Sự Nghèo Nàn Của Tôn Giáo - Tài Liệu Text - 123doc

Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)
  1. Trang chủ
  2. >>
  3. Lý luận chính trị
  4. >>
  5. Chủ nghĩa xã hội khoa học
sự nghèo nàn của tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.97 KB, 13 trang )

Họ Và Tên : Quách Thị NhànLớp: Quay phim truyền hình K32Môn học: Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa HọcĐỀ BÀI: phân tích luận điểm sau của C.Mác: “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực , vừa là sự phản kháng chống lại hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim. Nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân…”VẤN ĐỀ: “ NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO”PHẦN MỞ ĐẦU:Thuật ngữ “tôn giáo” trong tiếng anh là “religion”, nghĩa là sự ràng buộc cái hiện thực vào cái hư ảo, siêu nhiên, là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên.Từ lịch sử cho đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo. Các nhà thần học hay các nhà tâm lý học đều có quan niệm về tôn giáo theo cách của riêng mình.Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lenin cũng đưa ra một hệ thống các luận điểm cơ bản về tôn giáo dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Khi bàn về nguồn gốc,bản chất và chức năng của tôn giáo C. Mác tóm lược lại trong một nhận xét khá ngắn gọn mà đầy đủ: “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực , vừa là sự phản kháng chống lại hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim. Nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân…” Chủ nghĩa Mác-lenin xem xét tôn giáo trên cả ba phương diện bản thể luận, nhận thức luận và xã hội học,vì thế mà có độ đầy đủ,xác thực và phù hợp nhất.Chúng ta có thể hiểu khái niệm tôn giáo một cách tổng quát: “tôn giáo là khái niệm để chỉ một hình thái tín ngưỡng, là hoạt động của cộng đồng người có cùng một thế giới quan duy tâm về đời sống hiện thực của mình, cùng tôn sùng và phụ thuộc vào một lực lượng siêu nhiên và cùng sinh hoạt gắn bó với nhau trong một tổ chức và một thể chế tương ứng.PHẦN NỘI DUNGTôn giáo là hệ thống tín ngưỡng, sùng bái một hay nhiều nhiều vị thần và những nghi lễ để thể hiện sự sùng bái ấy.Chủ nghĩa Mác- Leenin cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh một cách hoang đường hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên, xã hội đều trở thành thần bí, những sức mạnh của thế gian trở thành sức mạnh của siêu thế gian.Như vậy, tôn giáo có nguồn gốc xuất phát từ đâu?Từ luận điểm của Mác: “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim.”, đã giúp ta hiểu được nguồn gốc kinh tế- xã hội và nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. “Nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”, qua đó thể hiện rõ nét nguồn gốc tâm lý của tôn giáo. Cũng từ những nguồn gốc hình thành đó mà quy định bản chất, chức năng của tôn giáo trong đời sống tinh thần của xã hội hiện thực “là thuốc phiện của nhân dân”.I. NGUỒN GỐC CỦA TÔN GIÁONếu các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên, thế giới tự nhiện xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các nhà duy vật, vô thần lại có quan điểm hoàn toàn đối lập. Chủ nghĩa Mác- Lenin cho rằng, tôn giáo có nguồn gốc hiện thực của nó.1. Nguồn gốc kinh tế- xã hộiĐứng vững trên lập trường duy vật lịch sử, C.Mác và Ăngghen đã luận giải rằng sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất phát từ hiện thực khách quan, là sự phản ánh hiện thực, “sự nghèo nàn của hiện thực” và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều kiện kinh tế- xã hội.Trong lịch sử tiến hóa của mình, con người luôn có yêu cầu đặt ra là cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt ngày càng cao của mình. Nhưng trong xã hội cộng sản nguyên thủy, trình độ của lực lượng sản xuất và đời sống xã hội thấp kém, con người luôn cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các hiện tượng tự nhiên, vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực siêu nhiên và thần thánh hóa những sức mạnh quyền lực ấy. Đây chính là nguồn gốc cơ sở đầu tiên của sự hình thành và tồn tại tôn giáo.