Thượng Hải – Wikipedia Tiếng Việt

Thượng Hải thị上海市
—  Thành phố trực thuộc trung ương  —
Một số hình ảnh của Thượng Hải.
Map
Thượng Hải thị trên bản đồ Thế giớiThượng Hải thịThượng Hải thị
Tọa độ: 31°10′B 121°28′Đ / 31,167°B 121,467°Đ / 31.167; 121.467
Quốc giaTrung Quốc
Thủ phủHoàng Phố
Chính quyền
 • Bí thư Thành ủyTrần Cát Ninh (李强)
 • Thị trưởngCung Chính (龚正)
Diện tích
 • Thành phố trực thuộc trung ương6,340,5 km2 (2,448,1 mi2)
Độ cao cực đại103,4 m (339,2 ft)
Độ cao cực tiểu0 m (0 ft)
Dân số
 • Thành phố trực thuộc trung ương27,058,479
 • Mật độ2.729,9/km2 (7,070/mi2)
 • Vùng đô thị34,000,000
Múi giờUTC+8
Mã bưu chính200000 - 202100
Mã điện thoại21
Mã ISO 3166CN-SH
Thành phố kết nghĩaYokohama, Ōsaka, Milano, Rotterdam, San Francisco, Zagreb, Hamhung, Manila, Karachi, Antwerpen, Montréal, Piraeus, Pomorskie, Chicago, Hamburg, Casablanca, Mạc-xây, São Paulo, Sankt-Peterburg, Queensland, Istanbul, Haifa, Busan, Thành phố Hồ Chí Minh, Port Vila, Dunedin, Tashkent, Porto, Windhoek, Santiago de Cuba, Espoo, Rosario, Jalisco, Liverpool, Maputo, Chiang Mai, Dubai, KwaZulu-Natal, Guayaquil, Valparaíso, Barcelona, Oslo, Colombo, Bratislava, Trung Jutland, Cork, Đông Java, Rhône-Alpes, Phnôm Pênh, Salzburg, Québec, Vladivostok, Jeolla Nam, Nagasaki, Jeonbuk, Basel, Alexandria, Lille, Gdańsk, Luân Đôn, Hirakata, Neyagawa, Okahandja, Aden, Izumisano, Băng Cốc, Winston-Salem, Constanța, Yao, Yerevan, Thành phố New York, Tỉnh Ōsaka, Budapest, Göteborg (đô thị), Nicosia Municipality, Thành phố Luân Đôn, Praha, Minsk, Tabriz, Jakarta
Tiếp đầu biển số xe沪A, B, D, E 沪C (ngoại ô)
GDP (2022)¥ 4465 tỷ NDT (tương đương 663,874 tỷ USD danh nghĩa, PPP là 1090 tỷ USD (thứ 11)[1]
GDP đầu người (2022)¥ 179.538 (26.747 USD) (thứ 2) [2] 43.833 USD (PPP)[3]
Hoa đặc trưngNgọc lan(Magnolia denudata)
Dân tộc chính (2000)Hán - 99%Hồi - 0.4%
Websitewww.shanghai.gov.cn
Thượng Hải
"Thượng Hải" trong "chữ Hán"
Tiếng Trung上海
Bính âm Hán ngữShànghǎi
Tiếng NgôZaan22 he44
Nghĩa đen"Phía trên biển", "đi ra biển"
Phiên âm
Tiếng Hán tiêu chuẩn
Bính âm Hán ngữShànghǎi
Chú âm phù hiệuㄕㄤˋ   ㄏㄞˇ
Quốc ngữ La Mã tựShanqhae
Wade–GilesShang4-hai3
IPA[ʂâŋ.xài]
Tiếng Ngô
Latinh hóaZaan22 he44
Latinh hóa tiếng Thượng HảiZånhae
Tiếng Khách Gia
Latinh hóaSông-hói
Tiếng Quảng Châu
Latinh hóa YaleSeuhnghói
IPA[sœ̀ːŋ.hɔ̌ːy]
Việt bínhSoeng6hoi2
Tiếng Mân Nam
POJ tiếng Mân Tuyền ChươngSiōng-hái
Tiếng Mân Đông
Phiên âm Bình thoại tiếng Phúc ChâuSiông-hāi

Thượng Hải (chữ Hán: 上海, bính âm: Shànghǎi) là thành phố đông dân nhất Trung Quốc,[4][5] và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới.[6] Thượng Hải nằm ở bờ biển phía Đông của Trung Quốc và là một trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của nước này. Diện tích: 6.340,5 km². Năm 2018, Thượng Hải là đơn vị hành chính đông thứ 25 về số dân với 27 triệu dân,[7] tương đương với Cameroon[8] và đứng thứ 11 về kinh tế Trung Quốc với GDP đạt 4465 tỷ NDT (tương đương 663,874 tỷ USD GDP danh nghĩa, GDP theo sức mua tương đương là 1090 tỷ USD), GDP danh nghĩa tương ứng với Thái Lan, gấp gần 1,5 lần so với GDP Việt Nam năm 2022 (432,7 tỷ USD).[9] Thượng Hải có chỉ số GDP đầu người đứng thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Bắc Kinh, đạt 137.000 NDT (tương đương 20.130 USD)[10]. Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.

Ngày nay, Thượng Hải có hải cảng sầm uất nhất thế giới, hơn cả cảng Singapore và Rotterdam. Xuất phát là một làng chài hẻo lánh, Thượng Hải đã trở thành một thành phố quan trọng bậc nhất cho đến Thế kỷ XX, và là trung tâm văn hóa phổ thông, các mưu đồ chính trị và nơi tụ họp của giới trí thức trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc. Thượng Hải đã từng một thời là trung tâm tài chính lớn thứ 3 thế giới, chỉ xếp sau Thành phố New York và Luân Đôn, và là trung tâm thương mại lớn nhất Viễn Đông cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Sau khi Mao Trạch Đông cầm quyền Trung Quốc kể từ năm 1949, Thượng Hải đã đi vào thời kỳ sụt giảm tốc độ phát triển do chế độ thuế má cao và do sự triệt thoát kinh tế tư bản của chính quyền mới. Nhờ sự cải cách, mở cửa theo mô hình kinh tế thị trường do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và lãnh đạo mà đặc biệt là từ năm 1992, Thượng Hải đã có những bước bứt phá ngoạn mục về phát triển kinh tế và nhanh chóng vượt qua Thâm Quyến và Quảng Châu - một thành phố đặc khu được tự do hóa sớm nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để trở thành đầu tàu kinh tế Trung Quốc. Vẫn còn nhiều thách thức cho thành phố này đầu thế kỷ XXI như nạn di dân ồ ạt và sự phân hóa giàu nghèo. Tuy nhiên, bất chấp những thách thức đó, các khu nhà chọc trời và cuộc sống đô thị sôi động của Thượng Hải vẫn là biểu tượng cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.

Nguồn gốc tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]
"Thượng Hải" bằng chữ Hán

Dân Thượng Hải đọc tên thành phố là /zɑ̃.'he/, phiên âm pinyin theo tiếng Quan Thoại là Shànghǎi. Thượng Hải (Thượng là trên, Hải là biển) là cái tên xuất phát từ thời Nhà Tống (thế kỷ XI) - lúc này đã có một cửa sông và một thị trấn cùng tên gọi. Nghĩa của tên gọi đang là vấn đề gây tranh cãi "phía trên biển" hoặc "đi ra biển". Người Việt Nam gọi là Thượng Hải; Người Đức viết là Schanghai, tiếng Hà Lan là Sjanghai, tiếng Bồ Đào Nha là Xangai, tiếng Pháp là Shanghaï. Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, phiên âm pinyin Shanghai đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tiếng Nhật viết tên thành phố gần với cách đọc trong Quan Thoại là シャンハイ shanhai.

Tên viết tắt của thành phố là Hỗ /Hộ (滬/沪) và Thân (申). Tên đất Hỗ/Hộ do tên cổ Hỗ/Hộ Độc (滬瀆/沪渎) của con sông Tô Châu. Tên Thân lấy tên theo Xuân Thân quân (春申君), một viên quan thời nước Sở vào thế kỷ III Trước Công Nguyên - Xuân Thân là một anh hùng thời đó của nước Sở (trong lãnh thổ đó có đất Thượng Hải bây giờ). Do vậy Thượng Hải còn được gọi là "Thân Thành" (申城). Trong tiếng Anh thành phố này có nhiều biệt danh: Paris phương Đông, Nữ hoàng phương Đông, Hòn ngọc phương Đông và thậm chí cả Gái điếm châu Á (gọi trong thời kỳ 1920-1930, lúc đó thành phố là một trung tâm tội phạm, ma túy và mại dâm).[cần dẫn nguồn]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Tranh vẽ Thượng Hải vào thế kỷ XVII

Trước khi thành lập thành phố Thượng Hải, Thượng Hải là một phần của huyện Tùng Giang (松江縣), thuộc phủ Tô Châu (蘇州府). Từ thời Nhà Tống (960-1279), Thượng Hải dần trở thành một hải cảng sầm uất, vượt lên trên vai trò chính trị là một địa phương thuộc huyện. Ngày nay, Tùng Giang (淞江) là 1 quận thuộc thành phố Thượng Hải.

