LÒNG Và DẠ đều Là Gốc Hán - PetroTimes
Có thể bạn quan tâm
Năng lượng Mới số 362
Học giả An Chi: Ông bạn của bạn đã nói sai. An Chi thì không có tài “hô biến” còn hai tiếng “lòng dạ” thì tự nó vốn dĩ đã thuộc … gốc Hán tự bao giờ. Vâng, gốc Hán rất cổ, cực kỳ cổ xưa.
“Lòng” là một điệp thức hậu kỳ của “tlàõ” (quy theo lối viết bây giờ là “tlaòng”), vẫn còn thông dụng vào giữa thế kỷ XVII, như đã được ghi nhận trong Dictionarium annamiticum, lusitanum et latinum (Từ điển Việt Bồ La) của A. de Rhodes (Roma, 1651):
“Tlàõ tlứng: clara de ovo: albumen ovi”.
Cả lời dịch tiếng Bồ (clara de ovo) lẫn tiếng La (albumen ovi) đều có nghĩa là “lòng (tròng) trắng trứng”. Cứ như trên thì hiển nhiên “tlàõ” (tlaòng) là tiền thân của “lòng” (khi từ này đã mất đi âm đầu tiên (T) của tổ hợp phụ âm đầu T-L). Chẳng những thế, nó còn là tiền thân của cả “tròng”, nếu ta biết thêm rằng T-L [tl] cũng là tiền thân của phụ âm quặt đầu lưỡi TR [ʈ] hiện nay, như vẫn còn có thể thấy ở hàng loạt trường hợp trong từ điển của A. de Rhodes: tlai → trai, tlán → trán, tlần → trần, tlòn → tròn, tlộm → trộm, tlưa → trưa, tluồng → truồng v.v... Cứ như trên thì ta có:
– tlàõ (tlaòng) → lòng và
– tlàõ (tlaòng) → tròng, do đó
– lòng ↔ tròng.
Nhưng giữa hai từ vẫn có một sự phân công ngữ nghĩa chứ “lòng” và “tròng” không thể thay thế cho nhau “mọi lúc mọi nơi”. Hiện nay, trong khi miền Nam nói “tròng trắng”, “tròng đỏ” (của trứng) thì miền Bắc nói “lòng trắng”, “lòng đỏ”. Nhưng đối với tâm điểm của cái bia (dùng để tập bắn) thì cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều nói “tròng bia”. Rồi đối với ruột của động vật thì cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều nói “lòng”; do đó mà ở trong Nam thì “lòng đỏ” là đồ lòng của lợn có màu sẫm (tim, gan, bầu dục) còn “lòng trắng” là những phần lòng có màu nhạt (phèo, ruột già, dạ dày). Từ điển của A. de Rhodes còn ghi nhận cho ta một danh ngữ độc đáo là “làõ tláng cau” (lòng trắng cau) để chỉ ruột cau, hạt cau. Vậy nói chung, ở đây ta có một sự phát triển từ nghĩa gốc là “ruột” (của động vật) đến “phần bên trong có hình tròn hoặc hình cầu, đặc hoặc rỗng của một vật”.
Những căn cứ trên đây về ngữ âm và ngữ nghĩa cho phép ta kết luận rằng “tròng” và “lòng” là những từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [腸] mà âm Hán Việt hiện đại là “trường”, có nghĩa là “ruột”. “Trường” có một biến thể ngữ âm là “tràng”. Về mối quan hệ giữa hai vần ANG ↔ ƯƠNG thì chúng tôi đã nói đến trên Năng lượng Mới số 360 (19-9-2014) khi bàn về tên của một đơn vị đo khối lượng là “lượng/lạng”. Trở xuống, xin dùng “trường” là hình vị thông dụng hơn để biện luận.
“Trường” [腸] là một chữ thuộc vận bộ “dương” [陽], một bộ mà có những chữ lại đọc theo vần ONG như:
- hai chữ “phòng” [房] và [防], lẽ ra phải đọc thành “phường”;
- hai chữ “phỏng” [倣] và [訪], lẽ ra phải đọc thành “phưởng”;
- chữ “phóng” [放] lẽ ra phải đọc thành “phướng”;
- hai chữ “vong” [亡] và [忘] lẽ ra phải đọc thành “vương”;
- hai chữ “vọng” [妄] và [望], lẽ ra phải đọc thành “vượng”.
Chính chữ “trường” [腸] là ruột này cũng đã có một điệp thức đọc theo vần ONG thành “tròng”, là từ mà ta đã thấy ở trên. Do đã bị tách khỏi cái chữ gốc là [腸] (“trường/tràng”) từ quá lâu nên từ “tròng” đã mặc nhiên bị xem là “thuần Việt” một cách vô tư, thoải mái trong khi “phòng” [房] của “phòng ăn”. “phòng ngủ”, “phòng” [防] của “phòng bệnh”, “phòng cháy”, “phóng” [放] của “phóng lao”, “phóng tên lửa”, v.v…, vẫn được xem là Hán Việt - ít nhất cũng là về phía nhiều nhà chuyên môn - mặc dù cả hai bên đều thuộc vần ONG. Nếu không tiến hành những thao tác từ nguyên học thích hợp và cần thiết như trên thì nhiều từ Việt gốc Hán - mà “tròng” là một thí dụ tiêu biểu - sẽ bị mất gia phả. Trong “Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt” (NXB Giáo dục, 1995), Nguyễn Tài Cẩn đã nhận xét tại mục A của chương 6 như sau:
“Nhưng đi vào thật chi tiết thì thấy rằng, vì một lẽ này hay lẽ khác, có vài từ gốc Hán cũng phát với tổ hợp phụ âm (consonant cluster - AC), ví dụ blang sách, tlàng hăọc ( = trang sách, trường học)” (Sđd, tr.104-5).