Đặc biệt khi xã hội xuất hiện có chế độ tư hữu, có sự phân chia giai cấp và nảy sinh đối kháng giai cấp, có sự áp bức, bóc lột về kinh tế, bất công xã hội xuất hiện ngày càng nhiều và trở nên phổ biến trong khi các cuộc đấu tranh giai cấp,đấu tranh xã hội chưa giải quyết triệt để những bất công xã hội này làm cho bộ phận lớn người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các thế lực thống trị. Thêm vào go là những yếu tố ngẫu nhiên,tự phát, rủi ro bất ngờ nằm ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ nỗi sợ hãi,lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó cũng là nguyên nhân khiến con người tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo, những lực lượng siêu nhiên trở thành đức tin, trở thành lực lượng cứu thế để bù đắp cho sự bất lực của con người và in sâu vào tiềm thức của họ. Đây cũng là nguồn gốc hình thành nên tôn giáo.Cắt nghĩa về nguồn gốc kinh tế -xã hội của tôn giáo, Ph.Ăngghen viết: “trong những thời kì đầu của lịch sử chính những lực lượng thiên nhiên là những cái trước tiên được phản ánh như thế, và trong quá trính phát triển hơn nữa thì ở những dân tộc khác nhau,những lực lượng thiên nhiên ấy được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức hỗn tạp… Nhưng chẳng bao lâu,bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động- những lực lượng này đối lập với con người,một cahs xa lạ lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị hội với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống bản thân những lực lượng tự nhiên vậy”.Không chỉ có những triết gia duy vật biện chứng nổi tiếng mới có ý kiến như vậy mà khi bàn về vấn đề này, Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra long tin vào thần thánh, ma quỷ và những phép màu”.2. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáoCác nhà duy vật trước Mác thường nhấn mạnh đến nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Nhưng những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin lại quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế- xã hội,đồng thời làm rõ hơn nguồn gốc nhận thức của tôn giáo.Trong lịch sử tồn tại của loài người, nhận thức của con người về về tự nhiên,xã hội và bản thân mình luôn bị giới hạn đối với thế giới xung quanh, đồng thời cũng luôn có cái “đã biết” và cái “chưa biết” tồn tại.Đối với “chưa biết” thì những người duy vật giải thích rằng đó là hạn chế của lịch sử trong năng lực nhận thức của con người và con người không ngừng vươn lên để nhận thức nó.Ngược lại với các nhà duy vật thì các nhà duy tâm quan niệm cái “chưa biết” đó là cái siêu nhiên có quyền lực vạn năng và chi phối cái “đã biết”,chi phối đời sống hạnh phúc con người, do đó con người phải tôn sùng nó nếu mong có được cuộc sống hạnh phúc trên trần gian hay ở “thế giới bên kia”.Như vậy sự hạn chế trong nhận thức của con người cũng là nguồn gốc của tôn giáo. Dù hiện tại khoa học ngày càng phát triển, ngày càng nhiều những cái “chưa biết” được con người nhận thức song thế giới khách quan là muôn màu, muôn vẻ và muôn điều bí ẩn vì thế mà những ‘chưa biết” luôn luôn tồn tại. Bộ phận dân cư cần đến tôn giáo như một sự nỗ lực để tìm hiểu cái “chưa biết”bằng con đường duy tâm.Cũng chính bởi lẽ đó mà sự hạn chế trong nhận thức của con người được xem là nguồn gốc sẽ tồn tại lâu dài nhất của tôn giáo.Ngoài ra nguồn gốc nhận thức của tôn giáo còn được thể hiện ở nội dung, phương pháp giáo dục của xã hội, nhà trường,gia đình,trong việc chuyển giao tri thức cho thế hệ tương lai vẫn còn những quan điểm duy tâm và chưa tiếp thu được chủ nghĩa duy vật biện chứng, vì lẽ đó nên dễ dẫn đến niềm tin tôn giáo ở tiềm thức của các thế hệ trẻ.3. Nguồn gốc tâm lýHoạt động tâm lý là lĩnh vực tình cảm, tinh thần của con người trước các hiện tượng tự nhiên và xã hội.Hoạt động tâm lý là nguồn gốc của tôn giáo được biểu hiện:Trước hết đó là tâm lý sợ sệt, yếu đuối, thiếu sức mạnh của lý trí. “Sự sợ hãi sinh ra thần linh”, giống như Lênin phân tích “sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản, sự