còn dùng tiếng Việt gốc Ăng lê để gọi trò chơi nầy là trò chơi “oảnh tù tì (English: one, two, three) ra cái gì ra cái nầy.”

Dành = người (HV đọc “nhân”). Tía (TC và QT = cha). Chữ nầy rất thông dụng ở miệt Hậu Giang. (Ca dao VN: Con cò nó mổ con lươn, Bớ chị đi đường muốn tía tôi không, Tía tôi lịch sự quá chừng, Cái lưng mốc thích cái đầu chơm bơm.)

Hàm dũy = cá mặn; chứng = chưng, nấu cách thủy; chí dục = thịt heo. Cá mặn chưng thịt heo là một “món mặn” rất bình dân của người QĐ.

Hàm bà lằng = tất cả, toàn bộ; biến nghĩa của chữ nầy là “đủ thứ” (vật dụng từ a đến z) như chữ “thập cẩm.”

Nạm = bụng; dân ta xài chữ “thịt bò nạm” để chỉ loại thịt bò lóc từ sườn bò ra, có một lớp mỡ dính sát vào lớp nạc; loại “thịt nạm” nầy thường dùng nấu “bò kho.”

Đinh: Cây đinh. VN ta dùng y giọng QĐ. Điểm đặc biệt là Hoa Kỳ cũng có chữ “ding.”. HK dùng “to ding” để diễn tả việc lập đi lập lại một việc gì cho người khác nhớ. Trong công sở ở county Los Angeles, đôi khi cấp trên dùng chữ “ding” để chỉ việc “trừ điểm trong khi kiểm soát một việc gì.” Thí dụ nói: “ding him three points for three mistakes in his calculation,” hoặc “ding him three hours without pay for his absence yesterday” (“trừ nó ba điểm về ba lỗi trong việc tính toán của nó,” hoặc “trừ nó ba giờ không lương về việc vắng mặt hôm qua”).

Xập kỉ nìn = chỉ vật cũ kỹ lắm rồi. ((HV: thập kỉ niên = (đã xài từ) mười năm rồi. Vật đã quá cũ, quá xưa.

Xí í-léo (TC) = chết; (HV: tử liêu); dân ta đọc trại thành “xí lắt léo.”

Xín xái (TC) = sao cũng được; xín xái bò lái bò khự (TC) = bỏ qua đi, sao cũng được mà, tính đại khái cho xong.

Nị = ông, bà, anh, chị, mầy, cô, chú, dì, dượng v.v. (tiếng xưng hô, ngôi thứ ba, dùng như chữ “you” của Ăng-lê).

Ngộ = tôi, tao, ông, chú, bác, cha , mẹ v.v. (tiếng xưng hô, ngôi thứ nhất dùng giống như chữ “I” của Ăng-lê.

Ngầu = thịt bò; ngầu còn có nghĩa là hung dữ, quạu quọ. Ngầu píl là dương vật của bò, các tiệm phở có bán cho người thích ăn gân, hay người thích nhậu.

Những chữ Việt gốc Tàu Khác

Sau đây là bảng liệt kê một số những chữ Việt gốc Tàu chưa nói đến ở các đoạn bên trên theo thứ tựu A,B,C trong từng nhóm. Còn có một số chữ khác những chữ trong bài, vì ít dùng, hay ít phổ quát, nên chúng tôi không nhận ra. Xin quý vị bổ túc giùm chúng tôi xin đa tạ.

1. Nhóm chữ dùng trong thực phẩm và vật dụng

Chay = kiêng thịt; “xực chay” = ăn cơm với rau cải thôi; HV: “thọ trai.”

Chía (TC) = ăn. Anh ấy chía một hơi hai dĩa bánh cuốn.

Dầu = chất béo từ động vật (mỡ), hay từ thực vật (dầu). Như mỡ bò, dầu ô liu v.v.

Đĩa (QT) = cái dĩa như dĩa hát, môn thể thao ném dĩa v.v.