Một bức tường thành được xây dựng năm 1553 - thời điểm được xem như bắt đầu hình thành thành phố Thượng Hải. Tuy nhiên, trước thế kỷ XIX, Thượng Hải không được xem là thành phố lớn của Trung Hoa. Do đó, so với phần lớn các thành phố khác của Trung Quốc, có rất ít công trình cổ tiêu biểu ở thành phố này ngày nay. Một vài địa điểm văn hóa ít ỏi có thể thấy ở Thượng Hải ngày nay rất cổ kính và tiêu biểu thời Tam Quốc do địa điểm này nằm trong trung tâm văn hóa lịch sử của nước Đông Ngô (222-280).

Trong thời kỳ Càn Long thời Nhà Thanh, Thượng Hải đã trở thành một cảng khu vực quan trọng của khu vực sông Trường Giang và sông Hoàng Phố. Thành phố cũng trở thành hải cảng chính của các tỉnh Giang Tô và Triết Giang gần đấy dù trao đổi mậu dịch với nước ngoài thời kỳ này bị triều đình cấm. Một khu vực lịch sử quan trọng của thời kỳ này là Ngũ Giác Trường (五角场) (ngày nay là quận Dương Phố) - là nền tảng của trung tâm thành phố. Khoảng cuối thời Càn Long, Thập Lục Phố (ngày nay là quận Hoàng Phố) trở thành cảng lớn nhất Đông Á.

Thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX

[sửa | sửa mã nguồn]

Tầm quan trọng của Thượng Hải tăng lên nhanh chóng vào thế kỷ XIX do vị trí chiến lược của thành phố này ở cửa sông Dương Tử khiến nơi đây có vị trí lý tưởng để giao thương với phương Tây. Trong cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất vào đầu thế kỷ XIX, các lực lượng của Anh đã tạm thời chiếm giữ Thượng Hải. Cuộc chiến kết thúc năm 1842 với hòa ước Nam Kinh với kết quả là các cảng nhượng quyền trong đó có Thượng Hải, mở cửa cho các nước buôn bán. Hiệp ước Bogue được ký năm 1843 và Hiệp ước Wangsia Trung-Mỹ ký năm 1844 khiến cho phương Tây giành được có đặc quyền ngoại giao trên đất Trung Hoa và chính thức tồn tại cho đến năm 1943 nhưng về bản chất không còn tồn tại từ cuối những năm 1930. Từ những năm 20 đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX, Thượng Hải được gọi là thành phố tội phạm. Các băng nhóm chiếm giữ quyền lực và điều hành các sòng bạc và các nhà thổ.

Thái Bình Thiên Quốc nổ ra năm 1850 và năm 1853 Thượng Hải bị chiếm giữ bởi hội Tam Hoàng gọi là Tiểu Đao hội (Small Swords Society). Các cuộc thanh trừng phá hủy các miền quê nhưng không đụng chạm đến các khu định cư của phương Tây. Mặc dù trước đó người Hoa bị cấm sống trong các khu định cư của người nước ngoài, năm 1854 các quy định mới đã cho phép người Hoa được đến ở. Giá đất tăng lên đáng kể.

Trong năm 1854, cuộc họp thường niên đầu tiên của Hội đồng thành phố Thượng Hải đã họp, Hội đồng này được tạo ra để quản lý các khu định cư của dân ngoại quốc. Năm 1863, khu định cư của Anh, tọa lạc dọc theo bờ Tây sông Hoàng Phố đến phía nam nhánh sông Tô Châu (quận Hoàng Phố) và khu định cư người Mỹ tọa lạc ở bờ Tây sông Hoàng Phố đến phía Bắc của nhánh sông Tô Châu (quận Hán Khẩu) sáp nhập với nhau thành Khu định cư quốc tế. Người Pháp chọn lựa phương án ra khỏi Hội đồng thành phố Thượng Hải và thay vào đấy là duy trì Khu nhượng địa Pháp, tọa lạc ở phía Tây của Khu định cư quốc tế. Thời kỳ này có một lượng lớn dân di cư từ châu Âu và Bắc Mỹ, những người tự gọi mình là "Shanghighlanders".

Chiến tranh Thanh-Nhật nổ ra năm 1894-1895 với kết quả là đế quốc Nhật Bản giành quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên theo hiệp ước Shimonoseki, cùng với đó nước này nổi lên như là một cường quốc đóng vai trò đầu tư kinh tế cho Thượng Hải. Nhật Bản đã xây dựng các nhà máy đầu tiên ở Thượng Hải, vốn đã sớm được sao chép bởi các cường quốc nước ngoài khác. Thượng Hải lúc đó là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở Viễn Đông. Tất cả hoạt động quốc tế này đã mang lại cho Thượng Hải biệt danh "Athens của Trung Quốc".

Dưới thời Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949), Thượng Hải đã được nâng lên thành đô thị vào ngày 14 tháng 7 năm 1927. Mặc dù các nhượng địa bị loại khỏi tầm kiểm soát của họ, đô thị Trung Quốc mới này vẫn có diện tích 828,8 km vuông (320,0 dặm vuông)), bao gồm các quận hiện đại của Bảo Sơn, Yangpu, Zhabei, Nanshi và Phố Đông. Do một thị trưởng và hội đồng thành phố Trung Quốc đứng đầu, nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền thành phố mới là tạo ra một trung tâm thành phố mới ở thị trấn Jiangpu của quận Yangpu, bên ngoài ranh giới của các nhượng địa. "Kế hoạch Đại Thượng Hải" bao gồm bảo tàng, thư viện, sân vận động thể thao và hội trường thành phố, được xây dựng một phần đến khi kế hoạch bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược của Nhật Bản.

Thời chiến

[sửa | sửa mã nguồn]
Quận Áp Bắc chìm trong khói lửa.
"Ngày thứ bảy đẫm máu": một đứa bé bên đống tro tàn ở ga Thượng Hải sau đợt không kích của phát xít Nhật, tháng 8 năm 1937

Ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân Nhật nổ súng xâm lược Thượng Hải. Chính quyền Trung Quốc chống cự, chiến đấu bế tắc; một cuộc ngừng bắn đã được môi giới vào tháng Năm. Trận Thượng Hải (1937) đã dẫn đến việc chiếm đóng các bộ phận quản lý của Trung Quốc ở Thượng Hải ngoài khu định cư quốc tế và nhượng địa Pháp. Các nhượng địa cuối cùng đã bị chiếm đóng bởi người Nhật vào ngày 8 tháng 12 năm 1941 và vẫn bị chiếm đóng cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, trong thời gian đó nhiều tội ác chiến tranh của binh sĩ Nhật đã xảy ra.

Ngày 27 tháng 5 năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân nắm quyền kiểm soát Thượng Hải. Theo Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới (PRC), Thượng Hải là một trong ba thành phố không sáp nhập vào các tỉnh lân cận trong thập kỷ tới (những nơi khác là Bắc Kinh và Thiên Tân). Thượng Hải trải qua một loạt các thay đổi trong ranh giới các phân khu của nó trong thập kỷ tới. Sau năm 1949, hầu hết các công ty nước ngoài chuyển văn phòng của họ từ Thượng Hải sang Hồng Kông, như là một phần của việc thoái vốn nước ngoài do chiến thắng của Cộng sản.

Thời hiện đại

[sửa | sửa mã nguồn]
Địa bàn hoạt động của các bang hội tại Thượng Hải những năm 1980

Trong những năm 1950 và 1960, Thượng Hải trở thành trung tâm chủ nghĩa cực đoan từ khi nó là trung tâm công nghiệp của Trung Quốc với hầu hết các công nhân lành nghề. Người chủ nghĩa cánh tả cực đoan Giang Thanh và ba đồng minh của bà, cùng với tứ nhân bang, có trụ sở tại thành phố. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ hỗn loạn nhất của Cách mạng Văn hóa, Thượng Hải vẫn có thể duy trì năng suất kinh tế cao và ổn định xã hội tương đối. Trong phần lớn lịch sử của CHND Trung Hoa, Thượng Hải là một thành phố đóng góp tương đối lớn về thu thuế cho chính quyền trung ương, Thượng Hải vào năm 1983 đã đóng góp nhiều hơn vào doanh thu thuế cho chính quyền trung ương so với lúc đã nhận được khoản đầu tư trong 33 năm trước đó. Điều này dẫn đến chi phí của phúc lợi tàn phá nghiêm trọng của người Thượng Hải và phát triển cơ sở hạ tầng và vốn của Thượng Hải. Thượng Hải cuối cùng đã được phép khởi xướng cải cách kinh tế vào năm 1991, bắt đầu sự phát triển lớn vẫn được thấy ngày nay và sự ra đời của Lujiazui (Lục Gia Chủy) ở Phố Đông.