phá sản đột ngột, bất ngờ, ngẫu nhiên… làm họ bị diệt vong, từ đó họ cảm thấy hụt hẫng trong cuộc sống, trống vắng trong tâm hồn vì thế sẽ hình thành tâm lý tôn giáo để mong có được sự yên ổn tâm linh.Hay tâm lý vui, buồn, kính trọng, biết ơn những lực lượng tự nhiên,xã hội có liên quan đến hạnh phúc hiện tại và tương lai của con người. Tâm lý đó khiến cho một bộ phận dân cư tôn sùng, ngưỡng mộ những lực lượng thần bí, siêu nhiên. Đó cũng là tâm lý tôn giáo.Từ những đặc điểm tâm lý đó mà dần hình thành trong dân cư những thói quen sinh hoạt, giáo huấn những lẽ sống, những đạo lý làm người, nét tâm lý cao đẹp ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, có thờ có thiêng, có kiêng có lành, II. BẢN CHẤT CỦA TÔN GIÁO1. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sửTrước hết, thành tựu của Mác cà Ăngghen là chỉ ra tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Mác khẳng định “con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”. Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người của tôn giáo được thức hiện thông qua con đường nhận thức. Chủ thể tạo ra tôn giáo là con người,con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình và đối tượng của sự phản ánh mà con người sáng tạo ra tôn giáo là sức mạnh ở bên ngoài thống trị cuộc sống hàng ngày của con người,còn phương thức nhận thức để tạo ra tôn giáo là phương thức hư ảo. Với chủ thể, đối tượng và phương thức của nhận thức như trên thì kết quả là con người tạo ra cái siêu nhiên thần thánh trong đầu óc mình thuộc lĩnh vực ý thức, niềm tin. Sự ra đời của tôn giáo với bản chất như trên là tất yếu khách quan vì khi con người bị bất lực trước sức mạnh của thế giới bên ngoài thì con người cần đến tôn giáo nhằm bù đắp cho sự bất lực ấy. Điều đó đồng nghĩa với việc bản chất của tôn giáo được thể hiện rõ nhất thông qua chức năng “đền bù hư ảo” của nó.2. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hộiĐứng trên lập trường duy vật lịch sử, Mác đã giải quyết vấn đề bản chất tôn giáo thông qua việc chỉ ra ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Mặc dù có tính độc lập tương đối song mọi hiện tượng trong đời sống tinh thần,xét đến cùng đều có nguồn gốc từ đời sống vật chất và tôn giáo cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Tôn giáo cũng là một hình thái ý thức xã hội, nhưng khác với các hình thái ý thức xã hội khác, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực là sự phản ánh đặc thù,là sự phản ánh hoang đường thế giới khách quan. Với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tôn giáo là sự phản ánh một cách biến dạng, sai lệch, hư ảo về giớ tự nhiên và con người về các quan hệ xã hội, là sự nhân cách hóa giới tự nhiên, là sự “đánh mất bản chất con người”. Chính con người đã khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên khác với bản chất của mình để rồi từ đó con người có chỗ dựa, được chở che, an ủi dù đó chỉ là chỗ dựa “hư ảo”.3. “Sự đền bù hư ảo” của tôn giáoVới luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, C.Mác không chỉ muốn khẳng định tính chất “ru ngủ” hay độc hại của tôn giáo, mà còn nhấn mạnh đến sự tồn tại tất yếu của tôn giáo với tư cách một thứ thuốc giảm đau được dùng để xoa dịu những nỗi đau trần thế. Thực vậy, người ta dùng thuốc giảm đau khi người ta bị đau đớn và chừng nào còn đau đớn, thì chừng đó còn có nhu cầu dùng nó. Đó chính là lý do để lý giải tại sao người ta hướng tới, hy vọng và coi tôn giáo như chiếc “phao cứu sinh” cho cuộc sống của mình, cho dù đó chỉ là những hạnh phúc ảo tưởng, chỉ là “sự đền bù hư ảo”.