TIỂU LUẬN Sự Sụp đổ Của ENRON Và Aa - Tài Liệu Text - 123doc
- Trang chủ >>
- Tài Chính - Ngân Hàng >>
- Đầu tư Chứng khoán
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.96 KB, 18 trang )
Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí MinhTrường Đại Học Kinh Tế - LuậtTIỂU LUẬN KẾ TOÁNĐề tài:SỰ SỤP ĐỔ CỦA ENRON KÉO THEO SỰ SỤP ĐỔCỦA A&AGiáo viên hướng dẫn : TS. La Xuân ĐàoNhóm sinh viên thực hiện đề tài:TênLớpMSSVPhùng Thị HòaK12407K124071251Ngô Kim TuyềnK12402AK124020256Nguyễn Phan Hoàng YếnK12402AK1240202702MỤC LỤC:I. KHÁI QUÁT VỀ ENRON VÀ A&A: 31. Enron: 32. Arthur Andersen (A&A): 3II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA ENRON KÉO THEO SỰ SỤP ĐỔ CỦA A&A: 41. Diễn biến sự việc: 42. Phân tích nguyên nhân: 73. Ảnh hưởng của “sự cố Enron” 10III. BÀI HỌC RÚT RA TỪ SỰ CỐ CỦA ENRON VÀ A&A: 121. Bài học rút ra: 122. Liên hệ đến Việt Nam: 17IV. KẾT LUẬN: 183I. KHÁI QUÁT VỀ ENRON VÀ A&A:1. Enron:Năm 1985, Kenneth Lay (nguyên Tổng giám đốc điều hành công ty năng lượngEnron) sáp nhập Houston Natural Gas (Hng) và InterNorth of Omaha để thành lập côngty năng lượng Enron.Công ty Enron có mạng lưới đường ống lớn thứ hai ở Mỹ với hơn 36.000 dặm đườngống kéo dài trên khắp lục địa và phía bắc vào Canada.Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập niên 90,Enron đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi sự cân bằngtrong lĩnh vực kinh doanh năng lượng.Đầu những năm 1990, Kenneth Lay (Người sáng lập-Chủ tịch-Giám đốc điều hành)góp phần vận động bán điện theo giá thị trường, nhờ vậy, những nhà giao dịch như Enroncó thể bán năng lượng với giá cao hơn và gia tăng đáng kể lợi nhuận thu được.Luật chính sách năng lượng năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đườngtruyền tải điện cho hệ thống phân phối của Enron. Vì vậy, năm 1992 Enron đã lớn mạnhtrở thành nhà buôn khí tự nhiên lớn nhất Bắc Mỹ.Tháng 11-1999, công ty Enron khai trương website giao dịch EnronOnline nhằm quảntrị tốt hơn việc kinh doanh giao dịch các hợp đồng. Trong một nỗ lực nhằm đạt được tăngtrưởng hơn nữa, Enron đã theo đuổi chiến lược đa dạng hóa.Enron sở hữu và điều hành một loạt các tài sản bao gồm các đường ống dẫn khí, cácnhà máy điện, các nhà máy bột giấy và giấy, các nhà máy nước, cùng với nhiều loại hìnhdịch vụ trên toàn cầu. Enron cũng kiếm thêm doanh thu bằng cách mua bán những hợpđồng trong cùng mảng sản phẩm và dịch vụ mà công ty có tham gia Enron là một trongnhững tập đoàn năng lượng hùng mạnh nhất của Mỹ, nó hoạt động trên 40 nước.Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD, lợi nhuậnlên tới 10 tỷ USD Thêm vào đó, Enron 6 năm liền được cuộc khảo sát của Tạp chíFortune đánh giá là “Công ty sáng tạo bậc nhất Hoa Kỳ”.Giá trị thị trường công ty đứnghàng thứ bảy này tại Mỹ năm 2000 là hơn 77 tỉ USD. Trước khi sụp đổ, Enron có 7.500nhân viên làm việc tại tòa nhà 50 tầng ở trung tâm Houston.2. Arthur Andersen (A&A):Andersen sinh ngày 30 Tháng Năm 1885 tại Plano, bang Illinois và mồ côi ở tuổi 16,Andersen bắt đầu làm việc như một mailboy ban ngày và đi học vào ban đêm, cuối cùngđã được thuê làm trợ lý cho bộ điều khiển của Allis-Chalmers ở Chicago. Năm 1908, ởtuổi 23, ông trở thành CPA (Certified Public Accountant) trẻ nhất trong Illinois.4Năm 1913, Arthur Andersen và Clarence Delaney, cả hai đều từ Price Waterhouse,mua lại Công ty kiểm