Các đơn vị hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm Danh sách đơn vị hành chính Thượng Hải

Thượng Hải là một trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương (trực hạt thị) và gồm 16 quận (thị hạt khu). Thượng Hải không có quận nào độc chiếm vị thế trung tâm thành phố, mà khu vực trung tâm trải ra vài quận. Các khu vực kinh doanh có tiếng là Lục Gia Chủy (陆家嘴; Lujiazui) bên bờ đông sông Hoàng Phố, Bund tức Ngoại Than (外灘; Wàitān) và Hồng Kiều (虹桥) ở bờ tây sông Hoàng Phố. Tòa thị chính và các cơ quan hành chính chủ yếu nằm ở quận Hoàng Phố. Đây cũng là khu vực thương mại, kể cả đường Nam Kinh (Nam Kinh lộ) nổi tiếng.

Hoàng Phố Từ Hối Trường Ninh 1 Phổ Đà 2 Dương Phố Mẫn Hàng Bảo Sơn Gia Định Phố Đông Kim Sơn Tùng Giang Thanh Phố Phụng Hiền Sùng Minh 1. Tĩnh An 2. Hồng Khẩu

9 quận thuộc Phố Tây, khu vực Thượng Hải lâu đời, nằm phía bờ tây sông Hoàng Phố. 9 quận này được gọi chung là Thượng Hải thị khu (上海市区) hay trung tâm thành phố (市中心), gần đây Phố Tây chỉ còn 7 quận sau sáp nhập:

  1. Hoàng Phố (黄浦区Huángpǔ Qū)
  2. Lô Loan hay Lư Loan (卢湾区 Lúwān Qū) được sáp nhập vào Hoàng Phố năm 2011
  3. Từ Hối (徐汇区 Xúhuì Qū)
  4. Trường Ninh (长宁区 Chángníng Qū)
  5. Tĩnh An (静安区 Jìng'ān Qū)
  6. Phổ Đà (普陀区 Pǔtuó Qū)
  7. Áp Bắc hay Hạp Bắc (闸北区 Zháběi Qū) được sáp nhập vào Tĩnh An năm 2015
  8. Hồng Khẩu (虹口区 Hóngkǒu Qū)
  9. Dương Phố (杨浦区 Yángpǔ Qū)

Phố Đông (浦东) là khu vực mới khai phá của Thượng Hải thuộc bờ đông sông Hoàng Phố, có quận mới Phố Đông (浦东新区 Pǔdōng Xīn Qū, Phố Đông tân khu), từ năm 1992 trở về trước vẫn còn là huyện Xuyên Sa.

Phố Đông về đêm
Phố Đông của Thượng Hải

8 quận của Thượng Hải bao quát các thành phố cấp huyện vệ tinh, các vùng ngoại ô và nông thôn cách xa trung tâm thành phố:

  1. Bảo Sơn (宝山区 Bǎoshān Qū) — cho đến năm 1988 là huyện Bảo Sơn
  2. Mẫn Hàng (闵行区 Mǐnháng Qū) — cho đến năm 1992 là huyện Mẫn Hàng
  3. Gia Định (嘉定区 Jiādìng Qū) — cho đến năm 1992 là huyện Gia Định
  4. Kim Sơn (金山区 Jīnshān Qū) — cho đến năm 1997 là huyện Kim Sơn
  5. Tùng Giang (松江区 Sōngjiāng Qū) — cho đến năm 1998 là huyện Tùng Giang
  6. Thanh Phố (青浦区 Qīngpǔ Qū) — cho đến năm 1999 là huyện Thanh Phố
  7. Phụng Hiền (奉贤区 Fèngxián Qū) — cho đến năm 2001 là huyện Phụng Hiền
  8. Đảo Sùng Minh nằm ở cửa sông Trường Giang là địa bàn huyện Sùng Minh (崇明县 Chóngmíng Xiàn).

Tính đến năm 2003, Thượng Hải có 220 đơn vị hành chính cấp hương: 114 trấn, 3 hương và 103 nhai đạo.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Thượng Hải nằm trên bờ biển phía đông thuộc miền Hoa Đông của Trung Quốc, là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Bắc Kinh ở Hoa Bắc và Quảng Châu ở Hoa Nam. Thượng Hải nằm cách Bắc Kinh khoảng 1.207 km và Quảng Châu khoảng 1.450 km. Thành phố cổ (phố Tây) và trung tâm thương mại hiện đại Thượng Hải (phố Đông) hiện đang nằm ở trung tâm bán đảo đang mở rộng giữa đồng bằng sông Dương Tử ở phía Bắc và vịnh Hàng Châu về phía nam, được hình thành bởi sự bồi tụ tự nhiên của Dương Tử và các dự án cải tạo đất hiện đại. Khu đô thị Thượng Hải quản lý cả khu vực phía đông bán đảo này và nhiều hòn đảo xung quanh. Phía Bắc và Tây giáp tỉnh Giang Tô, phía nam giáp tỉnh Chiết Giang và phía đông là biển Hoa Đông. Điểm cực bắc của thành phố này nằm ở đảo Sùng Minh, là hòn đảo lớn thứ hai ở Trung Hoa đại lục sau khi nó được mở rộng trong thế kỷ 20. Về mặt hành chính, đô thị này không bao gồm một phần tách rời của Giang Tô ở phía bắc Sùng Minh hoặc hai hòn đảo tạo thành cảng Dương Sơn, là một phần của quận Thặng Tứ thuộc Chiết Giang.

Trung tâm thành phố Thượng Hải bị chia cắt bởi sông Hoàng Phố, một chi lưu do con người tạo ra của sông Dương Tử theo lệnh của Xuân Thân quân trong thời kỳ Chiến Quốc. Trung tâm lịch sử của thành phố nằm ở bờ phía tây của Hoàng Phố (Puxi), gần cửa sông Tô Châu, kết nối nó với Thái Hồ và Đại Vận Hà. Khu tài chính trung tâm Lục Gia Chủy đã lớn lên ở bờ phía đông của Hoàng Phố. Việc phá hủy các vùng đất ngập nước địa phương do xây dựng Sân bay Quốc tế Phố Đông đã được bù lại bởi sự bảo vệ và mở rộng bãi cạn gần đó là Jiuduansha như một cách bảo tồn thiên nhiên.

Vị trí của Thượng Hải trên đồng bằng phù sa với diện tích đất rộng 6.340,5 km2 (2,448.1 dặm vuông) phẳng, với độ cao trung bình là 4 m (13 ft). Tính chất đất đai của thành phố đã buộc các tòa nhà chọc trời của nó phải được xây dựng với cọc bê tông sâu để ngăn chặn chúng từ chìm vào mặt đất mềm của khu vực trung tâm. Một vài ngọn đồi như Sheshan nằm về hướng tây nam và điểm cao nhất là đỉnh của đảo Dajinshan ở vịnh Hàng Châu (103 m hay 338 ft). Thành phố có nhiều sông, kênh rạch, suối và hồ và được biết đến với nguồn tài nguyên nước phong phú như một phần của khu vực thoát nước Thái Hồ.

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Thượng Hải có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) và trải qua bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh và ẩm ướt, với gió tây bắc từ Siberia có thể khiến nhiệt độ ban đêm rơi xuống dưới 0 °C (32 °F), mặc dù trong năm chỉ có một hoặc hai ngày tuyết rơi. Mùa hè nóng và ẩm, với trung bình 8,7 ngày vượt quá 35 °C (95 °F) hàng năm; những trận mưa nhỏ hoặc những trận bão có thể xảy ra. Thành phố cũng dễ bị ảnh hưởng bởi bão vào mùa hè và đầu mùa thu, nhưng trong những năm gần đây đã không gây ra thiệt hại đáng kể. Những mùa dễ chịu nhất là mùa xuân, mặc dù có thể thay đổi và thường có mưa, và mùa thu, thường có nắng và khô. Thành phố có nhiệt độ trung bình 4.2 °C (39.6 °F) vào tháng Giêng và 27.9 °C (82.2 °F) vào tháng 7, với mức trung bình hàng năm là 16.1 °C (61.0 °F). Với mức ánh sáng mặt trời hàng tháng có thể thay đổi, từ 34% vào tháng Ba đến 54% vào tháng Tám, thành phố này nhận được 1,895 giờ ánh nắng mặt trời hàng năm. Nhiệt độ cực hạn là từ -10,1 °C (14 °F) ngày 31 tháng 1 năm 1977 (kỷ lục không chính thức -12,1 °C (10 °F) được ấn định vào ngày 19 tháng 1 năm 1893) lên 39,9 °C (104 °F) vào ngày 6 và ngày 8 tháng 8 năm 2013. Một kỷ lục nhiệt độ cao nhất khác là 40,9 °C (106 °F) đã được ghi nhận tại Xujiahui, một ga trung tâm thành phố vào ngày 21 tháng 7 năm 2017.

