Luật Pháp Về Tôn Giáo ở Việt Nam Từ Nửa Cuối Thế Kỷ XX đến Nay (Kỳ 1)

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Sơ đồ Tổ chức
    • Lịch sử phát triển
    • Ban Giám đốc
    • Các Phòng, Khoa
  • Tuyển Sinh Đại học, Cao học
  • Đào tạo - Bồi dưỡng
    • Thông báo
    • Lịch học - Lịch thi
    • Chương trình, kế hoạch
    • Văn bản - Quy chế
    • Kết quả học tập
  • Trao đổi nghiệp vụ
    • Nghiên cứu khoa học
    • Hỏi đáp nghiệp vụ
    • Văn bản nghiệp vụ mới
  • Hợp tác quốc tế
    • Hoạt động chung
    • Các dự án
  • Hoạt động tình nguyện
  • Thư viện Tài liệu
--Liên kết nhanh-- Hệ thống VBPL Sổ tay Thẩm phán Cổng thông tin TANDTC Trang thông tin TAND tỉnh Thừa Thiên Huế Trang thông tin TAND tỉnh Hà Tĩnh Trang thông tin TAND tỉnh Vĩnh Long Trang thông tin TAND tỉnh Hưng Yên Tel: 0432.693.693 Fax: 0432.693.693 Email: hvta@toaan.gov.vn Bản đồ đến Học viện Tòa án
5955117
Nghiên cứu khoa học Luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay (Kỳ 1) Luật pháp về tôn giáo ở Việt Nam

(Kỳ 1)

Nguyễn Lâm

Khoa Thẩm phán - Học viện Tòa án

Dẫn nhập

Tôn giáo, tín ngưỡng là hình thái ý thức xã hội. Theo quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn giáo được con người sáng tạo ngay từ buổi bình minh của nhân loại.

Sự tác động không nhỏ của tôn giáo tới đời sống xã hội chính là nhờ vào hai “hạt nhân”: niềm tin và tính thiêng. Hai yếu tố này tập trung thành sức mạnh, đi sâu vào tâm khảm của các tín đồ và chi phối một cách đáng kể lối sống, hành vi của con người, trong đó đáng chú ý là vai trò định hướng đạo đức xã hội của tôn giáo. Vì vậy, tôn giáo đã và sẽ còn tiếp tục tồn tại trong nền văn hóa, văn minh nhân loại.

Việt Nam là một đất nước đa tộc người, đa tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam có tôn giáo ngoại nhập, tôn giáo nội sinh. Tôn giáo là một trong những yếu tố góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam, xây dựng chính quyền Nhà nước.

Trên phương diện quan hệ nhà nước - tôn giáo, bắt đầu từ giai đoạn lịch sử Trung đại Việt Nam, giới nghiên cứu khoa học xã hội đã chứng minh vai trò của tôn giáo trong bảo vệ nền độc lập, tự chủ và xây dựng nền văn hóa dân tộc; các chức sắc tôn giáo và nho sĩ đã tham gia tích cực vào “hộ quốc, an dân”, “tề gia - trị quốc - bình thiên hạ”; nhiều trong số họ đã trở thành biểu tượng cho cốt cách, tâm hồn và khí phách Việt Nam, như Vạn Hạnh (938 - 1025), Khuông Việt (933 - 1011), Trần Nhân Tông (1258 - 1308),...(của Phật giáo); Nguyễn Trãi (1380 - 1442), Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), Phạm Khiêm Ích (1679 - 1740), Lê Quý Đôn (1726 - 1784),... ( của Nho giáo). Ngược lại, tôn giáo cũng đã từng được các triều đại Việt Nam bảo trợ để phát triển như thời Lý - Trần với Phật giáo, Thời Lê, Mạc với Nho giáo. Có thể nói, tôn giáo, thông qua hai “đại biểu” là Phật giáo và Nho giáo, đã góp một phần làm nên một đất nước Việt Nam hùng cường, tự chủ, nhân nghĩa - yêu hòa bình.

Bước sang thời kỳ lịch sử hiện đại, tôn giáo tiếp tục có những đóng góp không nhỏ cho quá trình giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; nhiều tín đồ tôn giáo đã “cởi áo cà sa khoác chiến bào”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc” - tham gia vào khối đại đoàn kết toàn dân, đấu tranh với kẻ thù xâm lược để có được nền độc lập như ngày hôm nay.

Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp không nhỏ, tôn giáo cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm bất ổn định xã hội một khi niềm tin tôn giáo bị chi phối một cách thái quá. Hiện nay, vấn đề Hồi giáo, vấn đề truyền đạo trái phép và các vụ án liên quan đến tôn giáo đang đặt ra nhiều nghi ngại không chỉ cho quản lý Nhà nước mà cho toàn xã hội.

Xác định tầm quan trọng của tôn giáo trong đời sống chính trị, xã hội, coi tôn giáo như một “nguồn lực” quan trọng của quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, trên quan điểm “lịch sử cụ thể” của Chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay từ ngày đầu giành chính quyền Cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, chú ý tới vấn đề này bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Đến khoảng nửa cuối thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1990 khi Nghị quyết số 24/ NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị Khóa VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” ban hành và đưa vào đời sống xã hội - vấn đề luật pháp về tôn giáo dần được ổn định và thể hiện tính nhất quán, nhằm phát huy những ưu điểm của tôn giáo đồng thời có hướng giải quyết những vấn đề nhạy cảm liên quan tới vấn đề này.

Như vậy, tôn giáo đã trở thành đối tượng nghiên cứu được quan tâm trong mọi thời kỳ cách mạng Việt Nam và trên nhiều phương diện, trong đó có phương diện quản lý nhà nước cũng như luật pháp về vấn đề này.

Pháp luật Việt Nam nói chung đã và đang nghiên cứu, hoàn thiện những vấn đề liên quan tới luật pháp về tôn giáo. Là một lĩnh vực chuyên thực hiện công tác tư pháp, người làm Tòa án rất cần thiết phải có sự hiểu biết một cách khái quát những vấn đề lý luận chung về tôn giáo để góp phần giải quyết các vụ việc liên quan tới tôn giáo như truyền đạo trái phép, quyền sở hữu cơ sở thờ tự và công tác xét xử cho những đối tượng là người theo tôn giáo một cách hiệu quả. Trên tinh thần đó, bài viết này sẽ hướng tới giải quyết 3 vấn đề căn bản: một là đưa ra cái nhìn tổng quan về tôn giáo và diện mạo tôn giáo ở Việt Nam; hai là chỉ ra lộ trình và một số đặc điểm căn bản của quá trình xây dựng luật pháp về tôn giáo ở nước ta từ năm 1945, đặc biệt là giai đoạn nửa cuối thế kỷ XX đến nay; và ba là nêu những vấn đề đặt ra trong việc nghiên cứu liên ngành tôn giáo, luật pháp tôn giáo trong đào tạo ngành Tòa án ở nước ta hiện nay.

