Lựa Chọn Ngành Sản Phẩm Kích Cầu để đạt Mục Tiêu Tăng Trưởng Tối ưu
Có thể bạn quan tâm
07:28 (GMT+7) Thứ Hai, ngày 23/12/2024 Tìm kiếm ISSN 2815 - 6056 Tìm kiếm Trang chủ Nghiên cứu - trao đổi admin Lựa chọn ngành sản phẩm kích cầu để đạt mục tiêu tăng trưởng tối ưu 03/03/2021 10:02 12.584 lượt xem Cỡ chữ Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933... Thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do đại dịch Covid-19 gây ra Dịch bệnh và sự cần thiết của các biện pháp kích cầu Dịch bệnh Covid-19 có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào suy thoái với tốc độ nhanh và quy mô lớn nhất kể từ cuộc Đại suy thoái 1929 - 1933 và lớn hơn nhiều cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới 2008 - 2009, kéo theo những ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sinh kế của người dân. Nhiều nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng đa chiều, phức tạp (khủng hoảng sức khỏe, khủng hoảng kinh tế và sụt giảm mạnh của giá cả hàng hóa). Căn cứ vào những biện pháp kiểm dịch và sự phát triển của các liệu pháp cũng như vắc-xin điều trị bệnh, các chuyên gia dịch tễ học trên thế giới dự báo dịch Covid-19 còn kéo dài đến hết năm 2021. Do dịch bệnh lan rộng, nên hoạt động sản xuất tại các nước trên thế giới cũng bị đình đốn làm cho chuỗi giá trị sản xuất bị gián đoạn, những ngành sản xuất phụ thuộc đầu vào từ các nước khác lại tiếp tục bị đình đốn. Khi doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, thất nghiệp và các rủi ro trong nền kinh tế gia tăng thì người tiêu dùng có xu hướng tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng để phòng ngừa rủi ro. Đồng thời, nhà đầu tư cũng sẽ thu hẹp đầu tư mà chuyển sang nắm giữ các tài sản an toàn. Sự sụt giảm mạnh đồng thời của tổng cầu và tổng cung sẽ gây ra suy thoái kinh tế sâu. Dự kiến tăng trưởng GDP năm 2020 của Mỹ giảm khoảng 4,3%, khu vực đồng Euro giảm 8,3%, Nhật Bản giảm tới 5,3%; các nước ASEAN-5 giảm khoảng 3,4%, Trung Quốc tăng trưởng khoảng 1,9% và cả thế giới giảm 4,4% (nguồn IMF). Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Việt Nam. Tổng cầu suy giảm mạnh từ cả đầu tư, tiêu dùng nội địa và nhu cầu hàng hóa của thế giới do các biện pháp đóng cửa quốc gia, giãn cách xã hội, cách ly, phong tỏa, trong khi các chính sách chuyển hướng giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài chưa có tác động đáng kể. Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp tài khóa, tiền tệ, tín dụng và đầu tư nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến phức tạp cả trong nước và trên thế giới, tác động sâu đến nền kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2020 mặc dù đạt 2,91% nhưng thấp hơn rất nhiều so với xu hướng tăng trưởng của Việt Nam trong 35 năm đổi mới. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng nhanh chóng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế sau dịch Covid-19. Trong nhóm giải pháp đó, kích cầu là một trong những giải pháp quan trọng, giúp huy động nguồn lực trong nước, tạo động lực và nền tảng để khôi phục và mở rộng cầu quốc tế. Một điểm cần lưu ý, Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở cao (tỷ lệ xuất khẩu/GDP lên tới trên 200%), cầu xuất khẩu suy giảm đã ảnh hưởng mạnh tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, từ đó làm giảm việc làm và thu nhập của các ngành hàng xuất khẩu chủ lực như nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giày, máy tính và linh phụ kiện, dẫn tới cầu đầu tư khu vực kinh tế tư nhân và khu vực đầu tư nước ngoài suy giảm mạnh. Tuy nhiên, các biện pháp kích cầu trong nước cũng sẽ ít tác dụng đối với kích cầu xuất khẩu khi các nước đối tác vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, dẫn tới cầu đối với các mặt hàng không thiết yếu khó tăng cao. Bên cạnh đó, nhiều ngành hàng của Việt Nam phụ thuộc lớn vào nhập khẩu cho sản xuất và tiêu dùng, do đó, nếu kích cầu vào những ngành này cũng khó mang lại hiệu quả cao vì chi phí kích cầu sẽ chạy ra bên ngoài. Khác với các cuộc khủng hoảng trước, đại dịch Covid-19 xảy ra khi các nền kinh tế và sức khỏe của doanh nghiệp vẫn trong tình trạng tốt là nền tảng quan trọng để sử dụng không gian chính sách hiện có, thực thi các giải pháp ứng phó, ít nhất là trong ngắn - trung hạn. Các giải pháp kích cầu hiện nay đang tập trung chủ yếu vào giải ngân đầu tư công và hỗ trợ theo đối tượng mà chưa có các giải pháp hỗ trợ theo ngành, lĩnh vực. Vấn đề đặt ra là cần lựa chọn các ngành, lĩnh vực nào để kích cầu mang lại hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế trong bối cảnh tất cả các ngành, lĩnh vực đều đang gặp khó khăn, dịch bệnh có thể kéo dài, nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn hẹp, không thể đầu tư dàn trải, cào bằng cho tất cả các ngành, lĩnh vực hay đối tượng bị tổn thương. Do đó, thực hiện các biện pháp kích cầu cần phải xác định được những ngành ưu tiên, trọng điểm để kích cầu một cách hiệu quả nhất: Chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả tác động lớn nhất. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề xuất một số phương án kích cầu ưu tiên, trọng điểm và tính toán chi phí kích cầu cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng tích cực trong bối cảnh hiện nay. Về các giải pháp kích cầu đã thực hiện Về nguyên tắc, có ba nhóm giải pháp kích cầu cơ bản: (i) Nhà nước hỗ trợ trực tiếp cho người dân bằng tiền; (ii) Nhà nước trợ giá, giảm thuế, giảm chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp; (iii) Nhà nước đứng ra mua các sản phẩm, dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp. Đối với nhóm giải pháp thứ nhất, Chính phủ đã thực hiện gói 62 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ, tuy nhiên, tỷ lệ giải ngân khá thấp1 và chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Đối với nhóm giải pháp thứ hai, Chính phủ cũng đã triển khai các chính sách ưu đãi như cắt giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ; thực hiện các chương trình ưu đãi; giãn, hoãn các khoản phải nộp của doanh nghiệp về thuế, tiền thuê đất; cắt giảm giá điện, xăng dầu, dịch vụ,... cho một số đối tượng ưu tiên;... Việc Chính phủ cân nhắc, xem xét bảo lãnh và/hoặc trợ giúp một số doanh nghiệp lớn gặp khó khăn cũng là điều có thể lý giải được, bởi các doanh nghiệp lớn là khách hàng quan trọng của nhiều doanh nghiệp nhỏ, có khả năng tạo sức lan tỏa và động lực cho các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay khi hầu hết các doanh nghiệp giảm mạnh doanh thu, lợi nhuận và thua lỗ, các biện pháp về giảm thuế thu nhập nhìn chung không có tác dụng lớn như kỳ vọng. Cái khó khăn và cần nhất đối với doanh nghiệp lúc này là hỗ trợ vốn cho duy trì sản xuất kinh doanh liên tục, song đến nay, ngoài các chính sách về thuế, phí và các biện pháp từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD) thì Nhà nước chưa có chính sách, biện pháp hỗ trợ tài chính đủ lớn để doanh nghiệp có được nguồn vốn cần thiết nhằm không chỉ vượt qua giai đoạn khó khăn này, mà còn tạo thế, lực, tận dụng cơ hội phát triển bứt phá cho chu kỳ kinh tế mới sau khi dịch bệnh qua đi. Trong khi đó, chính sách giảm lãi suất chưa thực sự mang lại hiệu quả kích thích doanh nghiệp vay vốn cho sản xuất kinh doanh như mong muốn, bởi nhu cầu vay mới của doanh nghiệp thấp hoặc doanh nghiệp chưa đáp ứng các tiêu chuẩn vay2. Bên cạnh đó, khả năng giảm lãi suất cho các khoản nợ hiện hành cũng rất hạn chế do: (1) Chi phí huy động vốn trước đây của các ngân hàng đã cao và các nguồn vốn huy động mới với lãi suất thấp hơn vẫn còn ít, bao gồm cả nguồn tái cấp vốn của NHNN; (2) Năng lực tài chính, lợi nhuận của các ngân hàng còn hạn chế để hỗ trợ khách hàng; (3) Một số ngân hàng nhỏ, khả năng huy động vốn thấp vẫn phải cạnh tranh huy động vốn bằng lãi suất cao; (4) Tình hình tài chính, hoạt động của doanh nghiệp ngày càng khó khăn, rủi ro tín dụng đang gia tăng thì các ngân hàng khó giảm lãi suất cho vay để bù đắp rủi ro cao; (5) Các ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn hơn về tài chính, lợi nhuận giảm mạnh do chi phí dự phòng rủi ro cho các khoản nợ, tài sản giảm chất lượng tăng mạnh nên khó có điều kiện chia sẻ khó khăn cho các khách hàng vay, nếu nguồn vốn huy động của các ngân hàng không sớm được cơ cấu lại bằng các nguồn vốn có chi phí thấp, nhất là nguồn vốn hỗ trợ từ NHNN với lãi suất thấp. Trong bối cảnh đó, kích cầu cũng có thể được thực hiện thông qua giảm thuế giá trị gia tăng (VAT), đem lại lợi ích trực tiếp cho khách hàng và người tiêu dùng; đồng thời, gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp giải phóng hàng hóa, tránh tình trạng tồn kho và kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều lưu ý là cần xác định thời gian áp dụng chính sách này một