Độc huyền cầm (QĐ đọc “Tộc huyền cầm”, HV cũng đọc “độc huyền cầm) = đàn một dây, còn có tên là “đàn bầu.”

Hàu xì = con nghêu hay con hào phơi khô.

Hộp = vật dùng để đựng. Ăn ở tiệm, còn dư thực phẩm có thể xin hầu bàn “lượng cơ hộp = hai cái hộp để đem thức ăn dư về.

= tiếng đọc trại của chữ “mìn” = bột lúa mì có pha trứng, màu vàng, cắt sợi nhỏ. Luộc chín và dùng với nước lèo và thịt heo hay hải sản; hoặc xào với cá loại vừa nói.

Phay = mảnh vụn hay miếng mỏng. Thịt phay = thịt heo luộc cắt thành lát mỏng; gà xé phay = gà luộc xé thành miếng nhỏ trộn với rau răm và các loại rau khác (tùy ý thích của từng nhà, ca dao có câu: “Gà cồ ăn quẩn cối xay, Rau răm muối ớt xé phay gà cồ”); có thể “dao phay” (dao lớn để chặt xương hoặc cắt thịt) cũng do chữ “phay” nầy của QĐ mà ra.

Tàu vị yểu (đọc trại của chữ “tàu mêi yầu” = nước chấm làm bằng tương đậu nành. Còn gọi là “xì dầu.”

Tằng xại (TC) = cải muối có gia vị, còn có tên là “cải bắc thảo” thường dùng để ăn như một món dưa mặn, hay có thể để vào canh thịt, thịt chưng, hoặc nước lèo bò viên.

Tẩu : do chữ yíl tẩu = cái ống điếu để hút thuốc.

Xê cố = kem lạnh (cà rem); HV: “tuyết cao.”

Xiên xáo hay xương xáo (TC) = thạch đen, một loại thức ăn chế biến từ thực vật; QĐ gọi nó là “lường phảnh” = bột mát.

Xủi = nước; quảnh xủi = nước sôi, pín xủi = nước đá lạnh.

2. Nhóm chữ trong việc xưng hô, giao thiệp

Bò hó náng (TC) = người không tốt; HV: bất hảo nhân; QĐ : mậu hẩu dành.

Cai: chừa bỏ món đã ghiền, (HV: giới). Thí dụ Anh Tư đang “cai” thuốc.

Ché (TC) hay chế (QĐ) = chị.

Cống hỉ phát xồi = chúc mừng phát tài. Lời chúc đầu năm tương đương với “cung chúc tân xuân” của dân ta.

Cu ki = một mình không ai giúp; HV: tự ký. Sao lúc nào anh cũng cu ki vậy?

Cú lũ = anh cao (HV: cao lão).

Cũ xì = rất là cũ xưa (HV: cổ thì)

Da = cha (tiếng gọi cha hay gọi người lớn).

Dách lầu = hạng nhất; (HV: nhất lưu)

Dách lầu mậu phô = hạng trên hết không có gì bằng (HV: nhất lưu vô hóa = thượng hảo hạng)

Dụ khị = nói thế nào cho người khác tin mình (khị = nó).

Đầu nậu = người đứng đầu một chuyện gì hay một nhóm người khác (HV:đầu não).

Hầu bao = cái ví hay cái “bóp” đựng tiền hay giấy tờ quan trọng.

Hẹ = “khách”: tên một chủng tộc xưa ở trung nguyên TH. Họ đã di cư đến Quảng Đông, Phước Kiến, TH, nên người QĐ gọi họ là “khách.” Ở VN cũng có người Hẹ.

Hò, xử, xang xê cống, líu: tên các bậc âm trong cổ nhạc (HV đọc: hà, sĩ, thượng, xích, công, lục).

Lì xì = tiền cho người khác, thường để trong giấy đỏ, tiền cho trẻ em ngày tết.

Kỉ tố = bao nhiêu? (hỏi giá cả, hay hỏi về con số).

Lạp chạp (TC) = lộn xộn.

Lậu =một loại bịnh truyền nhiễm qua giao hợp. HV: hoa liễu (bệnh).