1. Lý luận chung về tôn giáo và quan hệ nhà nước - tôn giáo ở Việt Nam

1.1. Tôn giáo và bản chất của tôn giáo

Tôn giáo là gì và giữa tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau như thế nào? Đầu tiên, tôn giáo phải được khẳng định là một hình thái ý thức xã hội. Thuộc thượng tầng kiến trúc, tôn giáo chi phối không nhỏ đời sống tinh thần, tác động tới cả quá trình tạo ra của cải vật chất và văn minh con người. Điều này đã được chứng minh qua các dấu tích tôn giáo cổ xưa còn để lại trên các loại hình văn hóa vật thể (khảo cổ học về nhà ở, trang phục, năng mộ, v.v…) và phi vật thể.

Tôn giáo có một quá trình “di chuyển” từ các hiện tượng tín ngưỡng dân gian truyền thống, đi từ các hiện tượng đa thần, bách thần đến độc thần. Đây là một quy luật phổ quát ở cả tôn giáo giữa các nền văn minh phương Đông và phương Tây. Một câu hỏi đặt ra là: giữa tôn giáo và tín ngưỡng có những đặc điểm khác và giống nhau như thế nào?

Trước hết, như trên đã nói, bất kỳ một tôn giáo nào cũng được hình thành và phát triển trên cơ sở kế thừa hệ thống tín ngưỡng, các triết lý dân gian truyền thống; nhiều trường hợp là sự tiếp nhận cả các tôn giáo trước đó. Tuy nhiên, sự ra đời của một tôn giáo luôn gắn với vai trò của một nhân vật “xuất chúng” trong lịch sử của một tộc người, cộng đồng cụ thể. Nói cách cụ thể hơn, tôn giáo là một dạng thức được bác học hóa, “chưng cất” từ các hiện tượng dân gian dưới một Giáo chủ có trí tuệ và những khả năng đặc biệt.

Khi nói đến tôn giáo là chúng ta nói đến sự hội đủ các yếu tố như: Giáo chủ, Giáo lý - Giáo luật cũng như hệ thống kinh sách; có hệ thống Chức sắc tôn giáo, Cơ sở thờ tự, và có Tín đồ. Điều này có thể thấy rất rõ khi nhìn vào các tôn giáo lớn trên thế giới như Ki-tô giáo (bao gồm: Công giáo, Tin lành, Anh giáo và Chính thống giáo), Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo (Tân Bà-la-môn giáo), v.v... Ở đây, Chúa Jesu Ki-tô được coi là giáo chủ của Công giáo; kinh Tân ước, Cựu ước là giáo lý - kinh sách; hệ thống nhà thờ - thánh đường là cơ sở thờ tự; Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Phó tế là chức sắc tôn giáo cùng với các giáo dân tạo nên diện mạo của tôn giáo này. Tương tự, Đức Thích ca-Mâu-ni được coi là giáo chủ; Tam tạng kinh điển (Kinh - Luật - Luận) được coi là giáo lý - kinh sách; Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni ( Tăng - Ni: Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức; Ni trưởng, Ni sư, Sư cô) là chức sắc; Chùa, Am, Mật thất là cơ sở thờ tự - tu hành; các Phật tử là các tín đồ tạo nên diện mạo của Phật giáo. Vân vân.

Như vậy, tôn giáo là một loại hình tư tưởng - tâm linh được định hình và quy chuẩn hóa các yếu tố thờ tự và lễ nghi thông qua con người, đồng thời được bồi đắp, phát triển không ngừng theo không gian và thời gian, tạo nên một sự thống nhất trong đa dạng cho một hình thái ý thức xã hội đặc thù này[2]. Tôn giáo thể hiện rõ năng lực “cứu thế” của mình bằng hệ thống lý luận bác học, có phương pháp và có những chuẩn mực nhất định.

Khác với tôn giáo, hệ thống tín ngưỡng luôn gắn liền với các sinh hoạtvăn hóa mang tính dân gian. Nói cách khác, tín ngưỡng là những loại hình văn hóa tư tưởng gắn bó chặt chẽ với văn hóa của một vùng miền, tộc người nhất định. Vì vậy, đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng là tính chất hư cấu, phiếm thần, đa thần, đặc biệt là mọi hiện tượng chỉ dừng lại ở sự sơ khai, giản đơn. Đặc điểm này phổ biến ở hầu hết các châu lục, quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Những nghi lễ dân gian gắn liền với sinh hoạt văn hóa cộng động, lao động; các câu chuyện huyền thoại gắn liền với nhiều tục lệ địa phương đã tạo nên đời sống tín ngưỡng vô cùng phong phú và độc đáo cho nhân loại. Chính đặc điểm và sự phong phú này mà người ta đã chia các hiện tượng tín ngưỡng ra thành nhiều loại hình như: Tô-tem giáo, Shaman giáo, Linh hồn giáo, v.v... Ở Việt Nam, chúng ta thấy rất rõ các hiện tượng tôn giáo như vậy, trong đó đáng chú ý là các hiện tượng thờ Tam phủ - Tứ phủ, thờ cúng Tổ tiên, thờ Thần hoàng làng (người Việt); thờThần cây, Thần sông - núi; hay các hiện tượng ở các tộc người thiểu số.

Tuy nhiên, ở tôn giáo và tín ngưỡng phải có điểm chung, có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Những điểm chung căn bản, trước hết đó là tồn tại hai hạt nhân: niềm tintính thiêng. Đây là hai “lõi” căn bản nhất không thể thiếu trong tôn giáo và tín ngưỡng. Cụ thể, trong chúng không thể thiếu niềm tin, càng không thể thiếu cái “thiêng”. Hai yếu tố này chính là sức mạnh của tôn giáo!

Vậy, bản chất của tôn giáo (và tín ngưỡng) là gì? Chúng tôi sẽ khảo cứu quan điểm khác nhau, từ các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Max cho đến các nhà nghiên cứu xã hội học tôn giáo để bước đầu trả lời câu hỏi này.