cách chặt chẽ, căn cứ vào diễn biến dịch bệnh và tình hình kinh tế - xã hội. Trên thực tế, trong bối cảnh Covid-19, nhiều quốc gia thực hiện các giải pháp nhằm đảm bảo thu nhập cho người dân và sử dụng VAT như công cụ của chính sách tài khóa. Chẳng hạn, ngày 12/6/2020, Chính phủ Đức đã quyết định phê chuẩn việc tạm thời giảm VAT nhằm khuyến khích và tăng cầu tiêu dùng của người dân3. Theo tính toán của Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kết quả cho thấy việc giảm VAT có tác động tích cực tới các chỉ tiêu vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam như tổng cầu cuối cùng, GDP và tiêu dùng. Cụ thể, trong ngắn hạn, việc giảm VAT 1% sẽ làm các yếu tố như tổng cầu cuối cùng tăng 0,42 điểm %, GDP tăng 0,13 điểm % và tiêu dùng tăng 0,23 điểm %. Nếu VAT giảm 2% sẽ có tác động tổng cầu cuối cùng tăng 0,76 điểm %, GDP tăng 0,23 điểm % và tiêu dùng tăng 0,42 điểm %. Trong trung và dài hạn, với giả thiết thuế VAT giảm từ 1% - 2% có thể làm tổng cầu cuối cùng tăng 0,32 - 0,58 điểm %, GDP tăng 0,09 - 0,15 điểm % và tiêu dùng tăng 0,1 - 0,2 điểm %. (Hình 1) Đối với nhóm giải pháp thứ ba, Chính phủ cũng đã triển khai nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư công và kết quả cả năm 2020 giải ngân đạt hơn 91% kế hoạch cả năm, cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2019, nhưng vẫn chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, đặc biệt các dự án sử dụng vốn ODA có tỷ lệ giải ngân rất thấp. Tác động của giải ngân vốn đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế được Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu (Hình 2). Đánh giá chung, các giải pháp kích cầu nêu trên chỉ mang tính tổng thể, nếu thiếu một kế hoạch cụ thể có chọn lọc, trọng tâm thì hiệu quả sẽ không cao mà chi phí lớn. Ví dụ, việc giảm đồng loạt VAT có thể có tác dụng kích cầu nền kinh tế nhưng chi phí đối với ngân sách sẽ rất lớn, hiệu quả không cao do có rất nhiều ngành hàng việc giảm thuế không ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế như những ngành có cầu không co giãn, những ngành chủ yếu nhập khẩu, ngành bị suy giảm do lo sợ dịch bệnh (như dịch vụ ăn uống, lưu trú) chứ không phải vì cầu yếu,... Tương tự, hiệu quả của đầu tư công, chi tiêu công trong bối cảnh hiện nay sẽ cao hơn nhiều nếu vốn nhà nước được sử dụng đúng mục tiêu, đúng những lĩnh vực có tác động lớn đến nền kinh tế. Chính vì lý do này, chúng ta cần có một kế hoạch kích cầu chi tiết hơn, cụ thể hơn. Bên cạnh việc kích cầu trong nước, Chính phủ quan tâm đến các giải pháp kích cầu xuất khẩu Xác định ngành mục tiêu để kích cầu Nguyên tắc xác định ngành mục tiêu Căn cứ vào số liệu của Bảng I-O (bảng cân đối liên ngành) cập nhật đến năm 2016 có thể tính toán các hệ số liên kết ngược4, xuôi5 cho 164 phân ngành trong nền kinh tế6, và các tỷ trọng nhập khẩu so với tiêu dùng, hệ số lan tỏa kinh tế7, tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành đó trong nền kinh tế, tỷ trọng hàng hóa đó dành cho tiêu dùng cuối cùng so với phần dành cho quá trình sản xuất. Dựa trên các chỉ số này, các nguyên tắc lựa chọn ngành ưu tiên kích cầu được xác định như sau: (1) Có hệ số liên kết ngược lớn hơn mức trung bình của cả nền kinh tế; (2) Có hệ số lan tỏa kinh tế lớn. Bên cạnh đó, để hiệu quả kích cầu cao thì những ngành sau sẽ không được ưu tiên lựa chọn: Những ngành nhập khẩu quá nhiều (nhằm hướng tới mục tiêu kích cầu trong nước và xuất khẩu thay vì kích thích nhập khẩu; trong khuôn khổ bài viết này, những ngành có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên 50% đều không được chọn); những ngành có tỷ trọng quá nhỏ so với nền kinh tế (vì khi chi phí quản lý gói kích cầu lớn hơn hiệu quả mang lại), những ngành có độ co giãn của cầu theo giá thấp (tức là giá tăng hay giảm cũng không ảnh hưởng đến lượng cầu của hàng hóa đó), hoặc những ngành mà chỉ một nhóm nhỏ người được hưởng lợi (kích cầu phải có lợi cho số đông người). Đồng thời, những ngành có số lượng lao động lớn, những ngành có tác dụng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng cũng được ưu tiên xem xét lựa chọn. Đề xuất các ngành ưu tiên hỗ trợ Đối chiếu theo nguyên tắc lựa chọn ngành ưu tiên kích cầu ở trên, ta có bảng nhóm các ngành sản phẩm có hệ số lan tỏa tốt và hệ số liên kết ngược cao. (Bảng 1) Các nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP nhưng hệ số lan tỏa