Lè phè (QĐ đọc “lẹ phẹ”) = không tỏ ra siêng năng, hay quan trọng, chỉ làm cho có. Người lè phè sống qua ngày.

Lộ (QT) = đường đi, HV cũng đọc y như vậy.

Lụ mụ = lão mẫu = mẹ già; nghĩa bóng: chậm chạp, thiếu sáng suốt.

Lứ (TC) = mầy, anh, chị (ngôi thứ ba, gọi người ngang hàng); hóa (Wá) = tôi, qua.

Mại = mua. Đây là tiếng “mại” của QĐ, “ngồ mại”= food to go, “mại phàn xực” = mua cơm ăn. Chữ “mại”= mua của QĐ tiếng HV đọc là “mãi”. (Trong khi đó chữ “mại” của HV lại có nghĩa “bán” như “mại danh” = bán danh tiếng, mãi danh = mua danh, mại mãi = bán buôn.)

= nón (đội đầu che nắng).

Múi hay muội = em gái, bạn học nhỏ hơn mình; tiểu muội, học muội.

Phì phà chảy = ca nhi, cô hát. Nghĩa khác là gái điếm.

Tả = đánh; tả nị xẩy = đánh mầy (ông, anh, cô v.v.) chết.

Tài lũ = anh, tiếng xưng hô để gọi một người lớn hơn mình.

Tằng khạo (TC) = người thay mặt chủ điền trông nom giùm những thửa ruộng của chủ (làm việc không công).

Tẩy chay = một cách biểu lộ sự phản đối một việc gì hay một người nào qua hình thức tránh tất cả mối liên hệ với việc hay người đó. Chúng ta hãy “tẩy chay” tiệm ăn X bằng cách không đến đó ăn, vì chủ tiệm đó có thái độ kỳ thị chủng tộc trong việc mướn nhân viên.

Thầu kê (TC) = ông chủ.

Thầu xáng = người sếp, người cầm đầu của nhóm phổ ky. HV: “đầu sanh.”

Thấu cấy = ăn cắp gà. (HV: thâu kê). Nghĩa bóng là lừa gạt. Gạt gẫm người khác. Không thể tin ông ấy được vì thỉnh thoảng ông ta chơi trò “thấu cấy.”

Tỉ = chị; sư tỉ = bạn học (nữ) lớn tuổi hơn mình.

Tỷ (TC) = em trai, còn là tên cho con trai. Thằng Tỷ năm nay được tám tuổi.

Xính xáng (QĐ và QT đọc gần giống nhau) = ông, thầy hay cô giáo, chồng (tiếng xưng hô). HV: “tiên sinh.”

Phóng xủi = gió, nước; HV: “phong thủy” = chữ chỉ về việc phương hướng, địa thế đất đai. Thầy phóng xủi còn được gọi là thầy địa lý sống bằng cách coi xem phương hướng, địa thế coi có hạp với người cần làm một việc gì.

Xuận xủi xuận phong = thuận gió thuận nước; đây là câu chúc cho một người hay nhiều người sắp đi xa.

(VN ta cũng có câu chúc “thuận buồm xuôi gió”. Phải công bình mà nói, câu chúc của Tàu hợp lý hơn của ta vì gió và hướng nước chảy là hai yếu tố chánh làm cho việc đi ghe thuyền được nhanh chóng. Nếu thuận buồm xuôi gió mà gặp dòng nước ngược thì chắc chắn là không đi nhanh được rồi. Có lẽ câu “thuận gió thuận nước” nghe không êm tai bằng câu “thuận buồm xuôi gió” nên chúng ta xài câu sau chăng? Trong ca dao VN có câu:

Dòng xuôi ngọn gió càng toLá buồm càng lớn chiếc đò càng nhanh.

Hai câu nầy rõ ràng là thuận nước thuận gió rồi.

3. Nhóm chữ thuộc các loại bài

Cù lũ = tù binh; cù lũ còn là tên một mẫu trong bài “xập xám” (bài 13 lá) của Tàu. Mẫu nầy gồm ba lá bài giống nhau đi chung với một đôi. (Mẫu bài gồm năm lá bài).