Trước hết, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo (và tín ngưỡng) là hình thái ý thức xã hội, được con người ta sáng tạo trong lịch sử. Tôn giáo ra đời như sự phản ánh những bất công trong xã hội, là thứ “gây mê” có chức năng đền bù hư ảo và phản ánh một cách nhanh chóng được con người phản ánh ở các trình độ nhận thức khác nhau. Trong tác phẩm Chống Đuy-rinh, Ăng-ghen viết: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người-của những lực lược ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”[3].

Như vậy, tôn giáo không phải “trên trời rơi xuống” mà do con người sáng tạo ngay trên mặt đất này.Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”[4] như Mác và Ăngghen đã tuyên bố. Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện tôn giáo bắt nguồn từ chính các mâu thuẫn xã hội. C. Mác đã nghiên cứu và đưa ra nhận định: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần”. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân[5].

Cần phải nói thêm rằng, ngay từ giai đoạn đầu nghiên cứu xã hội, Mác và Ăngghen đã nhận thấy nguồn gốc và bản chất của tôn giáo. Trên tinh thần đó, các ông đề xuất: chúng ta không biến những vấn đề thế tục thành thần học. Chúng ta biến những vấn đề thần học thành vấn đề thế tục”[6]. Kế thừa quan điểm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, đồng thời nhận thấy vai trò quan trọng của tôn giáo trong quá trình thực hiện cách mạng, Lênin cho rằng: “Mỗi người đều phải được hoàn toàn tự do không những muốn theo tôn giáo nào thì theo mà còn phải có quyền truyền bá bất kỳ tôn giáo nào hoặc thay đổi tôn giáo”[7].

Như vậy, tôn giáo được các nhà kinh điển tiêu biểu của Chủ nghĩa Mác nhìn nhận như là một sản phẩm của lịch sử, do con người sáng tạo và là quy luật tất yếu của một xã hội nhiều mâu thuẫn. Nói cách khác, tôn giáo là sự phản ánh những mâu thuẫn nội tại giữa con người với con người, giữa con người với thế giới thực tại; là sự phản ánh của những giai đoạn nhận thức chưa tìm được lối thoát. Vậy, các quan điểm, trường phái khác về tôn giáo như thế nào? Tác giả khảo sát quan điểm của một nhà xã hội học nổi tiếng người Đức - Max Weber.

Trên phương diện xã hội học tôn giáo, Max Weber cho rằng tôn giáo là “một hoạt động tập thể đặc biệt” và ông đưa ra hai khái niệm quan trọng: một là, “ngay cả khi vượt qua những lời dẫn đến dạng này hoặc dạng khác ở bên ngoài, tôn giáo có liên quan ở dưới đây, cách thức để tự suy giảm trên quả đất này”; hai là, “những hành vi mong muốn đến từ tôn giáo hoặc ma thuật là những hành vi, ít tương đối, lý tính. Một trong những đóng góp của Weber sẽ chỉ ra rằng có những dạng khác nhau của lý tính - lý tính công cụ và lý tính tinh thần và rằng ngay cả việc hợp lý hóa của tôn giáo đóng vai trò chính trong sự xuất hiện hiện đại hóa[8].

Ở đây, niềm tin tôn giáo được Max Weber nhìn nhận ở dạng nhận thức cao - lý tính, và ông cho rằng, trong quá trình “lao động tập thể” con người đã biết sử dụng đến tôn giáo như một nguồn lực để tiến đến những xã hội văn minh, hiện đại hơn. Và như thế, tôn giáo là một sản phẩm tư duy đặc biệt, là động lực của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ông cũng rơi vào tình trạng chung khi nghiên cứu về tôn giáo khi đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và cho rằng, tôn giáo là một dạng thức của lý tính tinh thần, tin vào một “lực lượng” đặc biệt nào bên ngoài chi phối sự sáng tạo vào tự nhiên, con người.

1.2. Đặc điểm, diện mạo tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Đặc điểm chung

Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam có tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội sinh, bên cạnh đó là đời sống văn hóa tín ngưỡng truyền thống khá đậm đặc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam từ Bắc vào Nam.

Trong các tôn giáo ngoại nhập, Nhập giáo, Nho giáo và Đạo giáo là ba tôn giáo lớn được truyền và nước ta sớm nhất. Theo chính sử ghi chép, cả ba tôn giáo này đều vào nước ta từ khoảng từ thế kỷ I đến thế kỷ II SCN[9]. Riêng Phật giáo, theo một số nguồn tư liệu dân gian khác, nhiều khả năng Phật giáo đến Việt Nam từ khoảng thế kỷ III TCN[10]. Với những đặc điểm tương đồng (“Tam giáo đồng nguyên”: cùng gốc) nên cả Nho, Phật, Đạo giáo đều có nhiều điểm phù hợp với văn hóa Việt Nam, có những đóng góp đáng chú ý cho văn hóa và lịch sử nước nhà không chỉ ở thời Bắc thuộc mà đặc biệt kẻ từ khi nước ta độc lập tự chủ (938).

Nhiều thập kỷ qua, một số học giả cho rằng, ba tôn giáo này mặc dù là tôn giáo ngoại nhập, song đã cắm rễ và sinh tồn hàng thiên niên kỷ trên đất nước ta nên đã trở thành một phần của văn hóa truyền thống Việt Nam, tôn giáo truyền thống của dân tộc. Nói cách khác, Nho, Phật, Đạo giáo khi vào Việt Nam, trải qua quá trình “khúc xạ” giữa văn hóa tôn giáo nội tại và văn hóa truyền thống Việt đã trở thành tôn giáo truyền thống của dân tộc.

Cần phải giải thích rằng, chữ “truyền thống” ở đây không nên hiểu tương đồng với khái niệm “bản địa”, càng không nên chỉ một loại hình văn hóa được hoàn toàn sinh ra và phát triển thuần túy trên đất nước ta; mà phải hiểu “truyền thống” là một quá trình “khúc xạ”, tiếp biến - mà trải qua một thời kỳ dài, người dân sở tại chấp nhận, biến đổi, bồi đắp những yếu tố mới vào để biến cái ngoại nhập thành cái của mình, phù hợp với sinh hoạt văn hóa - xã hội của chính họ, và dần trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa của chính cộng đồng tộc người đó. Hơn nữa, Phật giáo khi vào Việt Nam, là một tôn giáo còn đang trong quá trình phát triển; nhiều lớp văn hóa Phật giáo Việt Nam đã thể hiện yếu tố bản địa ở trong nó, mà Thiền phái Trúc lâm Yên Tử, hiện tượng thờ Tứ pháp, Thạch Quang Phật,... là những minh chứng sống động khẳng định tính truyền thống, lập trường tên gọi là “Phật giáo Việt Nam”.