bình quân đạt khoảng 4,68. Như vậy, nếu tăng chi tiêu công, đầu tư công cho các ngành này 1 đồng thì có thể làm tăng GDP lên khoảng 4,68 đồng. Như vậy, với GDP năm 2019 (theo giá so sánh năm 2010) là 3.783.546 tỷ đồng, để tăng thêm 1 điểm % GDP thì trung bình cần chi phí kích cầu khoảng 81 nghìn tỷ đồng. Để GDP tăng thêm 3 điểm % thì chi phí kích cầu cần ít nhất là 243 nghìn tỷ đồng. Điều đáng lưu ý là những ngành chăn nuôi, chế biến nông sản và thủy sản đều có hệ số lan tỏa cao. Nhóm ngành này chiếm tỷ trọng khoảng 6,1% GDP8, hệ số liên kết ngược là 1,25 (cao hơn mức bình quân của cả nước là 25%) và hệ số lan tỏa khoảng 5,1. Việc kích cầu vào nhóm này vừa có tác dụng hỗ trợ các hoạt động nông nghiệp, vừa là bệ đỡ cho những nhóm lao động dễ bị tổn thương trong nền kinh tế. Hiện ngành nông, lâm, thủy sản đang tạo 34,5% số việc làm cho toàn nền kinh tế, do đó, việc Nhà nước kích cầu vào nhóm này không chỉ có hiệu quả kinh tế mà còn có hiệu quả về mặt xã hội. Nhóm ngành gộp xây dựng và dịch vụ xây dựng có hệ số lan tỏa 4,47; hệ số liên kết ngược 1,14, tỷ lệ nhập khẩu/tiêu dùng xấp xỉ bằng 0, tỷ trọng trong tổng GDP cả nước khoảng 4,36%9. Xét về lao động, theo số liệu điều tra doanh nghiệp năm 2018, toàn bộ phân ngành xây dựng và dịch vụ xây dựng chiếm khoảng 11,33% tổng lao động chính thức của cả nước (nếu tính cả khu vực phi chính thức thì ngành xây dựng chiếm 8,4% lao động cả nước). Do đó, nếu ngành này tăng trưởng tốt, sẽ tác động tích cực tới kích thích tăng trưởng của các ngành khác cũng như mang lại hiệu quả về mặt sử dụng lao động và tạo việc làm. Đồng thời, đây cũng là nhóm ngành rất phù hợp để tăng chi tiêu công, vừa có hệ số lan tỏa lớn, vừa tạo đột phá về phát triển hạ tầng. Nhóm ngành dịch vụ vận tải mặc dù có tỷ trọng trong GDP chỉ chiếm khoảng 2,17%10 nhưng lại có hệ số liên kết ngược và hệ số lan tỏa lớn (1,18 và 4,86). Đây cũng là ngành có tính chất hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp (liên kết xuôi lớn) và tạo ra 3,5% việc làm cho toàn nền kinh tế. Việc kích cầu hỗ trợ nhóm ngành này không chỉ có ý nghĩa kích cầu thông qua liên kết ngược mà còn hỗ trợ các ngành nghề khác giảm chi phí sản xuất, kinh doanh vượt qua khó khăn do dịch bệnh. Tương tự, ngành dịch vụ viễn thông là ngành then chốt trong việc thực hiện chiến lược kinh tế số cũng có hệ số lan tỏa lớn (4,18). Kích cầu và hỗ trợ ngành viễn thông không chỉ có tác động trong ngắn hạn mà còn có ý nghĩa trong dài hạn tương tự như nhóm ngành xây dựng. Nhóm ngành khác như dệt may, da giày, vừa có hệ số lan tỏa lớn, vừa là những ngành tạo việc làm chính cho nền kinh tế. Ngành dệt may, da giày là nhóm ngành sử dụng nhiều lao động (ví dụ ngành sản xuất trang phục chiếm khoảng 14,24% tổng lao động, ngành sản xuất giày dép chiếm 7,89% lao động trong doanh nghiệp). Đây cũng là nhóm hàng có định hướng xuất khẩu với tỷ lệ lượng tiêu dùng trong nước rất khiêm tốn so với xuất khẩu (chẳng hạn, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng trang phục gấp 7,1 lần so với tiêu dùng trong nước; đối với nhóm ngành giày dép tỷ lệ này là 6,5 lần). Tuy nhiên, trong phân ngành dệt may có một số nhóm ngành có hệ số nhập khẩu cao (ví dụ: ngành sản phẩm dệt khác nhập khẩu gấp 2,5 lần tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu; ngành sợi, vải dệt thoi, sản phẩm dệt hoàn thiện nhập khẩu gấp hơn 2 lần), do đó trước mắt chỉ tập trung kích cầu vào những phân ngành có tỷ lệ nhập khẩu thấp trong nhóm này như: Trang phục các loại bao gồm trang phục bằng vải dệt thoi, dệt kim, đan móc, da thuộc, da tổng hợp (nhập khẩu 3%, hệ số lan tỏa 4,54); giầy, dép và dịch vụ sản xuất giầy, dép (nhập khẩu 4%, hệ số lan tỏa 4,24). Giải pháp căn bản vẫn là đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ, khơi thông xuất khẩu, tìm kiếm đầu ra. Với cách thức tiếp cận theo từng ngành như tính toán trên đây, để tăng trưởng thêm 3 điểm % so với kịch bản cơ sở (Chính phủ dự tính là 2%) thì gói kích cầu cần khoảng 250 nghìn tỷ đồng. Như vậy, nếu Chính phủ có thể thực sự giải ngân hết nguồn vốn đầu tư công sẵn có cho năm 2020 theo cách thức hiệu quả nhất thì việc duy trì tăng trưởng khoảng 5% là tương đối khả thi. Đề xuất các giải pháp hỗ trợ Như đã phân tích ở trên, các giải pháp kích cầu cần tập trung vào những ngành có hệ số lan tỏa lớn nhưng tỷ trọng nhập khẩu thấp. Tuy nhiên, với từng các nhóm ngành sản phẩm