Sinh Vật Phù Du Trong Ao Nuôi - Tạp Chí Thủy Sản

Thực vật phù du qua ống kính hiển vi

Thực vật phù du qua ống kính hiển vi Ảnh: Aquanetviet

Thực vật phù du

Là những sinh vật sống tự dưỡng, dị dưỡng và hỗn hợp, chúng sống thành một tập hợp. Hầu hết thực vật phù du quá nhỏ để có thể nhìn thấy từng cá thể bằng mắt thường. Tuy nhiên, khi số cá thể đủ nhiều, chúng thể hiện rất rõ khi tạo màu xanh cho nước do chất diệp lục có trong chúng.

Thực vật phù du cung cấp một nguồn ôxy hòa tan quan trọng. Vào ban ngày, các loài thực vật này sản sinh ra ôxy nhờ quá trình quang hợp với tốc độ nhanh hơn nhiều so với ôxy có thể khuếch tán từ không khí vào nước ao. Thực vật phù du nhanh chóng khử nitơ amoniac từ nước làm giảm hàm lượng của chất độc hại tiềm tàng này. Cuối cùng, độ đục do thực vật phù du tạo ra làm hạn chế sự thâm nhập ánh sáng xuống đáy ao và thực vật phù du nở hoa là một biện pháp kiểm soát tốt cho thực vật bậc cao thủy sinh sinh trưởng dưới bề mặt nước.

Động vật phù du

Là các động vật trôi nổi có kích thước từ luân trùng cực nhỏ đến có thể nhìn thấy được bằng mắt thường như là con sứa. Sự phân bố của động vật phù du bị chi phối bởi độ mặn, nhiệt độ và thức ăn sẵn có trong môi trường. Các động vật phù du nhỏ nhất có thể được mô tả là các nhà tái chế chất dinh dưỡng trong cột nước và thường được gắn liền với các biện pháp làm giàu dinh dưỡng.

Động vật phù du lớn hơn là thức ăn quan trọng cho các loài cá dùng làm mồi và giai đoạn ấu trùng của mọi loài cá. Chúng cũng liên kết các sinh vật sản xuất bậc nhất (thực vật phù du) với các sinh vật của bậc dinh dưỡng cao hơn hoặc lớn hơn. Cộng đồng động vật phù du bao gồm cả hai nhóm: sinh vật tiêu thụ bậc nhất ăn thực vật phù du, và sinh vật tiêu thụ bậc hai làm thức ăn cho động vật phù du khác.

Động vật phù du có thể được phân loại thành ba nhóm kích thước:

Microzooplankton – (sinh vật đơn bào và luân trùng) thường có kích thước bé hơn 200 microns.

Mesozooplankton – (bao gồm cả chân chèo và ấu trùng không xương sống) có kích thước từ 200 micron và 2 mm.

Macrozooplankton- (bao gồm nhóm động vật giáp xác hai kiểu chân, ấu trùng tôm, cá và động vật phù du sền sệt hoặc sứa) đều có kích thước lớn hơn 2 mm.

Động vật ăn đáy

Là một loài động vật thủy sinh có tập tính ăn ở tầng đáy của vùng biển, hồ sông, ao hoặc hồ cá hay bể. Các nhà sinh học thường sử dụng các sinh vật đáy đặc biệt cho các động vật không xương sống như sò, cua, tôm, hải quỳ, sao biển, ốc, sâu lông và hải sâm. Tuy nhiên, các sinh vật đáy bao gồm tất cả các sinh vật thủy sinh sống ở tầng trên hoặc gần đáy, có nghĩa là nó cũng bao gồm phi vật, chẳng hạn như rong và tảo.

Các nhà sinh học cũng sử dụng thuật ngữ cụ thể dẫn chiếu đến các loài cá ăn đáy, chẳng hạn như cá tầng đáy, cá đáy, những ví dụ về các loài cá ăn đáy nhóm các loài cá bơn (cá bơn, cá lưỡi trâu, cá chim), cá chình, cá tuyết, cá tuyết chấm đen, cá vược, cá mú, cá chép, cá tráp (cá hồng) và một số loài cá da trơn và cá mập. Xu hướng sinh học của các loài ăn đáy không nhất thiết phải là loài ăn mùn bã detritivores, mặc dù có rất nhiều loài ăn thực phẩm này. Một số ăn cỏ, rong, tảo mọc bám phía dưới, ăn thực phẩm thực vật. Có loài lại ăn thịt những con cá khác sống ở đáy. Một số loài động vật ăn đáy có khả năng chôn mình như dưa chuột biển, ốc sên (động vật không xương sống) hoặc cá bơn, cá đuối gai độc (động vật có xương sống). Trong ao hồ hay bể, cá ăn đáy được nuôi khá là phổ biến vì nó được cho rằng sẽ làm sạch các loại tảo mọc trong bể.

>> Các động vật thủy sản phải duy trì tất cả các nhu cầu dinh dưỡng thông qua thức ăn mà chúng tiêu thụ. Trong tự nhiên, hầu hết các động vật thủy sản sử dụng thức ăn tự nhiên bao gồm cả động vật và thực vật hiện diện trong môi trường sống và phân lớn đó là thực vật phù du (phytoplankton), đặc biệt là ở giai đoạn ấu trùng. Sau một khoảng thời gian nhất định, ấu trùng có thể ăn kết hợp với động vật phù du hoặc kết hợp cả thức ăn có nguồn gốc từ động vật và thực vật gọi là sinh vật phù du.

Từ khóa » Các Loại Tảo Phù Du