Thuyết Khế ước Xã Hội - Hệ Thống Pháp Luật

Hệ thống pháp luật
  • Văn bản pháp luật Hot Thủ tục hành chính Hỏi đáp pháp luật Thuật ngữ pháp lý Góc nhìn pháp lý Inforgraphic pháp luật Video pháp luật Tủ sách luật tiện ích Thư viện bản án Thư viện án lệ
  • Giới thiệu
  • Gói dịch vụ
  • Liên hệ
Hệ thống pháp luật Thủ tục hành chính Văn bản / TCVN / QCVN Hỏi đáp pháp luật Thuật ngữ pháp lý Bản án/Quyết định Trang chủ Thuật ngữ pháp lý thuyết khế ước xã hội thuyết khế ước xã hội

"thuyết khế ước xã hội" được hiểu như sau:

Học thuyết chính trị - pháp lý lần đầu tiên ra đời trong xã hội Hy Lạp cổ đại, thế kỷ thứ IV - thế kỷ thứ III (trước Công nguyên) cho rằng nhà nước và pháp luật ra đời không phải bắt nguồn từ thượng đế mà là kết quả của một sự thoả thuận thống nhất giữa những con người với nhau như một thứ khế ước, hợp đồng xã hội với mục đích ngăn chặn tác hại có thể nảy sinh trong mối quan hệ giữa người với nhau.Trong xã hội Hy Lạp người chủ trương thuyết khế ước xã hội là Êpiquya (341 - 270 trước Công nguyên). Êpiquya là nhà triết học duy vật, vô thần cổ Hy Lạp. Theo ông, cảm giác là cơ sở của nhận thức; vật thể phát ra những làn sóng thâm nhập vào khí quan, tạo thành hình ảnh của vật thể. Êpiquya phủ nhận sự can thiệp của thần linh vào việc đời, lấy tính chất tồn tại vĩnh viễn của vật chất có vận động nội tại làm điểm xuất phát. Kế tục học thuyết duy vật, vô thần của Đêmôcrit, một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy Lạp cổ đại, khi đề cập đến lý do tồn tại của nhà nước và pháp luật, Êpiquya cho rằng, con người trong khi hướng tới lợi ích chung đã cùng nhau tham gia vào một khế ước, hợp đồng và đã đặt ra các đạo luật. Họ thỏa thuận không gây cho nhau điều gì tệ hại, nhờ thế họ thấy không phải sợ sệt nhau, ông viết: những người lần đầu tiên đưa ra pháp luật, thiết lập phương thức cầm quyền và chế độ hành chính tại các đô thị, đã qua đó giúp đỡ việc đảm bảo an ninh cao nhất cho đời sống. Bởi lẽ, "nếu như ai đấy xoá bỏ mọi thứ đó, thì chúng ta sẽ lại phải sống như dã thú...". Theo ông, các đạo luật không còn thể hiện tính công lý, nếu như chúng sinh ra không phải vì lợi ích giao tiếp chung giữa mọi người. Theo ông, pháp luật là sản phẩm của một sự thoả thuận, theo sau một khế ước. Mác có nhận xét rằng, "ở Êpiquya lần đầu tiên bắt gặp nhận thức rằng nhà nước dựa trên sự đồng thuận của con người, dựa trên một khế ước xã hội”. Những người theo chủ thuyết khế ước xã hội răn dạy con người phải biết chấp hành pháp luật một cách nghiêm minh. Theo họ, kẻ ngốc nghếch xâm phạm pháp luật nhằm tìm kiếm một cái gì đó có lợi cho mình còn người thông thái thì chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh vì người đó hiểu ra rằng, đằng sau sự xâm phạm pháp luật là một sự trừng phạt không tránh khỏi. Êpiquya là người đã bác bỏ khuynh hướng thống trị của bất kì một ai đó đối với  nhân dân. Ông mơ ước giải phóng Hy Lạp khỏi ách thống trị của Macedonia.Trong thời cận - hiện đại, thuyết khế ước xã hội có một đại biểu xuất sắc là Rousseau (Jean - Jacques Rousseau; 1712 - 1788) - nhà văn và nhà triết học lỗi lạc, lý luận gia tiêu biểu của Cách mạng Pháp 1789. Ông là người có ảnh hưởng lớn đến các cuộc cách mạng tư sản, văn học và triết học châu Âu.Trong lĩnh vực nhà nước, pháp luật, tư tưởng Rousseau mang tính cấp tiến, vượt qua nhiều tư tưởng tam quyền phân lập, quân chủ lập hiến, dân chủ đại diện của Montesquieu. Trong học thuyết của mình, Rousseau đặc biệt nhấn mạnh chủ quyền nhân dân. Có thể nói, đây là tư tưởng trung tâm, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư duy sáng tạo của ông. Các quan điểm chính trị - xã hội của Rousseau nổi bật ở tư tưởng dân chủ thị dân, thấm đượm sâu sắc sự quan tâm đến người dân bình thường vốn bị chế độ chuyên chế đè nén hơn cả. Rousseau không đơn thuần chỉ phê phán các thiết chế vương quyền tàn bạo mà chủ trương phá bỏ toàn bộ hệ thống chính trị của chế độ đó. Tác phẩm chủ yếu của ông, tác phẩm đã đưa tên tuổi của ông vào hàng các vĩ nhân của nước Pháp, có sức cổ vũ, động viên mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân cách mạng đang đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến là "Khế ước xã hội” ra đời năm 1762 chứa đựng những tư tưởng tiên phong của cuộc cách mạng dân chủ.Rousseau xuất phát từ giả thiết, ở trạng thái tự nhiên nguyên thuỷ ban đầu mọi người đều bình đẳng, tự do, chưa biết gì đến bất công xã hội, quyền tư hữu, sự áp bức và chuyên quyền. Ở đó chỉ có một dạng có thể nói là bất công, là do thể lực và tuổi