toán Illinois và thành lập Andersen, Delaney & Co sau đó đổi tênthành Arthur Andersen & Co. vào năm 1918. Năm 1989, Arthur Andersen và AndersenConsulting trở thành hai công ty độc lập của Andersen Worldwide. Andersen tăng cườngsử dụng dịch vụ kế toán kiểm toán để tìm kiếm khách hàng cho Andersen Consulting cólợi nhuận hấp dẫn hơn.Hai công ty vẫn có xung đột trong suốt thập kỷ 90. Andersen Consulting thu được lợinhuận khổng lồ trong thập kỷ này. Tuy vậy, các nhà tư vấn vẫn chuyển tiền ngược lại choArthur Andersen. Năm 2000, Kết luận của Phòng thương mại quốc tế cho phép AndersenConsulting tách thành công ty độc lập hoàn toàn khỏi Arthur Anderson và phải trả 1.2 tỉđô la Mỹ cho Arthur Andersen và Andersen Consulting cũng không được sử dụng tênAndersen nữa. Vì vậy, Andersen Consulting đổi tên thành Accenture vào ngày 01 tháng01 năm 2001Arthur Andersen là một trong 5 công ty kiểm toán lớn nhất thế giới cùngvới PricewaterhouseCoopers, Deloitte Touche Tohmatsu, Ernst & Young và KPMG,cung cấp dịch vụ kiểm toán, dịch vụ thuế, và dịch vụ tư vấn cho các công ty và tập đoànlớn có trụ sở tại Chicago.Công ty nhanh chóng trở thành nổi tiếng với các nguyên tắc kế toán.Vào năm 1954,công ty thêm dịch vụ tư vấn để giúp khách hàng kiểm toán thiết lập hệ thống máy tínhcủa họ, và Andersen Consulting đã trở thành một nhà lãnh đạo ngành công nghiệp. Năm2000, Arthur Andersen tách ra từ Andersen Consulting, mà đổi tên thành chính nó"Andersen" và xây dựng lại một nhóm tư vấn của 15.000 chuyên gia.Năm 2002, công ty đã tự nguyện nộp lại giấy phép hành nghề Kiểm toán công sau khibị phát hiện có hành vi phạm tội liên quan tới việc thực hiện kiểm toán tập đoàn nănglượng Enron, dẫn tới 85000 người mất việc làm. Mặc dù sau đó, Tòa án Tối cao Mỹ đãgỡ bỏ buộc tội, Arthur Andersen đã không thể hoạt động trở lại.II. SỰ SỤP ĐỔ CỦA ENRON KÉO THEO SỰ SỤP ĐỔ CỦAA&A:1. Diễn biến sự việc:22/10/2001 Enron, một trong những khách hàng lớn nhất của Andersen, bị Uỷ banchứng khoán Mỹ điều tra vì nghi ngờ gian lận tài chính.8/11/2001 Enron thừa nhận trong 5 năm qua đã lỗ 586 triệu USD chứ không lãi nhưcác báo cáo trước đó.2/12/2001 Enron nộp đơn xin phá sản.513/12/2001 Điều trần trước Quốc hội Mỹ, Giám đốc điều hành Joseph Berardino củaAndersen thừa nhận phải thay đổi cách kiểm toán.10/1/2002 Andersen tiết lộ chuyện nhân viên của hãng đã làm hỏng trầm trọng các tàiliệu liên quan tới vụ Enron.15/1/2002 Andersen sa thải Kiểm toán trưởng chuyên làm hồ sơ cho Enron, ông DavidDuncan, người đã ra lệnh hủy hồ sơ.17/1/2002 Enron cắt hợp đồng tư vấn và kiểm toán với Andersen.28/1/2002 Joseph Berardino tuyên bố Andersen có thể tồn tại mà không cần phải sápnhập với ai cả.4/2/2002 Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed), ông Paul Volcker, được bổ nhiệmlàm Chủ tịch một uỷ ban độc lập để cải tổ Andersen.14/3/2002 Toà án thông báo truy tố Andersen tội cản trở điều tra, cố tình tiêu hủy cáctài liệu liên quan tới vụ Enron.26/3/2002 Joseph Berardino từ chức.2/4/2002 Andersen thừa nhận thất bại trong nỗ lực sáp nhập các chi nhánh đặt ngoàinước Mỹ của mình với KPMG.4/4/2002 Andersen bắt đầu giải tán các hoạt động kinh doanh ở Mỹ.8/4/2002 Andersen thông báo cắt giảm 7.000 nhân viên tại Mỹ.9/4/2002 David Duncan nhận tội và đồng ý hợp tác với các nhà điều tra.26/4/2002 Bộ Tư pháp Mỹ bác bỏ nỗ lực cuối cùng của Andersen