Với Nho giáo và Đạo giáo cũng tương tự như vậy. Cũng là Nho giáo, nhưng ở Nho giáo Nguyễn Trãi khác với Nho giáo khi truyền trực tiếp từ Trung Quốc sang. Hay trong Đạo giáo, giữa Đạo giáo trong đạo Tam phủ - Tứ phủ Việt Nam khác hắn với các hiện tượng đạo giáo khi mới du nhập từ Trung Quốc vào. Vấn đề ở đây là, văn hóa phải được coi là một quá trình phát sinh, kế thừa, bồi đắp, lan tỏa và phát triển liên tục mà các lớp văn hóa bồi đắp sau chính là những nhân tố giúp cho mỗi loại hình văn hóa đó có thể sinh tồn và phát triển liên tục trong đời sống văn hóa tộc người, văn hóa vùng, văn hóa khu vực. Và như vậy, khái niệm “chủ nhân” văn hóa ở đây cũng phải được hiểu theo một hướng động như vậy.

Trở lại vấn đề chính, khác với các tôn giáo trên, khoảng nửa đầu thế kỷ XVI trở về sau, ở Việt Nam tiếp tục đón nhận hai tôn giáo đến từ phương Tây là Công giáo và Tin lành. Đây là hai tôn giáo cùng gốc (Ki-tô giáo) những có một vài đặc điểm khác biệt do sự phát triển của lịch sử và quá trình biến đổi.

Công giáo vào Việt Nam năm 1533, là một tôn giáo có những đặc điểm, tính chất và quá trình truyền giáo khác biệt so với các tôn giáo phương Đông[11]. Đây là một trong những lý do căn bản nhất khiến khi vào Việt Nam, Công giáo đã chịu không ít áp lực trong quá trình truyền đạo, nhất là vấn đề không chấp nhận để giáo dân thờ cúng tổ tiên. Tuy vậy, khoảng nửa cuối thế kỷ XX, với chính sách hội nhập văn hóa từ giáo triều Rôma (sau Công đồng Vatican II: 1962 - 1965), Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tiếp thu một cách căn bản tinh thần này và ra Thư chung 1980 với đường hướng “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào”. Và cũng từ đây, nhiều yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam được đưa vào vận dụng trong các sinh hoạt tôn giáo của người Công giáo; các nghi thức tang ma, cưới hỏi, các phong trào văn hóa, văn nghệ cũng được ghi nhận là có tiếp thu những tinh hoa từ truyền thống dân tộc.

Cần phải nói thêm rằng, Công giáo cũng là một tôn giáo có những đóng góp đáng chú ý cho văn hóa dân tộc. Đó là việc một số giáo sĩ dòng Tên đã tham gia phát minh ra chữ quốc ngữ hiện đại theo hệ La-tinh. Đây là một đặc điểm không thể không nói khi bàn những vấn đề chung về tôn giáo ở Việt Nam.

Cũng như Công giáo, Tin Lành gặp phải không ít trở ngại khi vào truyền giáo ở nước ta. Năm 1911, Tin Lành vào Việt Nam nhưng mới thực sự phát triển từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến nay. Một trong những lý do căn bản khiến tôn giáo này phát triển muộn là vì, khi truyền vào Việt Nam, không những Tinh Lành phủ nhận nhiều yếu tố văn hóa truyền thống dân tộc mà nhiều phần tử là chức sắc và tín đồ Tin Lành đã có hành vi phản động, đi ngược lại với lợi ít quốc gia, dân tộc. Những hiện tượng này còn biểu hiện một cách rõ nét trong các vụ việc lớn xảy ra ở Tây Nguyên (2004) với danh nghĩa là Tin Lành Đề-ga và Tây Bắc (khoảng cuối thập kỷ 90) với danh nghĩa là Tin Lành Vàng-chứ, Tin Lành Sìn-hồ, v.v... Những phần tử này chủ yếu lôi kéo những giáo dân chủ yếu là người dân tộc thiểu số, kích động họ chống lại chính quyền địa phương.

Như vậy, tôn giáo ở Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa truyền thống dân tộc. Điều đáng nói là, các tôn giáo đến Việt Nam từ sớm đã có những đóng góp không nhỏ hình thành nên diện mạo văn hóa Việt Nam phong phú và đa sắc thái. Các tôn giáo đến sau, như Công giáo, cũng đã góp phần hình thành nên chữ quốc ngữ Việt Nam, một yếu tố rất quan trọng của văn hóa hiện đại ở nước ta.

Với những đặc thù riêng, khi tổng hợp về những vấn đề chung trong tôn giáo Việt Nam, Đặng Nghiêm Vạn[12] và tập thể các tác giả Viện Nghiên cứu Tôn giáo đưa ra 7 đặc trưng của tôn giáo Việt Nam tộc đó là: Tôn giáo Việt Nam trước, sau vẫn giữ được bản sắc dân tộc; xu thế hòa nhập mà không hợp nhất, mang tính đa/phiếm thần; khó phân biệt được cái thiêng và cái tục; mang đậm tính chất dân tộc, vì dân vì nước, đặc biệt là đạo thờ Tổ tiên; vai trò phụ nữ trong đời sống tôn giáo thể hiện rõ rệt; đời sống tôn giáo vận hành theo lối tiểu nông; đời sống tôn giáo thay đổi cùng với hoàn cảnh chính trị của đất nước.

Các tôn giáo ở Việt Nam tiếp tục có những đóng góp cho sự phát triển văn hóa, xã hội. Những nghiên cứu gần đây đã khẳng định tôn giáo là một “nguồn lực”, và như vậy, tôn trọng tự do tôn giáo và nghiên cứu để ban hành những vấn đề liên quan để bảo vệ, định hướng cho tôn giáo phát triển gắn với lợi ích quốc gia dân tộc là một trong những vấn đề then chốt hôm nay và cả mai sau.

1.2.2. Các tôn giáo cụ thể ở Việt Nam

Như trên đã trình bày, nước ta có tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội sinh. Các tôn giáo được người dân đón nhận và phát triển.