khác nhau cần có cách tiếp cận khác nhau. Trong đó, đối với những ngành sản phẩm có thể lưu trữ hoặc có tính chất công thì hiệu quả nhất là Chính phủ đứng ra mua các sản phẩm này để tăng cầu, ví dụ tăng đầu tư công cho ngành giao thông vận tải, ngành năng lượng, nông nghiệp,... Xây dựng nhà ở xã hội, các công trình xây dựng chuyên dụng,... chính là để kích cầu theo hướng này. Đối với các sản phẩm công nghiệp có tính lưu trữ lâu dài, doanh nghiệp có thể ký hợp đồng mua lại với Chính phủ, theo đó, trước mắt, Chính phủ tăng mua các sản phẩm của doanh nghiệp để tăng nhu cầu sản xuất cho doanh nghiệp, và khi nền kinh tế trở lại bình thường, doanh nghiệp cam kết sẽ mua lại các sản phẩm mà Chính phủ đã mua trước đó. Đối với các sản phẩm còn lại (nông sản, dịch vụ,...) thì cách thức hiệu quả nhất là giảm thuế và giảm phí cho doanh nghiệp. Các giải pháp như giảm VAT, giảm lãi suất, giảm chi phí tiếp cận dịch vụ công của nhà nước,... là cần thiết. Số liệu tại Bảng 2 cho thấy, những ngành sản phẩm của nền kinh tế nước ta có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu trên 50% và tỷ trọng các ngành này trong nền kinh tế chiếm khoảng 30% GDP. Đặc biệt, một số ngành trong nhóm này có hệ số lan tỏa cao; trong đó có một số ngành có hệ số liên kết ngược cao hơn mức trung bình của nền kinh tế và có hệ số lan tỏa bình quân là 5. Cụ thể, có một số ngành quan trọng đối với sản xuất và đời sống như: Plastic và cao su tổng hợp dạng nguyên sinh, máy chuyên dụng, nguyên nhiên liệu đầu vào, sản phẩm dệt, sản phẩm kim loại màu, kim loại đúc sẵn, dầu mỡ động thực vật chế biến, sản phẩm linh kiện điện tử, máy tính và thiết bị ngoại vi máy tính, thiết bị điện, dây dẫn, xe có động cơ (trừ ô tô),… có hệ số lan tỏa và liên kết ngược cao, đồng nghĩa với khả năng tạo ra hiệu ứng lan tỏa tốt với tăng trưởng của các ngành khác và toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, những ngành này lại có tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng và xuất khẩu cao, tỷ lệ tiêu dùng so với chi phí đầu vào trung gian thấp, đồng nghĩa với việc: (1) Phần lớn nhập khẩu các nhóm hàng này phục vụ cho hoạt động sản xuất thay vì tiêu dùng cuối cùng; (2) Các nhóm hàng này phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Cụ thể, với nhóm hàng máy chuyên dụng, hệ số lan tỏa là 6,31; hệ số liên kết ngược là 1,43, tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 10% so với chi phí đầu vào trung gian, nhưng tỷ lệ nhập khẩu lớn gấp 8,75 lần so với tiêu dùng và xuất khẩu. Tương tự, nhóm ngành sản phẩm linh kiện điện tử, máy tính và thiết bị ngoại vi có hệ số lan tỏa là 5,09; hệ số liên kết ngược là 1,23; tỷ lệ tiêu dùng chiếm khoảng 42% so với chi phí sản xuất trung gian; nhưng nhập khẩu lớn gấp 1,61 lần so với tiêu dùng. Đối với nhóm ngành dầu, mỡ động, thực vật chế biến, hệ số lan tỏa lên tới 11,97; hệ số liên kết ngược 2,00; tỷ lệ tiêu dùng/chi phí đầu vào trung gian chỉ 0,24; nhưng tỷ lệ nhập khẩu so với tiêu dùng và xuất khẩu lại gấp tới hơn 1,61 lần. Những chỉ số này cho thấy, nền kinh tế nước ta rất dễ bị tổn thương bởi các cú sốc từ bên ngoài, sản xuất phụ thuộc nặng vào nhập khẩu, đặc biệt là những ngành có độ lan tỏa lớn đều phụ thuộc vào nhập khẩu. Đây chính là dư địa tăng trưởng của nền kinh tế nước ta trong những năm tới đây: Tự chủ được nguyên nhiên liệu sản xuất được 1 đồng các ngành hàng nhập khẩu này có thể tạo ra 5 đồng GDP cho nền kinh tế. Do đó, trước mắt cần lựa chọn những ngành có khả năng thay thế nhập khẩu nhất (những ngành Việt Nam có lợi thế, có năng lực có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu) trong các ngành ở Bảng 2 để thực hiện các chính sách nội địa hóa. Việc thay thế dần các sản phẩm này không chỉ có hiệu quả kinh tế cao mà còn làm tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế trước nguy cơ đứt gãy nguồn cung trong tương lai. Kết luận Đại dịch Covid-19 đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng đối với kinh tế thế giới và nước ta. Nền kinh tế thế giới được dự đoán sẽ suy thoái trong dài hạn, nhu cầu của các nước nhập khẩu chủ yếu hàng hóa từ Việt Nam khó phục hồi trong ngắn hạn do đó, trong thời gian tới, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Tăng đầu tư công có thể làm gia tăng tổng cầu trong ngắn hạn thông qua khuyến khích tăng đầu tư tư nhân và giảm thất nghiệp, giúp duy trì sản xuất để đảm bảo