Dách = một (HV: nhất, nhứt). Số dách = xố một, đứng đầu. Bài “dà dách” = một loại bài khi được số tổng cộng cao nhất là 21. Nếu nhà cái được 21 thì sẽ ăn tất cả tay con, trừ người có 21 thì huề nhau. Nhưng nếu nhà cái kéo thêm mà quá 21 thì gọi là “quắc”. Trường hợp nầy cái chung tiền cho tất cả tay con, trừ tay con nào bị “quắc”.

Mạt chược = tên một loại bài của người Tàu. (HV: mã tước). Có một số người VN cũng thích chơi loại bài nầy; người ta thường nói “xoa mạt chược” (dùng hai tay xáo trộn nhưng cây bài trước khi phân chia cho những người chơi bài.)

Pha = sợ; trong bài phé (pocker), “pha” là chịu thua, không để thêm tiền vào nữa.

Tẩy = đáy hay mặt dưới của một vật (HV: “để”). Trong loại bài “phé” (pocker), “tẩy” là lá bài úp. Những người chơi loại bài nầy quan sát vẻ mặt của đối phương và đoán lá “bài tẩy” của đối phương để quyết định “pha” hay chịu thua, hoặc quyết định “tố” tức là để thêm tiền vào thách thức đối phương có dám thêm tiền cho bằng số hoặc thêm nhiều hơn nữa để thách thức. Nghĩa bóng của chữ “tẩy” là việc được giấu kín, “lộ tẩy” là việc bí mật bị xì ra.

Thín cẩu = một loại bài hình thẻ của người Tàu.

Thò lò = cái bông vụ, một loại đồ chơi của trẻ em. Nó cũng là một vật dụng dùng trong bài bạc.

Thùng phá xảnh = một con bài trong bài “xập xám.” Con bài nầy gồm năm lá cùng “một nước” (cùng loại) nhau. HV gọi là “đồng hoa duẫn.” Về bài sập xám, có hai hạng sau đây là hai con bài lớn: Nhứt “tứ quí” (hạng nhất là bốn lá bài giống nhau như bốn lá ách, hay bốn lá tám v.v...), nhì “đồng hoa” (thùng phá sảnh).

Tố (QĐ, QT) = nhiều. Trong bài “phé”, tố là thêm tiền để thách thức đối phương đánh theo. Nếu đối phương không theo là đối phương chịu thua.

Tùng = lá bài được để ngửa lên trong một vòng của bài “cách tê” vì trong vòng đó nó là lá bài lớn nhất. “Tiêu tùng” là không có lá nào để ngửa. Tiêu tùng còn có nghĩa là mất hết cơ hội rồi.

Tài = lớn, (HV: đại); tài xỉu = lớn nhỏ = tên một loại cờ bạc. Tài sồi = búa lớn.

4. Những chữ không có trong các nhóm bên trên

Bạc = trắng; vàng bạc; trắng như bạc; bạc cấy = gà (luộc) trắng; bạc phàm = cơm trắng (cơm thường, không phải cơm chiên).

Bảo kê (TC = bảo đảm bồi thường thiệt hại theo khế ước thỏa thuận. Bảo kê nhân thọ, bảo kê xe cộ, bảo kê sức khỏe v.v.

Bín = bện lại với nhau như tóc thắt bín hay giác bín (HV: biện).

Cảo = vặn xoáy ra (thường là vặn theo chiều ngược). Động từ cảo thường do các thợ máy dùng.

Hắc ín = loại nhựa đen dùng trộn với đá xay nhỏ để trải đường còn gọi là dầu hắc; HV: hắc yên.

Ngám = vừa đúng theo kích thước; “vừa ngám” = vừa y, vừa triến, vừa vặn.

Xà bần: Do tiếng “chập bần” của TC = nhiều món trộn lẫn với nhau. Gạch đá xà bần là gạch đá vụn khi phá một công trình xây cất, đổ lẫn lộn nhau thành đống. “Nồi xà bần” là nồi nấu chung nhiều món ăn dư.