Hiện nay, nước ta có khoảng 13 tôn giáo với 38 tổ chức được Nhà nước công nhận với tư cách pháp nhân. Tại sao lại có số lượng tôn giáo và các tổ chức được công nhận với con số chênh lệch lớn như vậy? Trước hết, trên thực tế, nhiều tôn giáo, trong quá trình phát triển đã nảy sinh nhiều hệ phái khác nhau. Các hệ phái này, về bản chất là có những quy chuẩn căn bản tương tự nhau nhưng cũng có một số khía cạnh riêng mà người ta không chấp nhận ở nhau. Chính vì thế mà nhiều trong số các tôn giáo đã tách ra để hoạt động riêng lẻ với tổ chức mang những quy định riêng. Ví dụ, ở Ki-tô giáo, từ thế kỷ XI trở về sau người ta đã tách ra thành bốn tôn giáo là Công giáo, Tin lành, Anh giáo và Chính Thống giáo. Và trong một số tôn giáo này lại tiếp tục có sự phân chia tiếp. Cụ thể, ở Việt Nam hiện nay, Tin Lành có hàng chục hệ phái đã và đang hoạt động riêng như: Tin Lành Trưởng Lão, Tin Lành Ngũ tuần, Tin Lành Vàng Chứ, Tin Lành Đề-ga; Hồi giáo có Hồi giáo Ba-ni ở miền Trung, tập trung nhiều nhất ở Ninh Thuận, Bình Thuận và Hồi giáo Islam ở Đông Nam bộ và một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long; v.v…(Các tôn giáo và một số đặc điểm liên quan sẽ trình bày ở bảng dưới đây).

Liên quan trực tiếp tới các tôn giáo trên là các cơ sở thờ từ và chức sắc, tín đồ. Theo con số thống kê[13] nghiên cứu năm 2011, cả nước ta có khoảng 86. 740 chức sắc tôn giáo, 23. 845 cơ sở thờ tự và khoảng 25.008.972 tín đồ. Chúng tôi sẽ trình bày cụ thể vấn đề này qua bảng biểu dưới đây.

Bảng 1: Thống kê số lượng tôn giáo, chức sắc, tín đồ

và các cơ sở thờ tự các tôn giáo ở Việt Nam (tính đến 2011)

TT

Tôn giáo

Chức sắc

Cơ sở thờ tự

Tín đồ

1

Phật giáo

42.000

15.500

10.000.000

2

Công giáo

20.000

6.000

6.100.000

3

Tin lành

3.000

500

1.500.000

4

Cao Đài

12.722

1.331

2.471.000

5

Hòa Hảo

2.597

39

1.260.000

6

Hồi giáo

700

77

72.000

7

Ba’hai

7.000

8

Tứ Ân Hiếu Nghĩa

409

78

70.000

9

Bửu Sơn Kỳ Hương

19

15.000

10

Tịnh Độ Cư sĩ Phật hội

4.800

206

1.500.000

11

Phật Đương Minh Sư Đạo

300

54

11.000

12

Minh Lý Tam Đạo Tông Miếu

72

4

1.058

13

Bà La Môn

158

37

54.000

14

Các Tôn giáo khác

2.000.000

Tổng

86.740

23.845

25.008.972

Nguồn: Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Những vấn đề cơ bản về Tôn giáo Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Báo cáo Tổng hợp đề tài nghiên cứu cấp Bộ (đã nghiệm thu), tr. 55.

Như vậy, tôn giáo ở Việt Nam đa dạng về loại hình và phong phú về sắc thái văn hóa. Tôn giáo ở Việt Nam tiếp thu cả yếu tố ngoại nhập nhưng tinh lọc cả những yếu tố tinh hoa trong văn hóa truyền thống, tạo cho nền văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú hơn. Với gần ¼ dân số theo tôn giáo cũng đã và đang là tín hiệu đáng mừng góp phần xây dựng một xã hội dân sự đạo đức và giàu nhân văn hơn.

1.2.3. Một số loại hình tín ngưỡng phổ biến ở Việt Nam

Cùng với các tôn giáo trên, ở Việt Nam có một hệ thống tín ngưỡng dân gian đậm đặc và phong phú. Tín ngưỡng ở Việt Nam cũng có đầy đủ các thể loại như Shaman giáo, Tôtem giáo, Linh hồn giáo,…Trong bài viết này, vì liên quan đến vấn đề luật pháp tôn giáo nên chúng tôi chỉ tập trung vào một số loại tín ngưỡng tiêu biểu là: tín ngưỡng thờ Tổ tiên, thờ Thành hoàng làng và tín ngưỡng Thờ Tam phủ - Tứ phủ.

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là loại tín ngưỡng phố biến ở hầu hết các tộc người ở Việt Nam. Đây là một sinh hoạt văn hóa tâm linh mang nhiều yếu tố tích cực. Nó không chỉ nêu cao đạo lý “uống nước nhớ nguồn” mà còn kêu gọi khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở để bồi đắp tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước. Thờ cúng tổ tiên, vì thế, đối với người Việt nói riêng, nhiều tộc người khác ở Việt Nam nói chung, được coi là một hằng số bất biến, không có tôn giáo nào có thể thay thế, từ bỏ được[14].

Biểu hiện của thờ cúng tổ tiên phong phú trên cả không gian và thời gian: từ trong tang ma, cưới-hỏi cho đến những ngày lễ Tết truyền thống của cộng đồng. Nhưng khi nói tới tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì người ta thường nói tới những nghi lễ điển hình. Đó là những ngày giỗ tổ tiên, có thể chia làm 4 cấp độ: giỗ ông, bà, cha, mẹ ở các gia đình (gia tiên); giỗ Tổ họ ở các Từ đường của mỗi dòng họ; giỗ Tổ nghề hoặc Thần hoàng làng ở các làng; và ngày Quốc giỗ - Thờ cúng Vua Hùng ở cấp quốc gia (10/03 âm lịch).

Bên cạnh tín ngưỡng thờ tổ tiên, có một loại tín ngương phổ biến với tần xuất tổ chức lớn trong một năm, đó là tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng, hay thần hoàng làng là loại tín ngưỡng gắn với tục thờ những người có công với đất nước, có công xây dựng, mở mang làng xóm và cả những người có công truyền dạy nhân dân làm nghề; v.v…Trong tín ngưỡng thờ tổ tiên, người ta cũng xếp cả loại tín ngưỡng này vào, xét về ý nghĩa nguồn gốc và ý nghĩa thờ tổ[15]. Tuy nhiên, về bản chất, tín ngưỡng thành hoàng làng là tín ngưỡng bản địa và có những độc lập tương đối trên cả phương diện hình thức biểu hiện và sinh hoạt thờ cúng.