Dữ liệu khí hậu của Thượng Hải (1981–2010)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 22.1(71.8) 27.0(80.6) 29.6(85.3) 34.3(93.7) 35.5(95.9) 37.5(99.5) 40.9(105.6) 39.9(103.8) 38.2(100.8) 34.0(93.2) 28.7(83.7) 23.4(74.1) 40.9(105.6)
Trung bình ngày tối đa °C (°F) 8.1(46.6) 10.1(50.2) 13.8(56.8) 19.5(67.1) 24.8(76.6) 27.8(82.0) 32.2(90.0) 31.5(88.7) 27.9(82.2) 22.9(73.2) 17.3(63.1) 11.1(52.0) 20.6(69.1)
Trung bình ngày °C (°F) 4.8(40.6) 6.6(43.9) 10.0(50.0) 15.3(59.5) 20.7(69.3) 24.4(75.9) 28.6(83.5) 28.3(82.9) 24.9(76.8) 19.7(67.5) 13.7(56.7) 7.6(45.7) 17.1(62.8)
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) 2.1(35.8) 3.7(38.7) 6.9(44.4) 11.9(53.4) 17.3(63.1) 21.7(71.1) 25.8(78.4) 25.8(78.4) 22.4(72.3) 16.8(62.2) 10.6(51.1) 4.7(40.5) 14.1(57.4)
Thấp kỉ lục °C (°F) −10.1(13.8) −7.9(17.8) −5.4(22.3) −0.5(31.1) 6.9(44.4) 12.3(54.1) 16.3(61.3) 18.8(65.8) 10.8(51.4) 1.7(35.1) −4.2(24.4) −8.5(16.7) −10.1(13.8)
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) 74.4(2.93) 59.1(2.33) 93.8(3.69) 74.2(2.92) 84.5(3.33) 181.8(7.16) 145.7(5.74) 213.7(8.41) 87.1(3.43) 55.6(2.19) 52.3(2.06) 43.9(1.73) 1.166,1(45.91)
Số ngày giáng thủy trung bình 9.9 9.2 12.4 11.2 10.4 12.7 11.4 12.3 9.1 6.9 7.6 7.7 120.8
Độ ẩm tương đối trung bình (%) 74 73 73 72 72 79 77 78 75 72 72 71 74
Số giờ nắng trung bình tháng 114.3 119.9 128.5 148.5 169.8 130.9 190.8 185.7 167.5 161.4 131.1 127.4 1.775,8
Nguồn: China Meteorological Administration [11]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu quảng trường công cộng ở Thượng Hải

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng mẹ đẻ của dân Thượng Hải là tiếng Thượng Hải, một phương ngữ của Ngô ngữ trong khi ngôn ngữ chính thức là tiếng Quan Thoại. Tiếng Thượng Hải và tiếng Quan Thoại khác nhau và thông thường dân Bắc Kinh không thể trò chuyện với dân Thượng Hải thông qua tiếng Thượng Hải. Tiếng Thượng Hải ngày nay là một phương ngữ của Ngô ngữ nói ở Tô Châu với các phương ngữ của Ninh Ba và các vùng phụ cận có dân nhập cư vào Thượng Hải với số lượng lớn vào thế kỷ XX. Gần như toàn bộ dân Thượng Hải dưới 40 tuổi có thể nói tiếng Quan Thoại thông thạo. Dân cư có thể nói ngoại ngữ phân bố không đều. Những người tốt nghiệp đại học trước cách mạng và những người làm cho các công ty nước ngoài có thể nói tiếng Anh. Những người dưới 26 tuổi đã có tiếp xúc với tiếng Anh kể từ tiểu học do tiếng Anh được bắt đầu dạy ở lớp 1.

Dân số

[sửa | sửa mã nguồn] Lịch sử dân số
NămSố dân±%
19536.204.400—    
196410.816.500+74.3%
198211.859.700+9.6%
199013.341.900+12.5%
200016.407.700+23.0%
201023.019.200+40.3%
Nguồn:[12]

Theo điều tra dân số năm 2010 của Trung Quốc, Thượng Hải có tổng dân số 23.019.148 người, mức tăng 37,53% từ 16.737.734 người năm 2000.[13][14] 20,6 triệu dân trong đó, hay 89,3%, là dân thành thị và 2,5 triệu dân (10,7%) là dân nông thôn.[15] Theo tổng dân số trong khu vực hành chính, Thượng Hải là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ nhì trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc, sau Trùng Khánh, nhưng Thượng Hải được xem là thành phố lớn hơn vì Trùng Khánh có dân số đô thị ít hơn.[16]

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tôn giáo ở Thượng Hải (2012)[17]

  Không có tôn giáo hoặc theo tín ngưỡng truyền thống (86.9%)  Phật giáo (10.4%)  Kitô hữu (1.9%)  Công giáo (0.7%)  Khác (0.1%)

Do lịch sử quốc tế của nó, Thượng Hải có một sự pha trộn của di sản tôn giáo như được hiển thị bởi các tòa nhà tôn giáo và các tổ chức vẫn còn rải rác xung quanh thành phố. Theo khảo sát năm 2012, chỉ có khoảng 13% dân số Thượng Hải thuộc về các tôn giáo có tổ chức, nhóm lớn nhất là Phật tử với 10,4%, tiếp theo là Tin lành với 1,9%, Công giáo với 0,7% và các tín ngưỡng khác với 0,1%. Khoảng 87% dân số có thể là không tôn giáo hoặc tham gia vào việc thờ phượng các vị thần và tổ tiên của thiên nhiên, các nhà thờ Nho giáo, Đạo giáo và các giáo phái dân gian.

Tháp chùa Long HoaNhà thờ St IgnatiusTháp chùa Long Hoa (trái) và Nhà thờ St Ignatius (phải)

Có những ngôi đền tôn giáo dân gian như Đền Thành hoàng ở trung tâm của thành phố cổ, và một ngôi đền dành riêng cho danh tướng nổi tiếng thời Tam Quốc Quan Vũ. Bạch Vân Quán của Thượng Hải là một trung tâm Đạo giáo quan trọng trong thành phố. Các Văn miếu là dành riêng cho Khổng Tử.

Phật giáo, giống như nhiều nơi khác ở Trung Quốc, đã có mặt tại Thượng Hải từ thời xa xưa. Đền Long Hoa, ngôi đền lớn nhất ở Thượng Hải, và đền Jing'an, lần đầu tiên được thành lập trong thời kỳ Tam Quốc. Một ngôi đền quan trọng khác là Chùa Phật Ngọc, được đặt tên theo một bức tượng Phật lớn được chạm khắc trên ngọc bích trong đền thờ. Trong những thập kỷ gần đây, hàng chục ngôi chùa hiện đại đã được xây dựng khắp thành phố.

Hồi giáo đến Thượng Hải 700 năm trước và một nhà thờ Hồi giáo được xây dựng vào năm 1295 ở Tùng Giang, Thượng Hải. Năm 1843, trường cao đẳng của một giáo viên cũng được thành lập. Hiệp hội Hồi giáo Thượng Hải nằm ở nhà thờ Hồi giáo Xiaotaoyuan ở Hoàng Phố.

Thượng Hải có một trong những tỷ lệ người Công giáo lớn nhất ở Trung Quốc (2003). Trong số các nhà thờ Công giáo, Nhà thờ St Ignatius (thánh Inhaxiô) ở Từ Gia Hối (Xujiahui) là một trong những nhà thờ lớn nhất, trong khi thánh đường She Shan (Xà sơn) là một địa điểm hành hương tích cực.

Các hình thức Kitô giáo khác ở Thượng Hải bao gồm thiểu số Đông Chính thống giáo và, từ năm 1996, đã đăng ký các nhà thờ Tin lành Kitô giáo. Trong Thế Chiến II, hàng ngàn người Do Thái đã xuống Thượng Hải trong một nỗ lực để chạy trốn chế độ của Hitler. Người Do Thái sống cạnh nhau trong một khu vực được gọi là Thượng Hải Ghetto và thành lập một cộng đồng sôi động tập trung vào Giáo đường Do thái Ohel Moishe, được bảo tồn phần còn lại của quá khứ tôn giáo phức tạp của Thượng Hải.

Cảnh quan thành phố

[sửa | sửa mã nguồn] Bến Thượng Hải Phố Đông Thượng Hải nhìn từ bến cảng

Tháp truyền hình Minh Châu

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháp truyền hình Minh Châu (Hán tự: 明珠, nghĩa là viên ngọc sáng) là tháp truyền hình cao thứ ba thế giới - sau tháp truyền hình ở Toronto (Canada) và Moskva (Nga) - nó cao tới 468 mét. Mặc dù vậy, khách chỉ có thể tham quan từ độ cao 350 mét trở xuống. Tháp có hệ thống thang máy rất nhanh (10 m/s).

Ở độ cao 263 mét là một khu sân hình tròn. Đây là nơi để du khách ngắm toàn cảnh Thượng Hải.[18]

Tháp Thượng Hải

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháp Thượng Hải là một tòa nhà chọc trời tọa lạc tại Lục Gia Chủy, Phố Đông.[19] Tòa tháp cao 632 mét (2.073 ft) tương đương 128 tầng. Tháp Thượng Hải hiện là công trình cao thứ hai thế giới, sau tháp Burj Khalifa và đồng thời là tòa nhà cao nhất Trung Quốc.