trong việc dàn xếpvụ việc.7/5/2002 Mở đầu phiên toà xét xử vụ Andersen.8/5/2002 Andersen thông báo Deloitte & Touche sẽ tuyển dụng lại khoảng 2.000 nhânviên của mình. KPMG cho biết có kế hoạch thu nạp 23 đơn vị tư vấn của AndersenWorldwide với giá 284 triệu USD.13/5/2002 David Duncan bắt đầu phiên điều trần kéo dài 5 ngày.612/6/2002 Bồi thẩm đoàn cho biết bế tắc trong việc giải quyết vấn đề. Toà yêu cầu họtiếp tục bàn bạc để đưa ra phán quyết.15/6/2002 Bồi thẩm đoàn kết luận Arthur Andersen phạm tội. Tòa tuyên phạt 500.000USD và rút giấy phép làm kiểm toán.31/5/2005 Tòa án tối cao Mỹ bác bỏ đơn kháng án của Arthur Andersen. Tổng số nhânviên của Andersen chỉ còn lại 200 người.5/7/2006 Nguyên Chủ tịch của Enron, ông Ken Lay chết vì đau timEnron lớn đến mức không ai tin nó có thể sụp đổ. Giá trị thị trường công ty đứng hàngthứ bảy này tại Mỹ năm 2000 là hơn 77 tỉ USD. Trước khi sụp đổ, Enron có 7.500 nhânviên làm việc tại tòa nhà 50 tầng ở trung tâm Houston.Vụ phá sản của Enron đã tạo ra một xì căng đan không chỉ trong kinh tế mà còn chínhtrị bởi các mối liên hệ trong chính trường, liên quan trực tiếp đến nhiều gương mặt chópbu trong đó có Tổng thống George W. Bush.Cuộc điều tra được tiến hành ở thời điểm hiện tại cho thấy Tổng thống Bush chưamắc sai phạm gì trong vụ Enron nhưng mối liên hệ gần gũi giữa Chủ tịch Enron KennethL. Lay và Bush thì không có gì tranh cãi. Lay là bạn thân Bush trong nhiều năm và giớiđiều hành Enron đóng góp tài chính cho sự nghiệp chính trị của Bush nhiều hơn bất cứ aikhác.Ngày 26-10-2001, công ty sụp đổ với khoản nợ quyết đoán với 13 tỷ dollars và hàngtỷ dollars nợ vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải tuyên bốphá sản đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ khiến hàng ngàn nhân viênđã đầu tư vào quỹ lương hưu của Enron giờ đã tay trắng hoàn toàn. Cổ phiếu của Enronbị ngừng giao dịch trên thị trường ngày 11-1-2001.Trước khi phá sản , Enron đã cầu cứu các giới chức cao cấp của chính quyền Bush,trong đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và Bộ Trưởng Thương Mại Don Evans đểtìm kiếm sự giúp đỡ. Lúc đó, ông O'neil đã không thông báo cho TT Bush về cuộc khủnghoảng của Enron và chính quyền cũng không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũngnhư cổ đông của Enron khiến họ giờ đây bị mất tất cả. Tuy nhiên, nhiều viên chức cấpcao trong công ty đóng ở Texas này đã có thể bán số cổ phiếu trị giá 1 tỉ USD trước khiloan báo vụ phá sản, trong lúc hàng ngàn nhân viên bị ngăn không được bán cổ phiếuriêng.Tập đoàn Arthur Anderson chịu trách nhiệm kiểm toán của Enron vừa thú nhận rằnghọ đã hủy bỏ khá nhiều tài liệu nói về sai phạm tài chánh ở Enron Tóm lại, tất cả tình tiếtxung quanh Enron cho thấy đây là một vụ hình sự kinh tế chứ không đơn giản là vụ sậptiệm của một công ty làm ăn đàng hoàng nhưng thua lỗ.Nhiều nhà phân tích tài chính liên tục đánh giá cao Enron, cho đến sát thời điểm nósụp đổ. Ngày 15-8-2001, sau khi cổ phiếu Enron bắt đầu mất giá, nhà phân tích DavidFleischer thuộc công ty kiểm toán uy tín Goldman Sachs & Co đã tung ra bản báo cáo đệ7trình cổ đông Enron, nói: “Nhiều cổ đông tin rằng nơi nào có khói nơi đó ắt có lửa. Tuynhiên, chúng tôi tin rằng không hề có lửa ở Enron”.Theo chuyên san tài chính Bloomberg Markets, đến trung tuần tháng 10-2001, vẫn cóít nhất 6 nhà phân tích nổi