Cơ sở thờ thần hoàng làng trải qua hai bước di chuyển[16]. Thời kỳ đầu phần lớn các vị thần được thờ ở nghè, số ít được thờ ở các miếu. Về sau này, cùng với sự phát triển của hệ tư tưởng Nho giáo, người ta đã biến ngôi đình làng từ chỗ là nơi để các chức sắc trong thôn ngồi họp bàn chuyện của làng thành nơi có chức năng kép, trong đó có việc thờ cúng và tế lễ các vị thần hoàng làng. Đặc điểm nổi bật, hội tụ nhiều yếu tố văn hóa, tín ngưỡng truyền thống của địa phương trong nghi thức thờ thần hoàng ở Việt Nam là các ngày Giỗ, ngày gắn với lý do thờ cúng vị thần này. Ngày nay,đây là nguyên nhân căn bản để tín ngưỡng này “nở rộ”, phát triển một cách mạnh mẽ với đủ sắc diện khác nhau[17].

Loạn hình tín ngưỡng phổ biến thứ ba là tín ngưỡng thờ Tam phủ - Tứ phủ, một loại hình bắt nguồn từ tục thờ Mẫu. Nó không chỉ là một trong những lễ nghi phổ biến ở các nước nông nghiệp như ViệtNammà còn diễn ra ở nhiều nước châu Á khác. Riêng ở ViệtNam, thờ Mẫu đã có 3 bước di chuyển khá phức tạp nhưng đồng thời chứa đựng nhiều yếu tố độc đáo, mang đặc trưng riêng. Thời kỳ đầu là thờ Mẫu; sau đó, giai đoạn thứ hai, với sự du nhập của Đạo giáo, hiện tượng này đã nâng lên một hình thức mới đó là tín ngưỡng Tam phủ; giai đoạn thứ ba, cũng được coi là đỉnh cao của bước di chuyển trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ là thờ Mẫu trong quan hệ hỗn dung với các đấng bậc giới thần khác.

Với bước di chuyển trên đây, cơ sở thờ tự của tín Tam phủ - Tứ phủ cũng khá đa dạng. Có thể khái quát chung thành hai loại: thứ nhất là thờ Mẫu trong các am miếu chuyên biệt; và thứ hai là thờ Mẫu theo hình thức hỗn dung. Trường hợp thứ nhất phổ biến trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, người Chăm vùng Trung và Nam Trung bộ điển hình là thờ nữ thần Po Nagar trong văn hóa Chăm. Trường hợp thứ hai là thờ nữ thần, hỗn dung các vị thần khác với Mẫu trong văn hóa tín ngưỡng ở châu thổ Bắc Bộ. Tuy vậy, hình tượng Mẫu vẫn là điểm nhấn và có vị trí quan trọng trong hình thức tín ngưỡng này, đặc biệt là quan hệ các Mẫu Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Mẫu Thoải trong quan hệ tầng bậc với Mẫu Liễu Hạnh, bên cạnh đó là sự phối thờ: Tam Bảo: Chư Phật, Bồ Tát; các vị vua cha như Ngọc Hoàng Đại Đế, Bát Hải,Tam Toà Thánh Mẫu, Quan Lớn (Ngũ vị tôn Quan), Thánh Chầu (Thập nhị Chầu Bà), Thánh Hoàng (Thập vị thánh Hoàng), Thánh Cô (Thập nhị Tiên Cô), Thánh Cậu (Thập nhị Thánh Cậu), v.v...

Có thể nhận xét rằng, hệ thống tín ngưỡng ở Việt Nam mang đậm dấu ấn bản địa, có ảnh hưởng một số lớp văn hóa ngoại nhập nhưng không chiếm tỉ lệ lớn. Các loại tín ngưỡng ở Việt Nam góp phần vào quá trình tạo và bảo vệ bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam. Cũng như loại hình tôn giáo, tín ngưỡng cũng là đối tượng được Nhà nước quan tâm trong lịch sử.

Như vậy, với việc giới thiệu và phân tích sơ lược diện mạo tôn giáo ở Việt Nam trên đây cho thấy tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa - xã hội có mối quan hệ hữu cơ không tách rời nhau. Tôn giáo nói riêng và văn hóa nói chung là động lực thúc đẩy các yếu tố khác phát triển bền vững. Vậy, một câu hỏi đặt ra là, với tầm quan trọng như thế, quan hệ giữa tôn giáo và Nhà nước diễn ra như thế nào? Chúng tôi sẽ nêu một vài nét riêng về quanhệ này qua tiểu mục dưới đây.

1.3. Mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo ở Việt Nam

Mối quan hệ nhà nước - tôn giáo cũng như vấn đề liên quan đến luật pháp về vấn đề này đã có một quá trình lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Có thể khẳng định, ngay từ thời Đinh - Lê - Lý - Trần và các triều đại sau, vấn đề này đã được các triểu đình quan tâm thực hiện. Trong Việt Nam Phật giáo sử lược, Nguyễn Lang nhận xét: “Thiền phái Vô Ngôn Thông có Thiền sư Ngô Chân Lưu cũng đóng góp nhiều trong lĩnh vực chính trị. Danh hiệu Khuông Việt Đại sư mà vua Đinh Tiên Hoàng ban cho ông đủ nói lên tầm quan trọng của công tác ông. Khuông Việt có nghĩa là “giúp nước Việt”[18].

Các thiền sư lỗi lạc, xuất chúng đã có công rất lớn trong phò vua, giúp nước; các danh Nho đã góp công rất lớn trong xây dựng, mở mang nền văn hóa, học vấn cho dân tộc. Có thể khái quát quan hệ nhà nước - tôn giáo qua mấy luận điểm dưới đây.

Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, tôn giáo lần lượt là bệ đỡ tinh thần cho sự phát triển của nhà nước, quốc gia. Ở thời Lý - Trần, Phật giáo là hệ tư tưởng chính của hai vương triều này[19]. Quan hệ này bắt đầu từ việc chính nhà sư là người có công trong việc dựng vua, đồng thời là những người đứng đằng sau vua để cùng cai trị đất nước, tham gia trực tiếp vào việc triều chính, thậm chí là công tác ngoại giao. Ngược lại, chính quyền tôn trọng và bảo hộ, tạo điều kiện để tôn giáo đó, trước hết là hệ thống chức sắc phát triển. Chính sử đã ghi nhận, thời Lý - Trần, chùa chiền được xây dựng ở khắp các làng xã; nhà vua đứng ra cho xây dựng quốc tự , nhiều nhà sư được phong là quốc sư. “Hồi đầu lập quốc các Thiền sư đã mở những cuộc vận động gây ý thức quốc gia, đã sử dụng các môn học phong thủy và sấm vĩ trong các cuộc vận động ấy, đã trực tiếp thiết lập kế hoạch, thảo văn thư, tiếp ngoại giao đoàn, bàn luận về cả những vấn đề quân sự. Nhưng sau đó khi trong triều đình đã có đủ người lo các việc ấy thì họ chỉ giữ vai trò hướng dẫn tinh thần và cố vấn đạo đức… những Thiền sư có tham dự chính sự như Vạn Hạnh trong khi làm việc vẫn giữ thái độ xuất thế của mình, không muốn hòa mình trong vòng danh lợi, xong việc thì rút lui về chùa. Triết học hành động của Vạn Hạnh tiêu biểu cho thái độ chung của các Thiền sư: làm thì làm, nhưng không mắc kẹt vào công việc, không nương tựa và hữu vi. Đó là triết lý vô trụ”[20].