Việc xây dựng tòa tháp được bắt đầu từ tháng 11 năm 2008 và hoàn thành vào mùa hè năm 2015.[19]

Kinh tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Tháp truyền hình Minh Châu Đông Phương về đêm

Thượng Hải thường được xem như trung tâm tài chính và thương mại của Trung Quốc đại lục. Thượng Hải bắt đầu thực sự phát triển nhanh từ năm 1992, sau các thành phố ở các tỉnh phía nam Trung Quốc (Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn...) khoảng 10 năm. Trước đó, ngân sách của thành phố phần lớn để lại cho chính quyền trung ương ở Bắc Kinh, phần để lại cho thành phố này rất ít. Dù đã giảm gánh nặng thuế má kể từ 1992, nguồn thuế thu tại Thượng Hải vẫn đóng góp cho chính quyền trung ương chiếm khoảng 20-25%, trước đấy là 70%. Thượng Hải ngày nay vẫn là thành phố phát triển và đông dân nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cảng Thượng Hải xếp hàng đầu thế giới về lượng hàng hóa thông qua, khoảng 443 triệu tấn hàng/năm. Nếu tính về lượng container vận chuyển, các cảng của Thượng Hải xếp thứ 3, sau Singapore và Hồng Kông. Thượng Hải và Hồng Kông gần đây đang tranh đua vị trí trung tâm kinh tế của Trung Quốc. GDP đầu người của Thượng Hải là 12784 USD, của Hong Kong là 37.400. Hong Kong có lợi thế hơn về hệ thống pháp luật, hội nhập quốc tế, tự do hóa hơn và kinh nghiệm kinh tài cao hơn. Thượng Hải có mối liên hệ với lục địa Trung Hoa sâu hơn, mạnh hơn về ngành chế tạo và công nghệ. Thượng Hải đã và đang nâng cao vai trò là địa điểm của nhiều trụ sở các tập đoàn kinh tế, tài chính, thương mại, ngân hàng và giáo dục quốc tế. Tăng trưởng GDP đã đạt hai con số liên tục trong 14 năm. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng GDP là 11,1%, đạt 114 tỷ USD. Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD) với GDP đầu người đạt 76.000 nhân dân tệ (tương đương11.540 USD).[10]. Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.

Phố Đông bên bờ sông Hoàng Phố, góc phải là Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải

Thượng Hải đứng thứ 13 trong chỉ số Trung tâm tài chính toàn cầu năm 2017 (và thứ tư cạnh tranh nhất ở châu Á sau Singapore, Hồng Kông và Tokyo) do Z / Yen Group và Qatar Financial Center xuất bản Thẩm quyền. Thành phố cũng là thành phố đắt đỏ nhất Trung Quốc, theo nghiên cứu của Economist Intelligence Unit vào năm 2017. Đây là thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất ở Đông Á trong những năm 1930, và sự tái phát triển nhanh chóng bắt đầu vào những năm 1990. Điều này được minh họa bởi quận Phố Đông, một khu đầm lầy cũ được khai hoang để phục vụ như một khu vực thí điểm cho cải cách kinh tế tích hợp. Đến cuối năm 2009, đã có 787 tổ chức tài chính, trong đó có 170 tổ chức đầu tư nước ngoài. Vào tháng 9 năm 2013, với sự ủng hộ của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, thành phố đã đưa ra khu vực tự do thương mại phi công Trung Quốc (Thượng Hải) - khu thương mại tự do đầu tiên ở Trung Quốc đại lục. Khu vực đã giới thiệu một số cải cách thí điểm được thiết kế để tạo ra một môi trường ưu đãi cho đầu tư nước ngoài. Vào tháng 4 năm 2014, The Banker đã báo cáo rằng Thượng Hải "đã thu hút được khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài khu vực tài chính cao nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong 12 tháng tính đến cuối tháng 1 năm 2014". Vào tháng 8 năm 2014, Thượng Hải được mệnh danh là tỉnh Trung Quốc trong tương lai của tạp chí FDi 2014/15 do "các buổi biểu diễn đặc biệt ấn tượng trong các loại Kết nối và Thân thiện với Doanh nghiệp, cũng như xếp hạng thứ hai trong các loại Kinh tế và Nhân lực và Lối sống".

Trong hai thập kỷ qua, Thượng Hải là một trong những thành phố phát triển nhanh nhất trên thế giới. Từ năm 1992, Thượng Hải đã ghi nhận tăng trưởng hai con số gần như hàng năm ngoại trừ trong cuộc suy thoái toàn cầu năm 2008 và 2009. [78] Năm 2011, tổng GDP của Thượng Hải đã tăng lên 1,92 nghìn tỷ NDT (297 tỷ USD) với GDP bình quân đầu người là 82.560 NDT (12.784 USD). [11] Ba ngành dịch vụ lớn nhất là dịch vụ tài chính, bán lẻ và bất động sản. Các ngành sản xuất và nông nghiệp chiếm lần lượt 39,9% và 0,7% tổng sản lượng. Thu nhập bình quân hàng năm của cư dân Thượng Hải, dựa trên ba quý đầu năm 2009, là 21.871 RMB.

Nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Dương Tử, Thượng Hải có cảng container đông đúc nhất thế giới, xử lý 29,05 triệu TEU trong năm 2010. Thượng Hải đặt mục tiêu trở thành một trung tâm vận chuyển quốc tế trong tương lai gần.

phần phía đông của đường Nam Kinh (Hoàng Phố) là khu mua sắm chính của Thượng Hải. Đây là một trong những khu mua sắm nhộn nhịp nhất thế giới

Thượng Hải là một trong những trung tâm công nghiệp chính của Trung Quốc, đóng một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp nặng của Trung Quốc. Một số lượng lớn các khu công nghiệp, bao gồm Khu Phát triển Kinh tế và Công nghệ Hồng Kiều Thượng Hải, Khu Chế xuất Kinh tế Xuất khẩu Jinqiao, Khu Phát triển Công nghệ và Kinh tế Mẫn Hàng và Khu Phát triển Công nghệ cao Thượng Hải, là xương sống của ngành công nghiệp thứ cấp của Thượng Hải. Các nhà máy sản xuất thép lớn nhất Trung Quốc Baosteel Group, cơ sở đóng tàu lớn nhất Trung Quốc - Tập đoàn đóng tàu Hudong-Zhonghua và Nhà máy đóng tàu Jiangnan, một trong những nhà đóng tàu lâu đời nhất của Trung Quốc đều nằm ở Thượng Hải. Sản xuất ô tô là một ngành công nghiệp quan trọng khác. SAIC Motor có trụ sở tại Thượng Hải là một trong ba tập đoàn ô tô lớn nhất tại Trung Quốc và có quan hệ đối tác chiến lược với Volkswagen và General Motors.

Khu vực hội nghị cũng đang phát triển mạnh mẽ. Trong năm 2012, thành phố đã tổ chức 780 cuộc tụ họp quốc tế, tăng từ 754 năm 2011. Nguồn cung phòng khách sạn cao đã giữ giá phòng thấp hơn dự kiến, với giá phòng trung bình cho khách sạn 4 và 5 sao vào năm 2012 chỉ với RMB950 (US $ 153).

Tính đến tháng 9 năm 2013, Thượng Hải cũng là nơi có khu thương mại tự do lớn nhất ở Trung Quốc, Khu Tự do Thương mại Trung Quốc (Thượng Hải). Khu vực này có diện tích 29 km2 và tích hợp bốn khu ngoại quan hiện có - Khu Thương mại Tự do Waigaoqiao, Công viên Hậu cần Thương mại Tự do Waigaoqiao, Khu cảng Thương mại Tự do Dương Sơn và Khu Thương mại Tự do Toàn diện Sân bay Phố Đông. Một số chính sách ưu đãi đã được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành khác nhau cho FTZ. Bởi vì Khu vực này không được coi là lãnh thổ của PRC vì mục đích thuế, nên các hàng hóa vào khu vực này không phải chịu thuế và thông quan như trường hợp khác.

Trung tâm thương mại Lục Gia Chủy, Phố Đông về đêm

Thượng Hải đang trải qua thời kỳ bùng nổ xây dựng, đặc biệt là xây dựng các cao ốc, các công trình công cộng khổng lồ với thiết kế hiện đại, độc đáo (như tháp truyền hình, nhà hát...). Khu Phố Đông là một khu đô thị mới với tốc độ xây dựng nhanh chóng, khoảng hơn 10 năm và đã trở thành trung tâm mới của Thượng Hải với rừng cao ốc. Nhà chọc trời Tháp Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải là tòa nhà chọc trời cao nhất ở thành phố này và cũng là tháp cao nhất Trung Quốc đại lục, cao thứ 5 thế giới. Ngoài ra còn có các công trình kiến trúc nổi bật khác như Tháp Minh Châu Phương Đông và Tháp Kim Mậu.