việc làm và thu nhập cho người lao động, nhất là trong các ngành có tỷ trọng lao động cao đang chịu suy giảm nặng nề từ xuất khẩu đó là nông nghiệp, công nghiệp chế biến (dệt may, da giày), xây dựng. Tăng đầu tư công vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế cũng sẽ giúp tăng sản lượng của các ngành trong dài hạn nhờ vào nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Bài viết chỉ ra rằng, nếu sử dụng nguồn lực hiện có vào đúng ngành, lĩnh vực và đúng phương thức thì hiệu quả kinh tế - xã hội sẽ tăng lên và việc duy trì tăng trưởng khoảng 4 - 5% là có thể đạt được. Bên cạnh đó, đối với một số ngành cần có các chính sách thay thế dần nhập khẩu để tăng hiệu quả của nền kinh tế và giảm bớt tính dễ tổn thương của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là rủi ro đứt gãy nguồn cung. 1 Báo cáo Kinh tế vĩ mô Quý II/2020 của Ban Kinh tế Trung ương. 2Có tài sản đảm bảo hoặc có tình hình tài chính hoặc phương án kinh doanh tốt,.... 3 Theo đó, VAT sẽ được giảm xuống còn 16% so với mức 19% trước đó trong vòng 6 tháng kể từ ngày 1/7. Ngoài ra, mức VAT áp dụng cho hầu hết thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu cũng được giảm từ 7% xuống 5%. 4 Liên kết ngược dùng để đo mức độ quan trọng của một ngành với tư cách là bên sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ làm đầu vào từ toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao, có nghĩa là liên kết ngược của ngành đó càng lớn, khi ngành đó phát triển sẽ kéo theo sự tăng trưởng của toàn bộ các ngành cung ứng sản phẩm vật chất và dịch vụ của toàn bộ hệ thống. 5 Liên kết xuôi hàm ý mức độ quan trọng của một ngành như là nguồn cung cấp sản phẩm vật chất và dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế. Tỷ lệ này lớn hơn 1 và càng cao có nghĩa liên kết xuôi của ngành đó càng lớn, càng thể hiện sự cần thiết của ngành đó đối với các ngành còn lại. 6 Tác giả áp dụng phương pháp tính toán Rasmussen. Do cho đến nay vẫn chưa có Bảng cân đối liên ngành mới, nên tác giả sử dụng Bảng cân đối liên ngành gần nhất là năm 2016. Mặc dù cơ cấu nền kinh tế năm 2020 có thể khác biệt so với năm 2016, tuy nhiên, theo lý thuyết thì sử dụng Bảng I-O trong vòng 5 năm để tính toán các chỉ số liên ngành là có thể chấp nhận được. 7 Tăng cầu tiêu dùng cuối cùng của một ngành lên một đơn vị thì sẽ làm cầu hàng hóa của các ngành khác trong nền kinh tế tăng lên bao nhiêu đơn vị. 8 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này. 9 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này. 10 Chỉ tính các ngành được chọn trong nhóm ngành này. TS. Nguyễn Tú Anh Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp - Ban Kinh tế Trung ương Tạp chí Ngân hàng số 3+4/2021 Chia sẻ In trang Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu Bình luận Đóng lại Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập Các tin tức khác Xem tất cả Nhân tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng tài chính xanh tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 18/12/2024 10:19 299 lượt xem Tài chính xanh là công cụ giúp các quốc gia không chỉ đạt được mục tiêu kinh tế mà còn bảo vệ môi trường, thực hiện trách nhiệm xã hội hướng đến phát triển bền vững. Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng - Thách thức và một số giải pháp nâng cao hiệu quả 17/12/2024 08:05 351 lượt xem Bảo đảm an toàn hệ thống thông tin trong hoạt động ngân hàng là yêu cầu cần thiết để bảo vệ tài sản, duy trì lòng tin của khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển bền vững trong môi trường kinh doanh đầy thách thức hiện nay. Kinh tế Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025 16/12/2024 21:30 6.154 lượt xem Năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Mặc dù bối cảnh quốc tế và trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Lạm phát tăng cao, xung đột địa chính trị kéo dài, sự tăng trưởng chậm lại của các nền kinh tế lớn, nhưng kinh tế Việt Nam đã vượt qua khó khăn để đạt được những thành tựu nổi bật. Thực trạng và đề xuất phát triển thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam 12/12/2024 09:54 640 lượt xem Thị trường trái phiếu xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể trong những năm gần đây, tuy nhiên vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Xếp hạng tín dụng khách hàng cá nhân với khai phá dữ liệu, thuật