Những nhân vật thiền sư Vạn Hạnh, Trần Nhân Tông, và trước đó là Khuông Việt và nhiều danh tăng khác là minh chứng sống động về quan hệ này. Nếu như thời Lý - Trần là Phật giáo thì sang thời kỳ Nhà Lê, Nho giáo được độc tôn, lại là tôn giáo chủ lưu, giữ bệ đỡ tinh thần cho việc cai trị đất nước.

Sang thời kỳ hiện đại, căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chúng ta có những quan điểm khách quan hơn, độc lập và dân chủ hơn về vấn đề này. Quan niệm cho rằng giữa chính quyền với các tôn giáo có quan hệ với nhau nhưng không phải quan hệ nội tại. Dấu ấn đầu tiên cho vấn đề này là Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Riêng vấn đề Công giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo hội Công giáo Việt Nam với Tòa thánh La Mã là vấn đề nội bộ của tôn giáo. Chính quyền không can thiệp đến” và “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng”[21].

Cần phải nói thêm rằng, quan hệ nhà nước - tôn giáo như vậy là để dần thích ứng, phù hợp với bối cảnh thế giới khi, ở thế kỷ XX, tồn tại những kiểu mô hình nhà nước tôn giáo khác nhau. GS. Đỗ Quang Hưng[22], tổng hợp thành bốn mô hình nhà nước tôn giáo: thứ nhất, mô hình quốc giáo, mô hình mà nhà nước thế tục vẫn dựa vào một tôn giáo chủ lưu nhưng vẫn tôn trọng các tôn giáo còn lại như Bắc Âu với Tin Lành; Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha với Công giáo,...; thứ hai, mô hìnhtôn giáo dân sự - cho những nước thực hiện hòa nhập các giá trị tôn giáo vào xã hội dân sự, tiêu biểu như nước Mỹ; thứ ba, mô hìnhđa nguyên tôn giáo, dành nhiều sự ưu tiên cho sự đa dạng của các tôn giáo cùng có vị trí pháp lý với sự mở rộng ngày càng lớn cho các tôn giáo, như các nước Đức, Bỉ, Hà Lan,…; và thứ tư, mô hìnhthể chế thế tục trung lập, dành cho những nước thực hiện nguyên lý thế tục triệt để, nghĩa là nhà nước không công nhận bất cứ một tôn giáo nào, các tôn giáo đều bình đẳng và thực thi nguyên lý thế tục trước nhà nước, tiêu biểu như nước Pháp.

Như vậy, nhà nước và tôn giáo có những quan hệ rất gắn bó trong lịch sử, không chỉ ở nước ta và các nước Á Đông mà ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tôn giáo cũng là những hình thái ý thức được lựa chọn để xây dựng mô hình nhà nước sao cho phù hợp với sự phát triển của quốc gia, dân tộc xu hướng phát triển của xã hội hiện đại. Sự lựa chọn Nhà nước theo mô hình quốc giáo, trung lập hay vô thần cũng không nằm ngoài hướng đi riêng của mỗi thể ch chính trị. Song, coi tôn giáo là đối tượng đặc biệt trên cả phương diện tư tưởng, văn hóa, chính trị - luật pháp thì đó là những quan hệ có từ rất sớm trong lịch sử loài người.

(Kỳ sau đăng tiếp)

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu gốc

1.1. Văn bản quy phạm pháp luật

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1998), Chỉ thị số 37/CT- TW ngày 02/7/1998 về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Trung ương Đảng về công tác tôn giáo.

3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thông tri số 136-TT-TW ngày 30/9/1981, Về chủ trương thống nhất các tổ chức Phật giáo để thành lập tổ chức chung Phật giáo cả nước.

4. Bộ Nội vụ (2013), Quyết định số 1119/ QĐ-BNV về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, ngày 10 tháng 10 năm 2013.

5. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1955), Sắc lệnh số 234/SL , ngày 14 tháng 06 năm 1955.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội

7. Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960), Luật Tổ chức Tòa án, ngày 14 tháng 07 năm 1960

1.2. Sách trắng và tác phẩm kinh điển (tài liệu dịch)

8. Ban Tôn giáo chính phủ (2006), Sách trắng về tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội.

9. C. Mác và Ăngghen (1994), Chống Đuy-rinh, Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. C. Mác và Ăngghen (1995), Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, Tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Tài liệu nghiên cứu

13. Nguyễn Đăng Dung (2009), Nhà nước pháp quyền là Nhà nước phòng chống sự tùy tiện, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8, tháng 4, Hà Nội.

14. Nguyễn Thị Vân Hà (2014), Tôn giáo và luật pháp về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học, Thư viện Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Đỗ Quang Hưng (2008), Lựa chọn mô hình nhà nước thế tục, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 12, Hà Nội.

16. Đỗ Quang Hưng (2005) Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội.

18. Trần Thế Pháp (Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc Sơn dịch - 2010), “Truyện Đầm một đêm (Nhất Dạ Trạch - Tiên Dung và Chử Đồng Tử)” Lĩnh Nam Chích quái, Nxb. Trẻ và Nxb. Hồng Bàng.

19. Nguyễn Đăng Thục (1995), Lịch sử Tư tưởng Việt Nam, Tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, Nxb. Đồng Nai.

20. Trần Minh Thư (2004), Hoàn thiện pháp luật về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

21. Đặng Nghiêm Vạn(2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Viện Ngôn ngữ học (1996) Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

[1] Bài viết rút ra từ Bài giảng dự kiến sử dụng trong chương trình đào tạo một số chức danh Tòa án - Trường Cán bộ Tòa án ( nay là Học viện Tòa án).

[2] Ki-tô giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo,...vẫn tiếp tục được phát triển và có những biến đổi nhất định.