Năm 2009, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải xếp thứ 3 thế giới về khối lượng chứng khoán giao dịch và xếp thứ 6 về tổng giá trị vốn hóa thị trường của các công ty niêm yết, và khối lượng giao dịch của 6 mặt hàng chính bao gồm cao su, đồng và kẽm trên Shanghai Futures Exchange đều xếp hạng nhất trên thế giới.[20] Cảng Thượng Hải là cảng container bận rộn nhất thế giới, 29,05 triệu TEU thông qua vào năm 2010.[21] Thượng Hải đang hướng tới múc tiêu trở thành trung tâm hải vận quốc tế trong tương lai gần.[22]

Thượng Hải nổi bật với tăng trưởng GDP đã đạt hai con số liên tục trong 14 năm. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng GDP là 11,1%, đạt 114 tỷ USD. Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD). Năm 2018, Thượng Hải là đơn vị hành chính (gồm 04 thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, 05 khu tự tri dân tộc và 02 đặc khu hành chính) đông thứ hai mươi lăm về số dân, đứng thứ mười một về kinh tế Trung Quốc với 24 triệu dân,[23] tương đương với Cameroon và GDP đạt 3.268 tỉ NDT (483,8 tỉ USD) tương ứng với Thái Lan. Thượng Hải là đơn vị hành chính có chỉ số GDP đầu người đứng thứ tư Trung Quốc, sau Ma Cao, Hồng Kông và Bắc Kinh, đạt 137.000 NDT (tương đương 20.130 USD)[24]. Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.

Kinh tế Thượng Hải kể từ khi Trung Quốc mở cửa
Năm 1978 1980 1983 1986 1990 1993 1996 2000 2003 2006 2010 2013 2016 2017 2018[24]
GDP (tỷ tệ)[25] 0.027 0.031 0.035 0.049 0.078 0.152 0.298 0.481 0.676 1.072 1.744 2.226 2.818 3.063 3.268
GDP bình quân đầu người (ngàn tệ)[25] 2.85 2.73 2.95 3.96 5.91 11.06 20.81 30.31 38.88 55.62 77.28 92.85 116.58 126.63 134.83
Thu nhập khả dụng trung bình thành thị[26][27][28] 0.64 2.18 4.28 8.16 11.72 14.87 20.67 31.84 43.85 57.69 62.60 64.18

(tổng)

Thu nhập khả dụng trung bình nông thôn[27][29] 0.40 1.67 4.85 5.57 6.66 9.21 13.75 19.21 25.52 27.82

Giao thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Phương tiện công cộng

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ mạng lưới tàu điện ngầm Thượng Hải
Tuyến tàu Maglev với tốc độ tối đa 431 km/h (268 dặm/giờ) ra khỏi Sân bay quốc tế Phố Đông-Thượng Hải

Thượng Hải có một hệ thống giao thông công cộng rộng lớn, phần lớn dựa trên các thành phố lớn, xe buýt và taxi. Việc thanh toán tất cả các công cụ giao thông công cộng này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng Thẻ Giao thông Công cộng Thượng Hải.

Hệ thống vận chuyển nhanh của Thượng Hải, Tàu điện ngầm Thượng Hải, kết hợp cả đường tàu điện ngầm và tàu điện ngầm hạng nhẹ và mở rộng đến mọi quận đô thị cốt lõi cũng như các quận ngoại thành lân cận. Tính đến năm 2017, có 16 tuyến tàu điện ngầm (không bao gồm Tàu Maglev Thượng Hải và Đường sắt Jinshan), 395 ga và 673 km (418 dặm) đường dây hoạt động, khiến nó trở thành mạng lưới dài nhất thế giới. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2016, nó thiết lập kỷ lục về lượng người đi hàng ngày là 11,7 triệu. Giá vé phụ thuộc vào chiều dài của khoảng cách đi lại bắt đầu từ 3 RMB.

Trong năm 2010, Thượng Hải giới thiệu lại xe điện, lần này là một hệ thống Translohr cao su hiện đại, trong khu vực Zhangjiang của Đông Thượng Hải như Zhangjiang Tram. Một hệ thống xe điện thông thường được xây dựng ở huyện Songjiang. Các tuyến xe điện bổ sung đang được nghiên cứu tại Hongqiao Subdistrict và Jiading District.

Thượng Hải cũng có mạng lưới xe buýt đô thị rộng lớn nhất thế giới, với gần một nghìn tuyến xe buýt, do nhiều công ty vận tải khai thác. Hệ thống này bao gồm hệ thống xe đẩy hoạt động liên tục lâu đời nhất thế giới. Giá vé xe buýt thường là 2 RMB.

Taxi rất phổ biến ở Thượng Hải. Giá vé cơ sở hiện tại là ¥ 14 (sedan) / ¥ 16 (MPV) (bao gồm phụ phí nhiên liệu; 1; ¥ 18 từ 11:00 đến 5:00 sáng) bao gồm 3 km đầu tiên (2 dặm). Chi phí km ¥ 2,4 mỗi (¥ 3,2 từ 11:00 đến 5:00 sáng).

Đường bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Thượng Hải là một trung tâm chính của mạng lưới đường cao tốc của Trung Quốc. Nhiều đường cao tốc quốc gia (bắt đầu bằng G) đi qua hoặc kết thúc tại Thượng Hải, bao gồm cả đường cao tốc Bắc Kinh-Thượng Hải G2 (chồng lên G42 Thượng Hải-Thành Đô), G15 Thẩm Dương–Hải Khẩu, G40 Thượng Hải-Tây An, G50 Thượng Hải-Trùng Khánh, G60 Thượng Hải-Côn Minh (chồng chéo G92 Thượng Hải-Ninh Ba) và G1501 Đường cao tốc Shanghai Ring. Ngoài ra, cũng có nhiều tuyến đường cao tốc của thành phố bắt đầu bằng S (S1, S2, S20, v.v.). Thượng Hải có một đường hầm qua cầu bắc qua cửa sông Dương Tử ở phía bắc thành phố.

Ở trung tâm thành phố, có một số đường cao tốc cao để giảm bớt áp lực giao thông trên đường phố, nhưng việc sử dụng xe tăng đã khiến nhu cầu vượt xa khả năng, với tình trạng tắc nghẽn nặng là phổ biến. Có làn đường dành cho xe đạp tách biệt với giao thông ô tô trên nhiều đường phố, nhưng xe đạp và xe máy bị cấm từ nhiều tuyến đường chính bao gồm cả đường cao tốc trên cao. Gần đây, đi xe đạp đã thấy sự hồi sinh phổ biến nhờ vào sự xuất hiện của một số lượng lớn các cuộc đua xe đạp dựa trên ứng dụng không cần đế như Mobike, Bluegogo và Ofo.

Riêng quyền sở hữu xe hơi ở Thượng Hải đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng một chiếc xe tư nhân mới không thể được thúc đẩy cho đến khi chủ sở hữu mua một giấy phép trong cuộc đấu giá tấm giấy phép xe tư nhân hàng tháng. Khoảng 11.500 tấm giấy phép được bán đấu giá mỗi tháng và giá trung bình là khoảng 84.000 RMB (12,758 USD). Theo quy định của thành phố năm 2016, chỉ có những người là cư dân đăng ký Thượng Hải hoặc đã đóng bảo hiểm xã hội hoặc thuế thu nhập cá nhân trong hơn 3 năm liên tiếp. Mục đích của chính sách này là hạn chế sự phát triển của giao thông ô tô và giảm bớt tắc nghẽn.

Đường sắt

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền sảnh của ga Nam Thượng Hải

Thượng Hải có bốn ga đường sắt chính: Ga Thượng Hải, Ga Thượng Hải Nam, Ga Thượng Hải Tây và Ga Hồng Kiều Thượng Hải. Tất cả đều được kết nối với mạng lưới tàu điện ngầm và đóng vai trò là trung tâm trong mạng lưới đường sắt của Trung Quốc. Hai tuyến đường sắt chính kết thúc tại Thượng Hải: Đường sắt Bắc Kinh - Thượng Hải từ Bắc Kinh và Đường sắt Thượng Hải - Hàng Châu. Ga Hồng Kiều cũng là ga cuối Thượng Hải chính của ba tuyến đường sắt cao tốc: Đường sắt cao tốc Thượng Hải - Hàng Châu, Đường sắt cao tốc Thượng Hải - Nam Kinh và Đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải.