Điều vĩ đại của C.Mác, quan điểm duy vật lịch sử và tính cách mạng trong học thuyết Mác về tôn giáo chính là ở chỗ đó. Trong khi các nhà duy vật vô thần chỉ biết phê phán bản thân tôn giáo thì C.Mác lại không phê phán tôn giáo mà phê phán chính cái hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo, tức là phê phán sự áp bức, bất công, bạo lực… trong xã hội đã đẩy con người phải tìm đến với tôn giáo và ru ngủ mình trong tôn giáo. C.Mác đã nhận thấy rất rõ quan hệ nhân – quả trong vấn đề này. Vì tôn giáo là một hiện tượng tinh thần có nguyên nhân từ trong đời sống hiện thực nên muốn xoá bỏ tôn giáo, không có cách nào khác là phải xoá bỏ cái hiện thực đã làm nó nảy sinh. Theo C.Mác, vấn đề không phải là “vứt những bông hoa giả” đi mà là xoá bỏ bản thân cái “xiềng xích” được trang điểm bởi những bông hoa giả đó để con người có thể “giơ tay hái những bông hoa thật” cho mình, tức là tìm kiếm được hạnh phúc thật sự ngay trong thế giới hiện thực. Từ đó, C.Mác đã khẳng định rằng, muốn xoá bỏ tôn giáo và giải phóng con người khỏi sự nô dịch của tôn giáo thì trước hết phải đấu tranh giải phóng con người khỏi những thế lực của trần thế, xoá bỏ chế độ áp bức bất công, nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và xây dựng một xã hội mới không còn tình trạng người bóc lột người, đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa.III. CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO1. Chức năng đền bù hư ảoLuận điểm nôỉ tiếng của Mác: “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của hình thái ý thức xã hội này.Giống như thuốc phiện,tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của sự làm nhẹ tạm thời nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những mất mát, những thiếu hụt hiện thực của đời sống con người. Nhưng bên cạnh go nó cũng gây ra tác hại cho con người khi tạo ra ở họ nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện thực, quá tin tưởng vào thần linh, phụ thuộc vào tâm linh, tiêm nhiễm vào tinh thần của họ những quan niệm phản khoa học mà có thể những thế lực chính trị sẽ lợi dụng tôn giáo để dễ bề cai trị, áp bức con người.Câu nói này của Mác đã khẳng định tôn giáo là một hiện tượng tồn tại dai rẳng,lâu bền như khi con người nghiện “thuốc phiện” không dễ gì bỏ được. Vì lẽ đó, trong xuốt thời gian tồn tại của mình trong lịch sử,tôn giáo sẽ không ngừng thực hiện chức năng an ủi,làm giảm nhẹ “nỗi đau”,là “tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức” không gì thay thế được.Ý kiến này của Mác cũng định hướng cho chúng ta trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo: không chỉ là tuyên truyền mà còn phải xây dựng cuộc sống cho nhân dân để từ ảo tưởng tôn giáo trở thành vấn đề hiện thực, mang lại cuộc sống ấm no, đủ đầy cho con người. Mặt khác, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cũng phải linh hoạt, mềm dẻo,không được tuyên chiến với tôn giáo, như Lênin khẳng định : “ tuyên chiến với tôn giáo là tự sát”.2. Đáp ứng nhu cầu tâm linh, tình cảm của con ngườiTôn giáo có chức năng chế ngự nỗi sợ hãi bởi ai cũng có nỗi sợ,và sợ nhất là cai chết. Vì không ai hiểu cái chết là gì,và chết đi rồi sẽ như thế nào nên người ta luôn lo sợ nó là một điều khủng khiếp. Nên trong tôn giáo cũng xây dựng một ảo tưởng về thế giới bên kia sau khi chết, có thể là thiên đàng,địa ngục, âm phủ hay như thế nào là phụ thuộc vào cách sống và tu dưỡng đạo đức,những việc con người đã làm trong cuộc sống hiện tại. Điều này góp phần tạo nên tâm lý chung,có ích trong việc giáo dục nhân cách cho con người.Tôn giáo cũng có chức năng giải tỏa căng thẳng, lo âu, là phương pháp trị liệu tâm lý, giúp cho đời sống tinh thần của con người được thanh thản, bình tâm hơn.3. Giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, văn hóa con ngườiTôn giáo tạo ra hệ thống chuẩn mực, những giá trị, những nghi lễ nhằm điều chỉnh hành vi của con người theo những giáo điều, lệ thức sinh hoạt không chỉ trong công việc tâm linh mà còn giáo dục nhân cách đạo đức, hành vi, thái độ ứng xử cho con người trong cuộc sống hàng ngày và trong cả cộng đồng xã hội.4. Chức năng nhận thứcTôn giáo cũng là một phương cách nhận thức khác với khoa học. Nếu khoa học dạy con người nhận thức thế giới một cách duy lý, dựa trên lý tính, trên cơ sở tri thức xác thực, phổ quát, khách quan thì tôn giáo giúp con người nhận thức thế giới theo cách riêng, bằng thần bí, bằng đức tin,cảm quan, trải nghiệm cá nhân. Tôn giáo quan tâm tới các giá trị,lý giải các vấn đề tự nhiên và xã hội, hướng con người tới cái siêu nhiên thần thánh, giúp họ tích cực