Xế = xe. Tài xế = người lái xe.

Xí mứng (TC) = bốn cửa. Nghĩa bóng là dùng kế, hay phương cách làm người khác thi hành theo ý mình và có lợi cho mình. Td: Anh đó chơi “cú xí mứng” để dụ mầy hùn vốn (mượn tiền) cho ảnh làm ăn. HV đọc là “tứ môn.” ((Trong quyển “Người Mỹ Ưu Tư”, học giả Hồ Hữu Tường, khi viết về việc chánh phủ Sài Gòn dẹp vụ “hỗn loạn” ở Đà Nẵng có giải thích:

“... Những người Việt chúng ta, hay xem các cuộc đấu võ, ắt biết rằng chánh phủ trung ương đánh đường quyền “xí mứng” ... phá cái trận có bốn cửa. Cửa thứ nhất do tướng Nguyễn Chánh Thi ... thủ. Cửa thứ hai do các đảng chánh trị quốc gia thủ. Cửa thứ ba do sinh viên giữ. Còn cửa thứ tư là do Phật giáo thủ. Phá từng cửa một, và với chiến thuật khác nhau, ấy gọi là đánh xí mứng’.”

Xường xám = áo đàn bà, kiểu Thượng Hải, tay ngắn, hoặc dài, hai vạt trước và sau như áo dài VN nhưng bó sát gần chân, có xẻ hai bên từ hông xuống hết chiều dài của áo. Đây là một kiểu áo trông rất “sexy.”

Yến (TC) = 10 cân = 6 kilô; đơn vị đo lường ngày xưa.

Vài Câu Cuối Bài

Chữ Việt gốc Tàu là một trong những điểm đặc biệt của nền văn hóa Đồng Nai – Cửu Long. Món ăn Tàu và tiệm ăn Tàu trong đời sống dân Việt là một hiện tượng văn hóa hết sức độc đáo.

Có thể nói rằng những người Tàu di cư đến VN nói chung và người Minh Hương nói riêng, đã góp phần không nhỏ vào sự mở rộng bờ cõi VN về phương Nam qua nhiều hình thức như giúp chúa Nguyễn trong việc đối phó về quân sự với Cam Bốt, bành trướng diện tích trồng trọt qua việc khẩn hoang, góp phần vào nền văn hóa ĐN-CL qua những thế hệ kế tiếp (con cháu họ, tức là người Việt gốc Minh Hương đã đi học trường VN, thành công, và tham gia vào guồng máy cai trị của nhà Nguyễn; đã dùng ngọn bút góp phần vào nền văn chương “đàng trong”, kể cả vùng ĐN-CL;) Một vài thí dụ điển hình là các Ông:

Mạc Thiên Tích 1710-1780 (Còn có tên là Mạc Thiên Tứ) Đô Đốc trấn Hà Tiên. Ngoài việc giúp chúa Nguyễn dẹp quân Cam Bốt (1739) và đánh nhau với Tây Sơn (1775), cò để lại nhiều thơ văn qua nhóm Chiêu Anh Các do ông đứng đầu. Nổi tiếng nhất là tập vịnh về mười cảnh đẹp ở Hà Tiên (Hà Tiên thập cảnh vịnh tập).

Ngô Nhân Tịnh: Ông đã phò chúa Nguyễn Ánh khi chúa còn trong thời gian bôn ba tránh Tây Sơn. Năm 1802 (Gia Long năm đầu tiên, Ông được làm trưởng phái đoàn ngoại giao VN đi sang Trung Hoa trong hai năm. Ông còn là một nhà thơ được liệt vào danh hiệu “Gia Định tam thi gia” (hai người kia là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định). Ngoài thơ văn ra, Ông còn để lại quyển Nghệ An phong thổ.