Đường không

[sửa | sửa mã nguồn]

Thượng Hải là một trong những cửa ngõ vận chuyển hàng không hàng đầu ở châu Á. Thành phố có hai sân bay thương mại: Sân bay quốc tế Phố Đông-Thượng Hải và Sân bay quốc tế Hồng Kiều Thượng Hải. Sân bay Phố Đông là sân bay quốc tế chính, trong khi Sân bay Hồng Kiều chủ yếu hoạt động các chuyến bay nội địa với các chuyến bay quốc tế có quãng đường ngắn. Trong năm 2010, hai sân bay phục vụ 71,7 triệu hành khách (Phố Đông 40,4 triệu, Hồng Kiều 31,3 triệu), và xử lý 3,7 triệu tấn hàng hóa (Phố Đông 3,22 triệu tấn, Hồng Kiều 480 nghìn tấn)

Thành phố kết nghĩa

[sửa | sửa mã nguồn]

Thượng Hải là thành phố kết nghĩa với:[30]

châu Phi

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Maroc Casablanca, Maroc – từ 1986
  • Ai Cập Alexandria, Ai Cập– 1992
  • Namibia Windhoek, Namibia – 1995
  • Mozambique Maputo, Mozambique – 1999
  • Algérie Algiers, Algérie – 2003

châu Á

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Nhật Bản Yokohama, Nhật Bản – 1973[31]
  • Nhật Bản Thành phố Ōsaka, Nhật Bản – 1974
  • Nhật Bản Ōsaka, Nhật Bản – 1980
  • Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên Hamhung, Triều Tiên – 1982
  • Philippines Manila, Philippines – 1983
  • Pakistan Karachi, Pakistan – 1984
  • Nhật Bản Nagasaki, Nhật Bản – 1986
  • Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam – 1990
  • Hàn Quốc Busan, Hàn Quốc – 1993
  • Israel Haifa, Israel – 1993
  • Uzbekistan Tashkent, Uzbekistan – 1994
  • Yemen Aden, Yemen – 1995
  • Thái Lan Chiang Mai, Thái Lan – 2000
  • Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Dubai, UAE – 2000
  • Sri Lanka Colombo, Sri Lanka – 2003
  • Campuchia Phnom Penh, Campuchia – 2005[32]
  • Nga Nizhnevartovsk, Nga – 2007
  • Afghanistan Herat, Afghanistan – 2008

châu Âu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ý Milan, Ý – 1979
  • Hà Lan Rotterdam, Hà Lan – 1979
  • Croatia Zagreb, Croatia – 1980
  • Bỉ Antwerp, Bỉ – 1984
  • Ba Lan Gdańsk, Ba Lan – 1985
  • Hy Lạp Piraeus, Hy Lạp – 1985
  • Thụy Điển Gothenburg, Thụy Điển – 1986
  • Đức Hamburg, Đức– 1986[33]
  • Pháp Marseille, Pháp – 1987
  • Nga Saint Petersburg, Nga – 1988
  • Thổ Nhĩ Kỳ Istanbul, Turkey – 1989
  • Cộng hòa Ireland Cork, Ireland – 1994
  • Bồ Đào Nha Porto, Portugal – 1995[34]
  • Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Luân Đôn, UK – 1996
  • Phần Lan Espoo, Phần Lan – 1998
  • Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Liverpool, UK – 1999
  • Tây Ban Nha Barcelona, Tây Ban Nha – 2001[35]
  • Na Uy Oslo, Na Uy – 2001
  • România Constanţa, Romania – 2002
  • Đan Mạch Aarhus County, Đan Mạch – 2003
  • Slovakia Bratislava Region, Slovakia – 2003
  • Cộng hòa Síp Lefkosia, Síp – 2004
  • Áo Salzburg, Austria – 2004
  • Thụy Sĩ Basel, Thụy Sĩ – 2007
  • Thụy Điển Borås, Thụy Điển – 2007
  • Bosna và Hercegovina Sarajevo, Bosnia và Herzegovina – 2008
  • Serbia Belgrade, Serbia – 2008
  • Armenia Yerevan, Armenia – 2009
  • Cộng hòa Séc Most, Séc

Bắc Mỹ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Hoa Kỳ San Francisco, Hoa Kỳ – 1979
  • Hoa Kỳ Chicago, Hoa Kỳ – 1985
  • Canada Montreal, Canada – 1985
  • Cuba Santiago de Cuba, Cuba – 1996
  • México Guadalajara (Jalisco), México – 1998
  • Hoa Kỳ Winston-Salem, Hoa Kỳ – 2006
  • Nicaragua San Pedro de Matagalpa, Nicaragua – 2006

châu Đại Dương

[sửa | sửa mã nguồn]
  • New Zealand Dunedin, New Zealand – 1994
  • Vanuatu Port Vila, Vanuatu – 1994
  • New Zealand Hauraki District, New Zealand – 2003

Nam Mỹ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Brasil São Paulo, Brazil – 1988
  • Colombia Bogotá, Colombia – 1992
  • Argentina Rosario, Argentina – 1997
  • Ecuador Guayaquil, Ecuador – 2001
  • Chile Valparaíso, Chile – 2001
  • Brasil Manaus, Brazil – 2009
  • Perú Lima, Peru – 2010
  • Venezuela Caracas, Venezuela

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc lập

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Đại học Giao thông Thượng Hải (thành lập năm 1896) (Dự án 985 trường học)
  • Đại học Phục Đán (thành lập năm 1905) (Dự án 985 trường học)
  • Đại học Đồng Tế (thành lập năm 1907) (Dự án 985 trường học)
  • Đại học Sư phạm Hoa Đông (thành lập năm 1951) (Dự án 985 trường học)
  • Đại học Quân y số 2
  • Đại học Khoa học và Công nghệ Hoa Đông
  • Đại học Đông Hoa
  • Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải
  • Đại học Tài chính và Kinh tế Thượng Hải
  • Đại học Y khoa Thượng Hải

Công lập

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Học viện Mỹ thuật Trung Quốc
  • Học viện Âm nhạc Thượng Hải
  • Học viện Hí kịch Thượng Hải
  • Đại học Thượng Hải
  • Học viện Chính trị và Pháp luật Hoa Đông
  • Đại học Kỹ thuật công trình Thượng Hải
  • Đại học Sư phạm Thượng Hải
  • Học viện Tài chính Thượng Hải
  • Đại học Hàng hải Thượng Hải
  • Đại học Trung y dược Thượng Hải
  • Học viện Điện lực Thượng Hải
  • Đại học Khoa học và Công nghệ Thượng Hải
  • Đại học Thủy sản Thượng Hải
  • Học viện Ngoại thương Thượng Hải
  • Học viện Thể dục Thượng Hải

Tư thục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Học viện Kỹ thuật ứng dụng Thượng Hải
  • Học viện Thương mại Lập Tín Thượng Hải
  • Học viện Sam Đạt Thượng Hải
  • Học viện Đông Hải Thượng Hải
  • Học viện Công thương quốc tế Trung Âu
  • Đại học Công nghiệp Thượng Hải số 2

Trung học

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Trung học Thượng Hải
  • Trung học Tùng Giang Thượng Hải số 2
  • Trung học Thượng Hải số 2

Xem thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Danh sách vùng đô thị châu Á
  • Danielson, Eric N. (2010). Discover Shanghai. Singapore: Marshall Cavendish.
  • Danielson, Eric N. (2004). Shanghai and the Yangzi Delta. Singapore: Marshall Cavendish/Times Editions. ISBN 981-232-597-2.
  • Elvin, Mark (1977). "Market Towns and Waterways: The County of Shanghai from 1480 to 1910," in The City in Late Imperial China, ed. by G. William Skinner. Stanford: Stanford University Press.
  • Johnson, Linda Cooke (1995). Shanghai: From Market Town to Treaty Port. Stanford: Stanford University Press.
  • Johnson, Linda Cooke (1993). Cities of Jiangnan in Late Imperial China. Albany: State University of New York (SUNY). ISBN 0791414248.
  • Horesh, Niv (2009). Shanghai's Bund and Beyond. New Haven: Yale University Press.
  • Erh,Deke and Johnston, Tess (2007). Shanghai Art Deco. Hong Kong: Old China Hand Press.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)

Thư viện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 上海浦東商務區 上海浦東商務區
  • 東方明珠廣播電視塔 東方明珠廣播電視塔
  • 金茂大廈 金茂大廈
  • 上海環球金融中心 上海環球金融中心
  • 上海中心大廈 上海中心大廈
  • 外灘 外灘
  • 上海亞細亞大樓 上海亞細亞大樓
  • 上海總會大樓 上海總會大樓
  • 有利大樓 有利大樓
  • 中國通商銀行大樓 中國通商銀行大樓
  • 大北電報公司大樓 大北電報公司大樓
  • 輪船招商局大樓 輪船招商局大樓
  • 豫園 豫園
  • 靜安寺 靜安寺
  • 上海城隍廟 上海城隍廟
  • 上海文廟 上海文廟
  • 南京路 南京路
  • 衡山路 衡山路
  • 徐家匯 徐家匯
  • 魯迅公園 魯迅公園
  • 上海魯迅紀念館 上海魯迅紀念館
  • 徐家匯聖依納爵主教座堂 徐家匯聖依納爵主教座堂
  • 田子坊 田子坊
  • 新天地 新天地
  • 淮海路 淮海路
  • 石庫門 石庫門
  • 上海展覽中心 上海展覽中心
  • 上海鐵路博物館 上海鐵路博物館
  • 上海大劇院 上海大劇院
  • 上海動物園 上海動物園
  • 國際飯店 國際飯店
  • 上海科技館 上海科技館
  • 上海迪士尼度假區 上海迪士尼度假區
  • 上海浦東國際機場 上海浦東國際機場
  • 中華藝術宮 中華藝術宮
  • 朱家角鎮 朱家角鎮
  • 廣富林遺址 廣富林遺址
  • 上海磁浮線 上海磁浮線

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “World Economic Outlook (WEO) database”. International Monetary Fund.
  2. ^ “CN¥6.3527 per dollar (according to International Monetary Fund on January 2022 publication)”. IMF. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ “CN¥4.036 per Int'l. dollar (according to International Monetary Fund in April 2023 publication)”. IMF.
  4. ^ Chan, Kam Wing (2007). “Misconceptions and Complexities in the Study of China's Cities: Definitions, Statistics, and Implications” (PDF). Eurasian Geography and Economics. 48 (4): 383–412. doi:10.2747/1538-7216.48.4.383. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011., p. 395.
  5. ^ “What are China's largest and richest cities?”. University of Southern California. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2012.
  6. ^ “Cities: largest (without surrounding suburban areas)”. Geohive. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011.
  7. ^ “Thống kê Kinh tế và Xã hội Thượng Hải năm 2018”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2019. Truy cập Ngày 27 tháng 9 năm 2018.
  8. ^ “Dân số thế giới”. https://www.worldometers.info/world-population/. Truy cập Ngày 26 tháng 9 năm 2019. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  9. ^ “GDP thế giới năm 2018” (PDF). Ngân hàng Thế giới. Truy cập Ngày 26 tháng 9 năm 2019.
  10. ^ a b “Shanghai GDP rises 9.9% last year, beating target”. Shanghai Daily.
  11. ^ “中国地面国际交换站气候标准值月值数据集” (bằng tiếng Trung). China Meteorological Administration. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2014.
  12. ^ “Basic Statistics on National Population Census”. Shanghai Bureau of Statistics. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2021.
  13. ^ “Communiqué of the National Bureau of Statistics of People's Republic of China on Major Figures of the 2010 Population Census”. National Bureau of Statistics of China. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2012.
  14. ^ “Shanghai 2010 Census Data”. Eastday.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2012.
  15. ^ “上海人口分布呈现城市化发展和郊区化安居态势”. Shanghai Statistics Bureau of Statistics. ngày 23 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2012.
  16. ^ Chan, Kam Wing (2007). “Misconceptions and Complexities in the Study of China's Cities: Definitions, Statistics, and Implications” (PDF). Eurasian Geography and Economics. 48 (4): 383–412. doi:10.2747/1538-7216.48.4.383. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011., p. 395.
  17. ^ China Family Panel Studies 2012: 当代中国宗教状况报告——基于CFPS(2012)调查数据 Lưu trữ 2014-08-09 tại Wayback Machine. p. 013
  18. ^ Vòng Quanh Thế giới - Du lịch Trung Quốc - Nhà xuất bản Thanh Niên (in năm 2003) trang 127, 128.
  19. ^ a b "Shanghai Tower Breaks Ground" Lưu trữ 2008-12-03 tại Wayback Machine. Luxist.com. ngày 29 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2013.
  20. ^ “The rise of Lujiazui Financial City in Shanghai”. CCTV News – CNTV English. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  21. ^ “Shanghai overtakes S'pore as world's busiest port”. Straits Times. ngày 8 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2011.
  22. ^ “Shanghai aims at int'l financial and shipping center”. China Daily. ngày 26 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  23. ^ “Thống kê Kinh tế và Xã hội Thượng Hải năm 2018”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2019. Truy cập Ngày 27 tháng 9 năm 2018.
  24. ^ a b “Shanghai GDP rises 9.9% last year, beating target”. Thượng Hải mạng. Shanghai Daily. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2019.
  25. ^ a b “Thống kê kinh tế Thượng Hải 1978 – 2017”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  26. ^ “Thu nhập khả dụng cư dân”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  27. ^ a b “Thu nhập khả dụng gia đình”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  28. ^ “Thu nhập khả dụng trung bình”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  29. ^ “Thu nhập khả dụng trung bình nông thôn”. Cục Thống kê Thượng Hải. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  30. ^ “Shanghai Foreign Affairs”. Shfao.gov.cn. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  31. ^ “Eight Cities/Six Ports: Yokohama's Sister Cities/Sister Ports”. Yokohama Convention & Visitiors Bureau. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2009.
  32. ^ “Sister Cities”. Phnompenh.gov.kh. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2010.
  33. ^ Staff. “Hamburg und seine Städtepartnerschaften (Hamburg sister cities)”. Hamburg's official website. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2008. (tiếng Đức)
  34. ^ “International Relations of the City of Porto”. 2006–2009 Municipal Directorateofthe PresidencyServices InternationalRelationsOffice. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2009.
  35. ^ “Barcelona internacional – Ciutats agermanades” (bằng tiếng Tây Ban Nha). 2006–2009 Ajuntament de Barcelona. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009. Liên kết ngoài trong |nhà xuất bản= (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Tìm hiểu thêm vềShanghaitại các dự án liên quan
Tìm kiếm Wiktionary Từ điển từ Wiktionary
Tìm kiếm Commons Tập tin phương tiện từ Commons
Tìm kiếm Wikinews Tin tức từ Wikinews
Tìm kiếm Wikiquote Danh ngôn từ Wikiquote
Tìm kiếm Wikisource Văn kiện từ Wikisource
Tìm kiếm Wikibooks Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks
Tìm kiếm Wikiversity Tài nguyên học tập từ Wikiversity
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Thượng Hải. Wikivoyage có cẩm nang du lịch về Thượng Hải.
  • Website chính quyền Thượng Hải Lưu trữ 2008-06-25 tại Wayback Machine
  • Shanghai trên trang Wikimapia
  • Dữ liệu địa lý liên quan đến Thượng Hải tại OpenStreetMap
  • x
  • t
  • s
Siêu đô thị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Bắc Kinh • Thượng Hải • Trùng Khánh • Quảng Châu • Thâm Quyến • Thiên Tân • Vũ Hán
Siêu đô thị là các đô thị có từ 10 triệu nhân khẩu trở lên
  • x
  • t
  • s
Thành thị Trung tâm Quốc gia của Trung Quốc
Do Bộ Nhà ở và Phát triển Đô thị-Nông thôn CHND Trung Hoa định danh
Bắc Kinh • Thiên Tân • Tây An • Trùng Khánh • Thành Đô • Hàng Châu • Vũ Hán • Thượng Hải • Quảng Châu
Tham khảo: 全国城镇规划确定五大中心城市
  • x
  • t
  • s
Trung Quốc Phân cấp hành chính cấp tỉnh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Tỉnh (22)
  • An Huy
  • Cam Túc
  • Cát Lâm
  • Chiết Giang
  • Hà Bắc
  • Hà Nam
  • Hải Nam
  • Hắc Long Giang
  • Hồ Bắc
  • Hồ Nam
  • Giang Tây
  • Giang Tô
  • Liêu Ninh
  • Phúc Kiến
  • Quảng Đông
  • Quý Châu
  • Sơn Đông
  • Sơn Tây
  • Thanh Hải
  • Thiểm Tây
  • Tứ Xuyên
  • Vân Nam
Bản đồ hành chính Trung Quốc
Khu tự trị (5)
  • Ninh Hạ
  • Nội Mông
  • Quảng Tây
  • Tân Cương
  • Tây Tạng
Trực hạt thị (4)
  • Bắc Kinh
  • Thiên Tân
  • Thượng Hải
  • Trùng Khánh
Đặc khu hành chính (2)
  •  Hồng Kông
  •  Ma Cao
Tỉnh tranh chấp (1)
  • Đài Loan
Xem thêm Vị thế chính trị Đài Loan
  • x
  • t
  • s
50 vùng đô thị đông dân nhất thế giới
   
  1. Tokyo
  2. Jakarta
  3. Delhi
  4. Manila
  5. Seoul
  6. Mumbai
  7. Thượng Hải
  8. New York
  9. São Paulo
  10. Thành phố México
  1. Quảng Châu–Phật Sơn
  2. Thâm Quyến
  3. Bắc Kinh
  4. Dhaka
  5. Osaka–Kobe–Kyōto
  6. Cairo
  7. Moskva
  8. Băng Cốc
  9. Los Angeles
  10. Kolkata
  1. Lagos
  2. Buenos Aires
  3. Karachi
  4. Istanbul
  5. Tehran
  6. Thiên Tân
  7. Kinshasa–Brazzaville
  8. Thành Đô
  9. Rio de Janeiro
  10. Lahore
  1. Lima
  2. Bengaluru
  3. Paris
  4. Thành phố Hồ Chí Minh
  5. Luân Đôn
  6. Bogotá
  7. Chennai
  8. Nagoya
  9. Hyderabad
  10. Johannesburg
  1. Chicago
  2. Đài Bắc
  3. Vũ Hán
  4. Đông Hoản
  5. Hà Nội
  6. Trùng Khánh
  7. Onitsha
  8. Kuala Lumpur
  9. Ahmedabad
  10. Luanda
Tiêu đề chuẩn Sửa dữ liệu tại Wikidata
  • BIBSYS: 6047263
  • BNE: XX458435
  • BNF: cb12395234w (data)
  • GND: 4052066-3
  • ISNI: 0000 0001 2353 7626
  • LCCN: n79063254
  • MBAREA: dec4979e-c0a3-469c-a052-cee5f1e71de9
  • NARA: 10046658
  • NDL: 00637341
  • NKC: ge134625
  • NLA: 36596996
  • SUDOC: 033046212
  • VIAF: 159059201
  • WorldCat Identities (via VIAF): 159059201

Từ khóa » En Thuong Hai