tác, sức khỏe của con người rất khác nhau. Ruxô quy kết nguồn gốc của bất công xã hội là do xuất hiện quyền tư hữu nảy sinh trong quá trình hoàn thiện công cụ sản xuất, còn quyền tư hữu ra đời kéo theo sự phân hoá dân cư trong xã hội phân thành người giàu, người nghèo, làm suy đồi đạo đức xã hội: kẻ giàu càng muốn giàu hơn bằng lao động của người khác. Mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh giữa người và người thường xuyên xảy ra và nhà nước xuất hiện để bảo vệ quyền tư hữu và quyền thống trị về mặt chính trị và như vậy từ bất công kinh tế đã làm phát sinh bất công chính trị rồi chuyển hóa thành chuyên chế, lộng quyền, bạo lực hoành hành và bắt đầu giai đoạn cực đoan của bất công, khi mọi người trở thành vô quyền như nhau trước một kẻ chuyên quyền - Rousseau cố gắng tìm kiếm biện pháp hạn chế, xóa bỏ bất công xã hội. Ông viết: người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích. Có kẻ tưởng mình là ông chủ, mà thật ra còn nô lệ hơn cả tôi tớ của họ. Ông phê phán mạnh mẽ những người theo quan niệm chấp nhận cái thực tại. Ngay Aristote, đầu óc uyên bác bậc nhất trong những nhà triết học Hy Lạp, nhà tư tưởng lớn nhất cổ đại phương Tây cũng bị ông phê phán: Aristote đã nói rằng con người vốn không bình đẳng, có kẻ sinh ra làm nô lệ, có kẻ sinh ra để trị vì. Aristote nói có lý, nhưng ông đã lấy kết quả làm nguyên nhân. Bất cứ ai sinh ra trong hàng nô lệ thì đều có thể là nô lệ; nói thế chẳng sai. Nhưng sở dĩ có người nô lệ bẩm sinh là vì trước đó đã có những người nô lệ không bẩm sinh. Họ bị cưỡng bức làm nô lệ... Rousseau khẳng định: ở trạng thái tự nhiên không có nô lệ và các chủ nô, tự do cũng như bình đẳng là phúc lợi cao nhất của con người.Rousseau xác định: thể chế chính trị hợp lý là con người liên kết với nhau thành xã hội, không bị mất đi quyền tự nhiên của mình mà duy trì được tự do. Trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nền tảng cho mọi thứ quyền khác. Nhưng trật tự xã hội không phải tự nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở những công ước và Ruxô đã dành cả tác phẩm chính của mình là "Khế ước xã hội” để giải quyết nhiệm vụ này.Rousseau đặt vấn đề là cần phải có một khế ước hoặc có khi ông dùng là “công ước" xã hội khi con người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên để trở thành con người công dân, dân sự... Tự do là từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được chăm lo sự tồn tại của mình. Những điều quan tâm đầu tiên là quan tâm đến bản thân. Ông chỉ rõ: phương pháp duy nhất để con người tự bảo vệ là họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi người đều bình đẳng một cách hài hoà; tìm ra một hình thức kết liên với nhau để dùng sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên: mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo bản thân mình. Đó là vấn đề cơ bản mà khế ước xã hội đề ra để giải quyết và khế ước xã hội có thể quy vào một công thức sau: mỗi người đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung và chúng tiếp nhận mỗi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của toàn thể.Ý chí chung của toàn thể dân chúng được công bố lên sẽ là một hành động của chủ quyền tối cao. Đó tức là luật. Chủ quyền tối cao là nhằm thực hiện ý chí chung. Cơ quan quyền lực tối cao phải là một con người tập thể.Kế thừa tư tưởng chủ quyền nhân dân của những người đi trước, đến lượt mình Rousseau đã phát triển, nâng cao nó khi khẳng định: chủ quyền nhân dân là một thực thể tập thể, nó không thể được đại diện bởi cá nhân nào, mà quyền lực được tiến hành bởi ý chí chung hay ý chí của đa số không thể phân chia. Nó luôn luôn thuộc về nhân dân và không thể bị hạn chế bởi bất kỳ đạo luật nào.Đặt ngược lại vấn đề, Rousseau đề cập trường hợp cá biệt, nhưng vẫn thường xảy ra: thật ra mỗi cá nhân có thể có ý chí riêng, không giống hoặc trái với ý chí chung. Lợi ích riêng tư có thể nói với anh ta không như tiếng nói của lợi ích chung, cho nên thường có những người hưởng quyền công dân mà không muốn làm nghĩa vụ thần dân, và ông nhận xét, thái độ bất công đó nếu phát triển mãi ra thì sẽ dẫn tới sự suy đồi của cơ chế chính trị. Vì vậy, muốn cho công ước xã hội không thể trở thành một công thức suông thì nó phải bao hàm điều ràng buộc với cá nhân. Nhưng ông cũng lưu ý: Muốn cho một ý chí trở thành ý chí chung, không nhất thiết lúc nào cũng phải tuyệt đối trăm người như một và điều cần thiết là mỗi tiếng nói đều được đếm xỉa tới. Nếu gạt bỏ một tiếng nói nào thì tính chất chung sẽ bị tổn thương.