làm điều thiện, có ích, và luôn lạc quan, có niềm tin yêu cuộc sống.5. Chức năng liên kết cộng đồng qua tổ chức giáo hộiXuất phát từ bản chất xã hội của tôn giáo nên nó cũng thực hiện chức năng liên kết tín đồ, liên kết cộng đồng. Không có một tôn giáo nào tồn tai mà chỉ có một hoặc một số ít người theo. Đầu tiên tư một người sáng lập, sau sẽ thành một nhóm người,tiếp đó là phát triển thành một cộng đồng. Những người có cùng niềm tin tôn giáo thì dễ hiểu nhau và có xu hướng sống cố kết với nhau hơn với những người không cùng hoặc không có tôn giáo. Họ có thể bảo vệ nhau, chống lại những mối đe dọa hoặc chế độ phản tiến bộ đương thời.6. Chức năng giao tiếp, nhiều khi nó đồng nhất với chức năng liên kết cộng đồngCang nhiều người tham gia một tôn giáo thì nhu cầu quản lý, tập hợp tín đồ đặt ra ngày càng cao, từ đó họ lập ra các thiết chế tôn giáo bắt buộ mọi tín đồ phải thực hiện. Khi đó, các tín đồ tập hợp thành một xã hội thu nhỏ, nếu tôn giáo tiếp tục phát triển lớn mạnh sẽ có thể bao trùm lên xã hội của toàn quốc gia,dân tộc. Đó là chức năng liên kết cộng đồng của tôn giáo, thể hiện ở khả năng liên hệ giữa những người có chung một tín ngưỡng tôn giáo. Sự liên hệ ấy được thể hiện chủ yếu trong hoạt động thờ cúng, tôn sùng, trong đó, hoạt động giao tiếp với thần thánh được xem là giao tiếp tối cao.PHẦN KẾT THÚCNhư vậy,theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tôn giáo có nguồn gốc từ trong hiện thực và phản ánh chính hiện thực đó, một hiện thực cần có tôn giáo và có những điều kiện đủ để tôn giáo xuất hiện và tồn tại. Luận điểm của Mác tuy ngắn gọn “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” nhưng chứa đựng trong đó là tầm cao tri thức, không những chỉ ra nguồn gốc hiện thực, nguyên nhân phát sinh, hình thành tôn giáo mà còn cho ta thấy được bản chất, điểm khác biệt của một hiện tượng tâm linh, thuộc về tinh thần nhưng lại được nhìn nhận từ hiện thực, xuất phát từ hiện thực và phản ánh chính hiện thực của thế giới khách quan, đồng thời cũng phản ánh chức năng tồn tại của hình thái ý thức xã hội này trong đời sống hiện thực của con người.Tôn giáo vẫn sẽ luôn tồn tại cùng nguồn gốc nhận thức của mình trong đời sống cộng đồng xã hội.

Tài liệu liên quan

  • Phân tích luận điểm của Mác Phân tích luận điểm của Mác
    • 17
    • 880
    • 0
  • Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vận dụng phân tích thực tiễn Việt Nam hiện nay Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vận dụng phân tích thực tiễn Việt Nam hiện nay
    • 8
    • 7
    • 158
  • Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi” Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”
    • 15
    • 6
    • 4
  • phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vận dụng phân tích thực tiễn Việt Nam hiện nay phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Vận dụng phân tích thực tiễn Việt Nam hiện nay
    • 11
    • 4
    • 14
  • Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh:  “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” Vận dụng phân tích thực tiễn Việt Nam hiện nay. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” Vận dụng phân tích thực tiễn Việt Nam hiện nay.
    • 11
    • 1
    • 5
  • Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ hiểu được giá trị của tự do, độc lập khi dân được ăn no mặc đủ”. Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ hiểu được giá trị của tự do, độc lập khi dân được ăn no mặc đủ”.
    • 24
    • 14
    • 129
  • phân tích luận Điểm của Lênin: “Sự phát triển là cuộc “đấu tranh” của các mặt đối lập”. ý nghĩa luận điểm đó. phân tích luận Điểm của Lênin: “Sự phát triển là cuộc “đấu tranh” của các mặt đối lập”. ý nghĩa luận điểm đó.
    • 13
    • 17
    • 53
  • Phân tích luận điểm: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ hiểu được giá trị của tự do độc lập khi dân được ăn no mặc đủ” Phân tích luận điểm: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ hiểu được giá trị của tự do độc lập khi dân được ăn no mặc đủ”
    • 11
    • 18
    • 113

Từ khóa » Sự Nghèo Nàn Là Gì