tiếng ở Wall Street tiếp tục khuyên nên mua cổ phiếu Enron.Chưa đầy hai tháng sau, ngày 2-12-2001, Enron đệ đơn phá sản. Vài người cho rằng cácnhà phân tích trên đã nhận phong bì của Enron; vài người khác nói rằng do Enron khôngcung cấp cho giới phân tích đủ thông tin cần thiết.Vụ Kenneth L. Lay là một trong những vụ án kinh tế nghiêm trọng và phức tạp nhấttrong lịch sử doanh nghiệp Mỹ.Dave Skidmore – phát ngôn viên Ban dự trữ liên bang – cho biết Chủ tịch EnronKenneth L. Lay đã liên lạc với Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Alan Greenspan vào ngày26-10-2001 và Greenspan “không phản ứng gì trước cú điện (của Lay)”.Sau đó, Lay điệncho Bộ trưởng Thương mại Donald L. Evans vào ngày 26-10 và cuối cùng điện cho Bộtrưởng Ngân khố Paul H. O’Neill ngày 28-10. “Rõ ràng Nhà Trắng biết rằng Enron sắpphá sản nhưng không làm gì để bảo vệ các nhân viên và cổ đông vô tội” – phát biểu củadân biểu Dân chủ Henry Waxman.Bắt đầu từ vụ vỡ lở vào cuối năm 2001 và đầu năm 2002, mọi người mới nhìn kỹ hơnđến nhà kiểm toán Arthur Andersen. Đây không phải lần đầu đại gia này bị lâm vào rắcrối. Nhưng tất cả các lần rắc rối trước, Andersen đều thoát ra bằng cách chi tiền "dànxếp" với bên nguyên đơn. Luật pháp Mỹ cho phép bên bị đơn chi tiền để dàn xếp các vụkiện dân sự trong khi vẫn không nhận lỗi. Nhưng đến vụ Enron thì Andersen không còncó thể dàn xếp, vì đây là vụ án hình sự.Ngoài các lỗi như không phát hiện được những bất thường trong hồ sơ kế toán củaEnron, giúp Enron nổi danh trên thị trường trong khi thực chất đang thua lỗ nặng thìAndersen đã bị buộc một tội hình sự nghiêm trọng là cố ý cản trở công việc điều trathông qua việc tiêu hủy hàng ngàn tài liệu có liên quan đến Enron.Lời bào chữa duy nhất của Andersen là việc tiêu hủy tài liệu chỉ là "quy trình bìnhthường" và công ty vẫn lưu giữ những tài liệu ở mức tối thiểu theo luật định. Ngay saukhi bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ kiện khác, với tổng số thiệthại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD.2. Phân tích nguyên nhân:Thứ nhất: Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán nănglượng mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây làlĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn.Sai lầm của công ty là phụ thuộc quá nhiều vào các giao dịch tài chính. Vào tháng 8-2001, Giám đốc điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý do cá nhân. Enron công bố lỗ618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2 tỷ USD. Khi công ty khó khăn, họthuyết phục công nhân nhận lương và thưởng bằng cổ phiếu. Khi Ủy ban chứng khoánMỹ điều tra, giám đốc tài chính Fastow phải ra đi, cổ phiếu của Enron bị tụt giá thảm8hại, lòng tin của khách hàng đã mất khiến họ không đầu tư nữa làm cho công ty khánhkiệt.Thứ hai: Coi trọng mục tiêu ngắn hạn hơn dài hạn.Lãnh đạo công ty quyết định sản xuất với mức cao hơn công suất tối ưu. Điều này chophép công ty giảm giá thành đơn vị sản phẩm (nhờ tận dụng chi phí cố định), qua đó tănglợi nhuận trong năm hiện tại. Tuy nhiên, mặt trái của việc làm này là máy móc thiết bịphải làm việc với công suất cao hơn mức tối ưu, ảnh hưởng tiêu cực tới năng suất và độbền của thiết bị. Đồng thời, sản phẩm làm ra nhiều không bán được sẽ làm phát sinh chiphí bảo quản. Hàng tồn kho lâu ngày dẫn tới giảm giá trị. Các chi phí này sẽ ảnh hưởngtrực tiếp tới lợi nhuận của công ty trong các năm tiếp theo. Hay là cắt giảm các khoản chiphí hữu ích như chi phí nghiên cứu phát triển (R&D), chi phí quảng cáo, chi phí duy tubảo dưỡng thiết bị. Các chi phí này có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của công tytrong dài hạn. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn ban lãnh đạo công tycó thể sẽ chọn giải pháp cắt giảm các chí phí này, đồng nghĩa với việc hy sinh các khoảnlợi nhuận tiềm năng lớn trong tương lai.Thứ ba: Vấn đề doanh thu.Giá cả trong ngành năng lượng dao động rất mạnh, trong khi khách hàng có nhu cầuổn định giá. Với tư cách là một nhà cung cấp, Enron đã ký những hợp đồng cố định giávới khách hàng trong tương lai và thu phí từ những hợp đồng này.Những phí này đượctính vào doanh thu hiện tại, trong khi rủi ro trong tương lai Enron sẽ phải gánh chịuThứ tư: Lạm dụng các công ty con để che dấu nợ và thổi phồng doanh thuCác công ty con còn gọi tắt là SPE (Special Purpose Entity) được Enron thành lập rađể đứng tên tài sản, đồng thời gánh chịu và cô lập các rủi ro tài chính. Ví dụ, khi Enronphát triển thêm đường ống, công ty có thể lập ra một SPE. Đơn vị SPE này sẽ làm chủđường ống và thế chấp ngay ống này để vay tiền xây dựng. Enron vẫn đượcsử dụngđường ống này và lấy doanh thu từ đường ống để thanh toán cho chủ nợ.Theo cách này,bảng cân đối kế toán của công ty không thể hiện cả tài sản (đườngống) lẫn trách nhiệmnợ tương ứng. Luật kế toán liên quan đến SPE: Theo các qui định kế toán, trong tổng vốncủacông ty con phải có ít nhất 3% cổ phần của Enron. Nhưng nếu cổ phần củaEnron chỉ ởdưới 50% tổng cổ phần của SPE, sổ sách của Enron không phải thể hiện tài sản vàtráchnhiệm nợ của SPE.Tuy số lượng các SPE đã tăng lên trong nhiều năm qua, một công ty có đến bốn haynăm đối tác như vậy đã là quá nhiều.Vào thời điểm sụp đổ, Enron có đến 900 SPE, hầuhết đặt ở các nước ưu đãi thuế hay dễ dãi về luật kế toán. Enron sử dụng những SPE nàyđể thao túng các báo cáo tàichính, che giấu các nhà đầu tư những thông tin lẽ ra phải côngbố, và khai thác cáckhác biệt về luật kế toán tài chính cũng như luật kế toán thuế.Tuy đến quý 3/2001 công ty mới báo cáo lỗ, nhưng thực chất lỗ đã phát sinh từ cácnăm trước. Đặc biệt là vào cuộc khủng hoảng nhiên liệu năm 2000,khi giá nhiên liệu thếgiới lên cao nhưng Enron vẫn phải bán ra với giá cố định theocác hợp đồng đã ký trước.Công ty đã dùng các thủ thuật hợp đồng để chuyển những khoản lỗ này sang các9SPE.Tuy nhiên khi các SPE thua lỗ thì trị giá cổ phần của Enron trong SPE giảmxuốngdưới mức tối thiểu 3% theo yêu cầu. Việc Enron phải hợp nhất tình hình tài chínhcủa SPE vào báo cáo tài chính của công ty mẹ gây ra hai tác động: nợ của công ty mẹtăng lên và lợi nhuận của công ty mẹ giảm xuống.Nợ của công ty con: Dù cho chỉ có rất ít vốn chủ sở hữu, các SPE có thể vay ngânhàng do hai lý do. Một là các chủ nợ tin tưởng là Enron đã ký hợp đồng sử dụng tàisảncủa SPE nên hoạt động của SPE được bảo đảm. Hai là họ tin là Enron đã bảo lãnh rủi rocho các khoản vay của SPE.Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận: Enron bán tài sản cho các SPE với giá đãđượcthổi phồng lên để tạo ra lợi nhuận giả tạo. Công ty cũng mua qua bán lại với SPEđểtăng doanh số và giảm bớt mức độ dao động của lợi nhuận.Thứ năm: Phản ứng dây chuyền:Enron cũng cho các SPE “vay” các cổ phiếu của mình, khi giá cổ phiếu của Enrongiảm xuống, tài sản của các SPE tiếp tục giảm xuống và tiếp tục vi phạm quy định về 3%đến mức phải hợp nhất vào báo cáo của Enron.Thứ sáu: Sức ép lên các nhà lãnh đạo:Thủ tục kế toán không minh bạch đã che đậy tình trạng thua lỗ của tập đoàn bằngcách thành lập các công ty vỏ bọc bên ngoài.các bản báo cáo tài chính không minh bạchvà một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao. Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳvọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhàlãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêucực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu,nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhàquản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo cáo tài chính.Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công tyđang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện doanh nghiệp thiếu minh bạchtrong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. chính kỳ vọng quá lớn của thị trường đãđẩy các nhà lãnh đạo Enron tới hành vi gian lận tài chính.Thứ bảy: Liên minh ma quái:Một mạng lưới quan hệ chằng chịt giữa Enron, Nhà Trắng và công ty kiểm toánArthur Andersen, các công ty phân tích chứng khoán, ngân hàng đầu tư và công ty Luậttại phố Wall đã giúp Enron thổi phồng được uy tín của mình.Đó là liên minh mờ ám giữa quyền lực tài chính và quyền lực chính trị, Nhà Trắngthừa nhận những liên hệ chặt chẽ giữa tổng giám đốc điều hành Kenneth Lay với nhiềuthành viên nội các của Tổng Thống Bush. Rõ ràng Nhà Trắng biết rằng Enron sắp phásản nhưng không làm gì để bảo vệ các nhân viên và cổ đông vô tội.Mối quan hệ giữa Andersen với Enron không chỉ là tư vấn và kiểm toán mà còn lànguồn cung cấp lãnh đạo tài chính. Kế toán trưởng Richard Causay của Enron nguyênlàngười của Andersen. Giám đốc Tài chính của Enron trước Andrew Fastow là JeffreyMcMahon nguyên cũng từ Andersen chuyển sang. Ngoài ra công ty Andersen đã cản trở10công việc điều tra, hủy những tài liệu lưu trữ của mình có liên quan đến Enron, chỉ giữ lạinhững tài liệu tối thiểu theo quy định của luậtNgân hàng CIBC (Canadian Imperial Bank of Commerce) là một trong những thế lựcngầm như vậy. Ngân hàng đã chấp nhận ỏ ra 80 triệu USD để dàn xếp các khoản chi phícủa hãng, liên quan đến việc sụp đổ của Enron và giúp Enron lừa dối các nhà đầu tưthông qua một dãy các giao dịch trong báo cáo tài chính với cấu trúc phức tạp trong mộtvài năm trước khi Enron phá sản.Một số thủ thuật gian lận khác:Trong quá trình lập báo cáo tài chính, công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tínhkế toán (Accrual earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ củacông ty. Vì không có một tiêu chuẩn chính xác về giá trị các ước tính này, nên nó đượcxem là một công cụ đắc lực để phù phép lợi nhuận. Một số thủ thuật làm tăng mức lợinhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho(đánh giá lại tài sản), giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bịgiảm giá xuấng dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện (ví dụChi phí đi vay không đủ điều kiện vốn hoá là chi phí không liên quan trực tiếp đến việcđầu tư xây dựng cơ bản hoặc sản xuất tài sản dở dang được tính vào giá trị của tài sản đó.Các chi phí đi vay chỉ được vốn hoá khi doanh nghiệp chắc chắn thu được lợi ích kinh tếtrong