toán C4.5 10/12/2024 11:07 526 lượt xem Khai phá dữ liệu (Data Mining - DM) là khái niệm rộng và có thể gây khó khăn cho các nhà nghiên cứu không chuyên sâu về công nghệ thông tin. Điều quan trọng là phải nắm được nguyên lý, khái niệm liên quan đến DM, từ đó, định hướng mục tiêu và ứng dụng DM trong từng lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Thực trạng công bố thông tin môi trường, xã hội và quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam 09/12/2024 15:59 477 lượt xem Dựa trên cơ sở bộ tiêu chuẩn về Báo cáo phát triển bền vững (GRI) và các nghiên cứu tiền nhiệm, tác giả đã xây dựng bảng tham chiếu để đánh giá mức độ công bố thông tin ESG của ngân hàng thương mại. Mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp và khuyến nghị 04/12/2024 08:38 799 lượt xem Mục tiêu nghiên cứu trong bài viết này về mối quan hệ giữa mức độ thực hiện quy định thanh khoản ngân hàng theo Basel III với một số giải pháp theo phương pháp tiếp cận định lượng, trên cơ sở kết quả thu được, bài viết đưa ra một số khuyến nghị. Hạch toán quyền rút vốn đặc biệt: Khuôn khổ, các yếu tố chính và một số biện pháp giải quyết vướng mắc hiện nay 03/12/2024 08:26 545 lượt xem Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) là tài sản dự trữ quốc tế được Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) tạo ra nhằm bổ sung dự trữ chính thức của các quốc gia thành viên... Tác động của quy mô hoạt động đến lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam 28/11/2024 08:54 1.019 lượt xem Quy mô ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện hiệu quả tài chính, đồng thời phản ánh năng lực, sức mạnh và vị thế của ngân hàng trên thị trường. Hoán đổi nợ xanh: Cầu nối mới cho tài chính khí hậu và phát triển bền vững 27/11/2024 11:42 668 lượt xem Bài viết tập trung phân tích cơ chế hoạt động, lợi ích của hoán đổi nợ xanh, những thách thức và giải pháp để triển khai mô hình hoán đổi nợ lấy dự án xanh tại Việt Nam. Cải thiện tín nhiệm doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã, trang trại và hộ nông dân trong thu hút vốn tín dụng chính sách, phát triển sản xuất, kinh doanh 25/11/2024 09:52 660 lượt xem Cải thiện tín nhiệm là một giải pháp căn cơ, dài hạn, không chỉ giúp doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã (HTX), trang trại và hộ nông dân tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách, mà còn nâng cao vị thế, uy tín của các tổ chức này với đối tác kinh doanh và những bên liên quan, góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh bền vững. Sự hài lòng trực tuyến trong ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng điện tử tại Việt Nam 19/11/2024 09:44 822 lượt xem Sự phát triển nhanh chóng của các hệ thống điện tử và Internet đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ nói chung, dịch vụ tài chính, ngân hàng nói riêng... Đánh giá sức khỏe tài chính các ngân hàng Việt Nam theo phương pháp phân tích cụm 18/11/2024 11:30 1.222 lượt xem Sức khỏe tài chính của các ngân hàng rất quan trọng đối với nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 xảy ra do sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng đối với ngành nông nghiệp và những vấn đề đặt ra 11/11/2024 08:25 1.108 lượt xem Thông qua phân tích quy mô và biến động dư nợ tín dụng nông nghiệp giai đoạn 2014 - 2023, bài viết chỉ ra những kết quả tích cực và một số hạn chế trong tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với ngành sản xuất quan trọng này. Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tại ngân hàng thương mại: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả 05/11/2024 08:10 1.377 lượt xem Hiện nay, công tác bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực được các NHTM chú trọng đầu tư phát triển, tuy nhiên, nguồn nhân lực của nhiều ngân hàng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu về chất lượng, ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của các ngân hàng. Đường sắt cao tốc - biểu tượng và động lực của kỷ nguyên vươn mình 12/12/2024 10:42 Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề 'Kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam' 26/11/2024 09:53 Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là bước phát triển tất yếu, bứt phá và tăng tốc 15/11/2024 21:13 Tuyên bố chung giữa nước Cộng hòa Chile và nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam 12/11/2024 14:09 Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Điều lệ Đảng 12/11/2024 14:15 Bài học Cách mạng Tháng Mười Nga trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc 11/11/2024 15:54 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc 05/11/2024 16:17 Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: 'Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả' 06/11/2024 16:31 Xem tất cả Giá vàngXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày) Lãi SuấtXem chi tiết (Cập nhật trong ngày) Ngân hàng KKH 1 tuần 2 tuần 3 tuần 1 tháng 2 tháng 3 tháng 6 tháng 9 tháng 12 tháng 24 tháng Vietcombank 0,10 0,20 0,20 - 1,60 1,60 1,90 2,90 2,90 4,60 4,70 BIDV 0,10 - - - 1,70 1,70 2,00 3,00 3,00 4,70 4,70 VietinBank 0,10 0,20 0,20 0,20 1,70 1,70 2,00 3,00 3,00 4,70 4,80 ACB 0,01 0,50 0,50 0,50 2,30 2,50 2,70 3,50 3,70 4,40 4,50 Sacombank - 0,50 0,50 0,50 2,80 2,90 3,20 4,20 4,30 4,90 5,00 Techcombank 0,05 - - - 3,10 3,10 3,30 4,40 4,40 4,80 4,80 LPBank 0.20 0,20 0,20 0,20 3,00 3,00 3,20 4,20 4,20 5,30 5,60 DongA Bank 0,50 0,50 0,50 0,50 3,90 3,90 4,10 5,55 5,70 5,80 6,10 Agribank 0,20 - - - 1,70 1,70 2,00 3,00 3,00 4,70 4,80 Eximbank 0,10 0,50 0,50 0,50 3,10 3,30 3,40 4,70 4,30 5,00 5,80 Liên kết website -- Chọn liên kết -- Ngân hàng Nhà nước Việt NamGiáo dục Tài chínhThời báo Ngân hàngChính phủThị trường tài chính tiền tệ Bình chọn trực tuyến Nội dung website có hữu ích với bạn không? Rất hay và hữu ích Khá hữu ích Bình thường Bình chọn Xem kết quả Kết quả Nội dung website có hữu ích với bạn không? Tổng cộng: phiếu Địa chỉ: Số 64 Nguyễn Chí Thanh, Phường Láng Thượng, Quận Đống Đa, Hà Nội Điện thoại: 024.38354807 - 024.39392184 - 024.39392187 Email: tapchidientu_tcnh@sbv.gov.vn Website: www.tapchinganhang.gov.vn - www.tapchinganhang.com.vn Chỉ được phát hành lại thông tin từ website này khi có sự đồng ý bằng văn bản của Tạp chí Ngân hàng TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ NGÂN HÀNG Giấy phép hoạt động Tạp chí in và Tạp chí điện tử số 484/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 28/07/2021 Phó Tổng Biên tập phụ trách: Nguyễn Thị Thanh Bình Phó Tổng Biên tập: Nguyễn Thanh Nghị Liên hệ Phát hành - Quảng cáo Copyright © 2022 Tapchinganhang.gov.vn. Bảo lưu mọi quyền Giới thiệu tòa soạn Tổng truy cập: 36.723.362 Mạng xã hội
Giá vàng - Xem theo ngày
Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
81,600
83,600
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
81,600
83,600
Vàng SJC 5c
81,600
83,620
Vàng nhẫn 9999
81,600
83,400
Vàng nữ trang 9999
81,500
83,000
Ngoại tệXem chi tiết Tỷ giá - Xem theo ngàyNgân Hàng | USD | EUR | GBP | JPY | ||||
Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | Mua vào | Bán ra | |
Vietcombank | 25,153 | 25,483 | 26,041 | 27,469 | 31,401 | 32,736 | 158.95 | 168.19 |
BIDV | 25,183 | 25,483 | 26,192 | 27,397 | 31,737 | 32,670 | 160.03 | 167.75 |
VietinBank | 25,180 | 25,483 | 26,272 | 27,472 | 31,695 | 33,705 | 161.47 | 169.22 |
Agribank | 25,210 | 25,483 | 26,181 | 27,385 | 31,604 | 32,695 | 160.79 | 168.44 |
Eximbank | 25,170 | 25,483 | 26,272 | 27,228 | 31,706 | 32,816 | 161.8 | 167.71 |
ACB | 25,190 | 25,483 | 26,288 | 27,190 | 31,818 | 32,778 | 161.82 | 168.21 |
Sacombank | 25,210 | 25,483 | 26,231 | 27,206 | 31,686 | 32,853 | 161.86 | 168.91 |
Techcombank | 25,222 | 25,483 | 26,070 | 27,413 | 31,464 | 32,808 | 158.16 | 170.62 |
LPBank | 25,190 | 25,485 | 26,543 | 27,441 | 32,072 | 32,600 | 162.71 | 169.79 |
DongA Bank | 25,220 | 25,483 | 26,310 | 27,150 | 31,740 | 32,770 | 160.10 | 167.80 |
Từ khóa » Mục Tiêu Suy Giảm Là Gì
-
Mục Tiêu Suy Giảm: Sứ Mệnh: - Tài Liệu Text - 123doc
-
Chiến Lược Suy Giảm
-
Chiến Lược Suy Giảm
-
Chiến Lược Cắt Giảm Là Gì? Đặc Trưng, Trường Hợp Sử Dụng?
-
Thế Nào Là Suy Giảm Hệ Miễn Dịch? | Vinmec
-
Suy Giảm Thị Lực: Những điều Cần Biết | Vinmec
-
Suy Giảm Giá Trị Tài Sản Theo IAS 36 (bài 1) - KPMG International
-
Làm Gì Trong Suy Thoái? - VnEconomy
-
Suy Thoái Kinh Tế – Wikipedia Tiếng Việt
-
Người Bị Suy Giảm Miễn Dịch Và Covid-19 - Cần Lưu ý Gì?
-
Các Nền Kinh Tế Mới Nổi Phục Hồi Yếu Làm Chậm Tốc độ Tăng Trưởng ...
-
Làm Thế Nào để Chiến Lược Tăng Trưởng Của Doanh Nghiệp Có Thể đi ...
-
Ba Mục Tiêu Quan Tâm Nhất Của Thế Hệ Kế Nghiệp Các Doanh Nghiệp ...
-
Đã đến Lúc Cần Rút Ra Những Bài Học Từ Khủng Hoảng Kinh Tế Thế Giới