[3] C. Mác và Ăngghen (1994), Chống Đuy-rinh, Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tr. 437

[4] C. Mác và Ăngghen, Tlđ d, tr. 569

[5] C. Mác và Ăngghen (1995), Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, Tr. 570

[6] C. Mác và Ăngghen, Tlđ d, tr. 533

[7] 70. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 7, Nxb. Tiến bộ, Matxcva, Tr. 212 - 213.

[8] Dẫn theo Đỗ Quang Hưng (2011), “Phật giáo và chính trị đầu kỷ nguyên độc lập, tiếp cận từ một luận đề của Max waber”, Tạp chí Khoa học, Đại học quốc gia Hà Nội, số 27, Hà Nội, tr. 44.

[9] Xem Thêm Nguyễn Đăng Thục (1995), Lịch sử Tư tưởng Việt Nam, Tập 1, 2, 3, 4, 5, 6, Nxb. Đồng Nai.

[10] Trần Thế Pháp (Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc Sơn dịch - 2010), “Truyện Đầm một đêm (Nhất Dạ Trạch – Tiên Dung và Chử Đồng Tử)” Lĩnh Nam Chích quái, Nxb. Trẻ và Nxb. Hồng Bàng.

[11] Nói đúng hơn, sau “Nghìn năm Trung cổ”, Công giáo - từ chỗ là tôn giáo có nguồn gốc Trung Á - đã trở thành một tôn giáo mang bản sắc văn hóa phương Tây.

[12] Đặng Nghiêm Vạn, Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2001), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, T tr.357-374.

[13] Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Những vấn đề cơ bản về Tôn giáo Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Báo cáo Tổng hợp đề tài nghiên cứu cấp Bộ (đã nghiệm thu), tr. 55

[14] Kể cả Công giáo và Tin Lành đều coi “thờ kính” ông bà, cha mẹ là một trong những chuẩn mực đạo đức của tín đồ trong tôn giáo của họ, trong đó có những lễ nghi sau khi họ đã chết.

[15] Người Việt quan niệm những ông Tổ nghề - những người có công dạy nghề cho dân làng để có thể sinh kế bằng nghề đó và những người có công khai phá ra vùng đất cho làng họ là những ông “Tổ” chung của cả làng.

[16] Cần phải nhấn mạnh rằng khái niệm “thành hoàng” được mượn từ Trung Quốc khoảng cuối thời kỳ Bắc thuộc; nhưng giữa 2 khái niệm này khác nhau về bản chất: một bên là thờ thần bảo hộ thành quách, kinh thành còn một bên là thờ thần - “Tổ” làng.

[17] Theo nghiên cứu gần đây nước ta có khoảng 7965 lễ hội diễn ra trong một năm, trong đó khoảng 7039 lễ hội dân gian, mà lễ hội gắn với tục thờ thần hoàng làng chiếm số lượng chính. ( Lê Hồng Lý (2014), “Vai trò của Nhà nước đối với lễ hội dân gian hiện nay”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 06, Hà Nội, Tr. 3.)

[18] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.186.

[19] Một số nhà nghiên cứu dùng từ quốc giáo là không chính xác vì quốc giáo, trước hết, giáo lý của tôn giáo đó phải ảnh hưởng trực tiếp đến việc ban hành và thực thi luật pháp và những điều liên quan trong quản lý đất nước, chẳng hạn như một số quốc gia lấy Hồi giáo là quốc giáo thì Kinh thần của kinh Cô-ran được thể hiện rất rõ trong cả Hiến pháp của họ. Trong khi tôn giáo ở nước ta không phải như thế, nên chúng ta dùng đúng phải là tôn giáo chủ lưu.

[20] Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb. Văn học, Hà Nội.tr. 188 - 189

[21] Sắc lệnh số 234/SL , Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 14 tháng 06 năm 1955

[22] GS. Đỗ Quang Hưng (2008), Lựa chọn mô hình nhà nước thế tục, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 12, tr 5-7

Bài viết này Gửi bài Các tin khác Thực trạng pháp luật Việt Nam về thương mại điện tử 15/10/2015 Phải mạnh tay với đạo văn 28/09/2015 Một số vấn đề về tư pháp phù hợp với trẻ em 28/09/2015 Một số vấn đề pháp lý cần lưu ý rút ra từ một vụ kiện 25/09/2015 Một số ý kiến về phương pháp giảng dạy cho đối tượng là cán bộ công chức Tòa án nhân dân 24/09/2015 Vai trò của hợp tác quốc tế trong việc xây dựng trường đại học theo chuẩn mực quốc tế cho Việt Nam 23/09/2015 Bước đầu bàn về đổi mới phương pháp giảng đại học hiện nay 22/09/2015 Kỳ 2: Chế độ liên quan đến án lệ Hàn quốc 03/08/2015 Huỷ quyết định hành chính cá biệt trong pháp luật Anh Quốc: Một số vấn đề lý luận và quy định (Phần I) 23/07/2015
Thông báo Kế hoạch tổ chức thi kết thúc học phần Học kì 1 năm học 2024-2025, Khóa 7 đại học chính quy ngành Luật (11/11/2024) Công văn số: 375/HVTA-TTBDCB V/v mở khóa bồi dưỡng chuyên đề " Án xét xử tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; tội phạm liên quan đến khủng bố và rửa tiền" (30/10/2024) Công văn số: 374/HVTA-TTBDCB V/v mở khóa bồi dưỡng chuyên đề án xét xử vụ án hình sự cho người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi (28/10/2024) Quyết định số: 268/QĐ-HVTA V/v khen thưởng giảng viên, sinh viên có thành tích trong hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2023-2024 (15/10/2024) Công văn số : 344a/HVTA-TTBDCB V/v triệu tập học viên tham gia khoá bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải, đối thoại năm 2024 ở miền Bắc (Đợt 2) (14/10/2024)
Hình ảnh hoạt động
GIÁO TRÌNH TÀI LIỆU MỚI Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thi đua khen thưởng... Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015 phần thứ hai... Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự...
Tin video
Ý kiến góp ý Họ và tên: Địa chỉ mail của bạn: Tiêu đề: Chọn file:
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HỌC VIỆN TÒA ÁN Địa chỉ : Đường 282 Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội. Điện thoại: 0432.693.693 - Fax : 0432.693.693 Email: hvta@toaan.gov.vn Trưởng Ban biên tập: Giám đốc Học viện Tòa án Ghi rõ nguồn Trang thông tin điện tử Học viện Tòa án (www.hocvientoaan.edu.vn) khi trích dẫn

Từ khóa » Tín Ngưỡng Nghĩa Là Gì