Chính sách bảo mật Thỏa ước sử dụng Chính sách bảo vệ dữ liệu cá nhân Hình thức thanh toán Hướng dẫn sử dụng Bản quyền © 2024 thuộc về Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam

Đơn vị chủ quản: Công ty cổ phần tư vấn đầu tư và ứng dụng công nghệ 4.0. Chịu trách nhiệm chính: Bà Phạm Hoài Thương. Giấy chứng nhận ĐKDN số: 0108234370, do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 18/04/2018. Địa chỉ: Dương Hà, Gia Lâm, Hà Nội - VPGD: C2 Vincom, 119 Trần Duy Hưng, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội. Điện thoại: 024.6294.9155 - Hotline: 0984.988.691 - Email: info@hethongphapluat.com

Youtube Facebook Twitter Tra cứu thuật ngữ với từ hoặc cụm từ đã chọn?
TRA CỨU THUẬT NGỮ PHÁP LÝ
× Tổng đài hỗ trợ: 024.6294.9155 - Hotline: 0986.426.961
  • Báo lỗi văn bản Hỗ trợ chúng tôi tạo ra nội dung chất lượng hơn ×
thuyết khế ước xã hội Gửi thông báo Tổng đài hỗ trợ: 024.6294.9155 - Hotline: 0986.426.961

Từ khóa » Thuyết Khế ước Là Gì