Nguyễn Tài Cẩn chỉ hạn chế sự nhận xét của mình trong phạm vi quyển từ điển của A. de Rhodes nên mới khẳng định “có vài từ gốc Hán cũng phát với tổ hợp phụ âm” chứ thật ra thì đó là một hệ thống cổ mà chính ông cũng đã nhận xét thoáng qua khi nói về hai trường hợp “blang” và “tlàng”. Ông viết:
“Chúng tôi đã khảo sát và thấy rằng đây là những cách đọc không bắt nguồn từ giai đoạn cuối Đưởng, mà bắt nguồn từ những tổ hợp có -r- (tức R sau một phụ âm và trước một nguyên âm - AC) của tiếng Hán thượng cổ. Chúng là những cách đọc Cổ Hán Việt tồn tại song song bên cạnh TR (tức [ʈ] – AC) Hán Việt” (Sđd, chú (1), tr.105).
“Những cách đọc Cổ Hán Việt tồn tại song song bên cạnh TR Hán Việt” mà Nguyễn Tài Cẩn nói đến trên đây thì A. de Rhodes cũng đã nêu lên thành hệ thống trong quyển từ điển của mình khi ông viết tại mục “Tla”:
“(…) Có người nói: tra, tức là đổi l thành r và cũng thông thường như vậy trong các tiếng kế tiếp sau”.
Trong lời dẫn trên, A. de Rhodes không hạn định cụ thể số lượng “các tiếng kế tiếp sau” nhưng quyển từ điển của ông có đến 101 mục từ như thế, từ “Tlà” cho đến “Tlũ, tlẻ tlũ”. Trong 101 mục này, ta còn có thể nhặt ra thêm những trường hợp Cổ Hán Việt sau đây:
- “Tlần: không che đậy phần thân thể phía trên, dầu có che đậy phần giữa thân thể và phần dưới”. Đây chính là tiền thân của “trần”, mà chữ Hán là [陳], nghĩa là “phô ra, bày ra”.
- “Tlàng, bề tlàng: bề dài”. Đây chẳng qua là tiền thân của “trường”, mà chữ Hán là [長], có nghĩa là … dài.
Nếu kể cả hiện tượng biến đổi thanh điệu và/hoặc nguyên âm, ta còn có:
- “Tlàng, tlễ tlàng: chậm trễ” và “Tlễ nãi: biếng nhác”. “Tlễ” chẳng qua là tiền thân của “trệ” [滯] trong “đình trệ”.
- “Tlaõ: trong, bên trong. Trũ. Cùng một nghĩa”. “Tlaõ” chẳng qua là tiền thân của “trũ” (= trung), mà chữ Hán là [中], nghĩa là “trong, giữa”.
- “Tlút linh hồn ra: linh hồn ra khỏi xác, chết”. “Tlút” chẳng qua là tiền thân cùa “trút” (cỏ cây trút lá; trút hơi thở cuối cùng, v.v...) ; cả hai đều là tiền thân của “truất”, mà chữ Hán là [黜], nghĩa là “bỏ đi”.
Những cứ liệu trên đây cho phép ta có thể hoàn toàn yên tâm khẳng định rằng, “lòng” là một từ Việt gốc Hán. Còn “dạ” thì sao? Thì cũng là một từ Việt gốc Hán cực kỳ cổ xưa, là biến thể thanh điệu của chữ “dã” [也], từ lâu đã được mượn âm (giả tá) để đặt ở cuối câu hoặc ngữ đoạn, mà ta thường dịch là “vậy”. Nghĩa thứ 4 của chữ này trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô, 1993) là “nữ tính sinh thực khí”, tức là “cơ quan sinh dục của phụ nữ”. Trong kim văn (chữ trên đồ đồng) thì chữ “dã” thường tượng hình bụng dưới và âm hộ của phụ nữ. Mà về cả ngữ âm lẫn ngữ nghĩa thì từ “dã” của Tàu sang “dạ” của Việt chỉ có… một bước. Dĩ nhiên là ta không nên câu nệ mà nói rằng thế thì “dạ” không thuộc về đàn ông. Chuyện chữ nghĩa đâu có đơn giản và thẳng tuột như thế!
A.C
Từ khóa » Dạ Là Gì Hán Việt
-
Tra Từ: Dạ - Từ điển Hán Nôm
-
Tra Từ: Dạ - Từ điển Hán Nôm
-
Dạ Nghĩa Là Gì Trong Từ Hán Việt? - Từ điển Số
-
Dạ - Wiktionary Tiếng Việt
-
Cách Viết, Từ Ghép Của Hán Tự DẠ 夜 Trang 1-Từ Điển Anh Nhật Việt ...
-
Dạ Là Gì Từ Hán Việt - LuTrader
-
Từ Điển - Từ Dạ Có ý Nghĩa Gì - Chữ Nôm
-
Top 15 Dạ Là Gì Hán Việt
-
Những Lỗi Sai Phổ Biến Khi Dùng Từ Hán Việt - Báo Tuổi Trẻ
-
Dạ - NAVER Từ điển Hàn-Việt
-
Ý Nghĩa Tên Dạ Yến Là Gì? Tên Dạ Yến Có ý Nghĩa Gì Hay Xem Ngay Là ...
-
Ý Nghĩa Tên Xuân Dạ Nguyệt - Tên Con
-
đá - Vietnamese Nôm Preservation Foundation
-
Thành Ngữ Gốc Hán Trong Tiếng Việt - Wikipedia