Trịnh Hoài Đức, gốc người Phước Kiến, phò chúa Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn. Đã đảm nhiệm các chức vụ: Tổng Trấn Gia Định, Đặc Sứ VN đại diện vua Gia Long xin cầu phong với Tàu. Phục vụ cho cả hai triều Gia Long và Minh Mạng. Cùng với Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh ngâm vịnh. Thi phẩm của ba ông gộp lại trong tập Gia Định tam tài. Ông còn để lại Cẩm trai thi tập và Bắc sứ thi tập.

Ngoài ba người trên, còn có một số những người gốc Minh Hương khác nữa. Họ đã để lại sự nghiệp văn chương qua nhiều bài thơ cũng như tài liệu viết khác cho kho tàng văn học VN, đặc biệt là văn học có những đặc tính độc đáo và mới lạ của miền Đồng Nai Cửu Long, một miền đất tương đối quá mới so với lịch sử của dân tộc VN.

Mặt khác, có thể nói cuộc sống chung đụng với người Chăm, người Cam Bốt, người Minh Hương, và người Việt đã tạo cho miền ĐN-CL một nền văn hóa có tính cách đa chủng, nhưng bao dung và phong phú. Không thấy tài liệu nào ghi nhận sự căng thẳng giữa chủng tộc Việt Nam và người Minh Hương, hay các nhóm người Tàu di cư khác trong suốt thời gian mở mang bờ cõi VN về phương Nam, cũng như cho đến hiện tại. Mặc dầu giữa người VN và người Cam Bốt đôi khi có những căng thẳng chủng tộc do hoàn cảnh chánh trị, nhưng đó chỉ là những sự kiện nhất thời do các thủ lãnh kích động, chứ nói chung, dân Việt và dân Việt gốc Cam bốt vẫn sống yên lành bên nhau qua nhiều thế hệ suốt lịch sử mở mang bờ cõi của VN.

Nguyễn Hữu Phước

Sách Tham Khảo

Hồ Hữu Tường, Người Mỹ ưu tư, An Tiêm tái bản, Paris 2003.

Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970). Việt Nam Tự Điển, nxb Khai Trí, Sài Gòn, VN.

Lê Ngọc Trụ (1993). Tầm nguyên tự điển Việt Nam, nxb thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn, VN.

Lê Văn Lân 2001). “Tại sao người Việt Nam khoái cơm tàu?” Đặc San Lê Hoa,

Lê tộc hội hải ngoại xb, San Diego, California, USA.

Ngô Thế Vinh (2000). Cửu long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng, nxb Văn Nghệ, Westminster, California, USA.

Nguyễn Trúc Phương (1970). Văn học bình dân. Khai Trí xb. Saigon, VN.

Trần Gia Phụng (2005). Nhà Tây Sơn, nxb Non Nước, Toronto, Canada.

Trần Nguơn Phiêu (2005). “Cù lao Phố”, tạp chí Thế Kỷ 21, số 189&190, Westminster, California, USA.

Tu Dinh & Vo Cao (2003). Văn phạm và ngôn ngữ Việt Nam, nxb Southeast Asian

Culture and Education Foundation Foundation, Huntington Beach, California,USA.

Các nguồn tư liệu khác

Trần Thượng Thủ (2005). Điện đàm giữa Gs Trần Thượng Thủ (cháu đời thứ 12 của ông Trần Thượng Xuyên) với tác giả bài nầy: Xác nhận là ông Trần Thượng Xuyên còn có tên là Trần Thắng Tài.

Các hảo bằng hữu (đồng nghiệp, nhân viên của Chương trình bảo vệ trẻ em Á Châu Thái Bình Dương, county Los Angeles, muốn dấu tên) người Mỹ-Việt gốc QĐ, TC, Hồng Kông, VN, chẳng những nói được phương ngữ TH mà còn biết rành giọng Quan Thoại: Đã điện đàm, hoặc trực tiếp bàn với tác giả bài nầy về những chữ có giọng đọc giống nhau hoặc trà trại đôi chút giữa VN và các giọng Trung Hoa. Xin cảm tạ sự giúp đỡ của các bạn.

Từ khóa » Dách Lầu Nghĩa Là Gì