tương lai do sử dụng tài sản đó và chi phí đi vay có thể xác định một cách đáng tincậy)Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tănglợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếulà lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thịtrường, báo cáo tài chính các năm tiếp theo cũng phải được phù phép. Tuy nhiên, càng vềsau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toántrở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránhkhỏi. Ngoài phù phép thông qua các ước tính kế toán, doanh nghiệp còn có thể phù phéplợi nhuận thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực (Real earnings management)nhằm tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi chocông ty về lâu dài.3. Ảnh hưởng của “sự cố Enron”Vụ scandal ầm ĩ xung quanh việc kiểm toán Tập đoàn năng lượng hàng đầu thế giớiEnron đã để lại nhiều điều ong tiếng ve cho thị trường kiểm toán và tư vấn thế giới.Trước đây, các đại gia hàng đầu của Big Five đã từng gây nhiều tai tiếng, nhưng có lẽ "sựcố Enron" không những đã đặt dấu chấm hết trong trang sử 89 năm oai hùng củaAndersen - đơn vị kiểm toán Enron - mà còn ít nhiều làm xấu đi danh tiếng và uy tín màBig Five đã dày công gây dựng hàng trăm năm. Sau sự cố đáng nhớ này, có lẽ các đại giatrong Big Five lại phải hết sức cẩn trọng trong việc điều hành quản lý nhân sự cũng nhưcác tiến trình kiểm toán nói chung đồng thời tăng cường ngân sách cho việc bảo hiểm.11a. Cẩn trọng trong việc điều hành nhân sự cũng như các quy trình kiểm toán nóichung.Các công ty kiểm toán sẽ phải rất hết sức cẩn thận trong việc điều hành nhân sự đểkhông lặp lại những sự cố đáng tiếc. Trách nhiệm không chỉ thuộc về các Partner hoặcmanager trực tiếp tham gia vào việc kiểm toán Enron mà còn thuộc về nhiều vị "tai tomặt lớn". Đó là trường hợp của John Wareham, cựu Bộ trưởng Bộ năng lượng Anh quốcvà là cố vấn tài chính trong vụ kiểm toán cho Enron. John đã buộc phải từ chức và chịuđiều trần trước các cơ quan chức năng của Mỹ về sự việc này.b. Về phía Chính phủ buộc phải có các biện pháp điều chỉnh thị trường kiểm toánvà tư vấn một cách hợp lý.Tại Anh và Mỹ đã nổ ra cuộc tranh cãi về việc có nên tách rời kiểm toán và tư vấnthành hai mảng độc lập hay không. Người đứng đầu Ủy ban Chứng khoán Arthur Lewittđã buộc phải về vườn và thật thú vị là người kế nhiệm hiện nay lại là Harvey Pitt - mộtchuyên gia về chứng khoán và đã từng làm việc cho Ansersen.Tất cả các thành viên Big Five, dưới áp lực căng thẳng từ phía các khách hàng, buộcphải đi đến một quyết định là họ sẽ cho tách rời kiểm toán và tư vấn thành hai mảng hoàntoàn độc lập.c. Mức phí bảo hiểm rủi ro kinh doanh tăng lên chóng mặtCác công ty bảo hiểm thi nhau tăng giá dịch vụ bảo hiểm rủi ro kinh doaLnhnhân "sự cố Enron". Quy luật của muôn đời vẫn vậy, đục nước thì bao giờ cũng béocò, quả lời cha ông ta nói chẳng hề sai.d. Danh tiếng và uy tín của các đại gia thuộc Big Five giảm xuống trông thấy.Vụ scandal xung quanh sự cố Andersen-Enron đã làm mất đi hình ảnh đẹp đẽ uynghi của các đại gia thuộc Big Five nói chung. Cách thức làm việc na ná như nhau, mứcphí dịch vụ gần như theo một thỏa thuận ngầm nào đó, và dĩ nhiên các sơ suất cũngchẳng có gì khác biệt nhau. Có thể dự đoán rằng, các đại gia thuộc Big Five đang cố gắng"gìn vàng giữ ngọc" mà nếu còn xảy ra một sai lầm nhỏ nào đó cũng có thể đủ làm tiêutan danh tiếng mà họ đã cố công gây dựng hàng trăm năm nay. Và dĩ nhiên, nhiệm vụhàng đầu của họ là phải làm sao giữ lại được các khách hàng cũ, bởi dù sao đứt dây thìcũng động rừng, một con sâu cũng đủ làm rầu cả nồi canh, các khách hàng cũ và mới củaAndersen có lẽ cũng sợ chết khiếp cảnh "trượt vỏ dưa lại gặp vỏ dừa".e. Cổ phiếu các công ty khách hàng của Andersen thi nhau rớt giáSau sự cố Enron, các cổ phiếu của các công ty khách hàng Andersen thi nhau rớtgiá bởi các nhà đầu tư đã tỏ ra nghi ngại tính trung thực của các bản báo cáo tài chính doAndersen cung cấp. Thậm chí có thể xảy ra tình huống nếu khách hàng nào đã sử dụngdịch vụ kiểm toán của Andersen với mục đích thu hút sự đầu tư nước ngoài hay đơnthuần chỉ muốn có chút tiếng tăm trên thương trường quốc tế rất có thể phải móc hầu baocho một công ty kiểm toán hạng hai nào đó nhằm thanh tra lại các báo cáo tài chínhcủa mình.12f. Chấm dứt sự độc quyền của các đại gia thuộc Big Five trên thị trườngkiểm toán và tư vấnNói chung, sự cố Enron đã làm xói mòn danh tiếng và uy tín của các đại gia thuộc BigFive, và hậu quả là thị phần của các người hùng một thời " chọc trời khuấy nước" đãgiảm đi đáng kể. Danh tiếng và uy tín - đó là hai thứ đã đem lại cho các đại gia thuộc BigFive những lợi nhuận khổng lồ, tuy nhiên, sau sự cố Enron thì có lẽ hai bảo vật thiêngliêng đó chỉ còn là hoài niệm.Nhiều khách hàng lớn, trong đó có cả các xí nghiệp công ty khổng lồ Nhà nước trướcđây chỉ tín nhiệm dịch vụ của Big Five giờ đây cũng đã khảng khái tuyên bố rằng họsẽ tìm kiếm các nhà cung cấp dịch vụ kiểm toán khác. Và đồng thời, các khách hàng đãtừng sử dụng dịch vụ của Andersen dần dần tìm cách xóa mờ hình ảnh của đại gia nàytrong các sổ sách tài chính nếu không muốn cổ phiếu của mình tiếp tục rớt giá. Và nhưvậy, sẽ có nhiều biến chuyển mới trên thị trường kiểm toán và tư vấn. Còn riêngAndersen, có lẽ việc sát nhập vào một trong các thành viên còn lại của Big Five làphương án tối ưu nhất để mấy chục nghìn nhân viên của công ty này trên toàn cầu còn cóthể sống được bằng nghề của mình, bởi dù sao "méo mó có còn hơn không". Và cũng cóthể, với việc cắt giảm nhân viên của Andersen trên toàn cầu, mức thu nhập của cáckiểm toán viên thuộc các Big Five còn lại có khả năng bị giảm sút nghiêm trọng.III. BÀI HỌC RÚT RA TỪ SỰ CỐ CỦA ENRON VÀ A&A:Nếu thảm họa của phi thuyền Challenger là bài học cho các kỹ sư thì vụ phá sản củaEnron chính là kinh nghiệm xương máu cho các nhà quản lý, theo cách nói của Giáo sưkinh tế học Đại học Harvard, Malcolm S. Salter.Một số sự kiện ghi dấu cả một thế hệ.Nếu dấu ấn đó là bài học sâu sắc cho chính bản thân chúng ta, như Malcolm Salter tintưởng, thì đó chính là cuộc khủng hoảng Enron đối với các nhà kinh doanh. Các nhà khoahọc chính trị có thất bại trong cuộc tấn công "Vịnh con lợn" (Bay of Pigs), các kỹ sư cóthảm họa Challeger, và bây giờ các nhà quản lý có Enron- một bi kịch để bắt đầu suynghĩ kỹ lưỡng về cái thể chế loài người đã tạo ra để tổ chức đời sống kinh tế của chúngta, theo Salter1. Bài học rút ra:a. Sự kém cỏi đi trước gian lận.Salter cho rằng những hậu quả của Enron lên sự cải tổ các doanh nghiệp ở Mỹ sau sự sụpđổ của nó là hết sức sâu rộng. Các biện pháp được sử dụng để hạn chế lạm dụng ở nhữngcông ty dạng Enron như chuyển từ hệ thống quản trị và kiểm soát xung đột dựa trênnguyên tắc sang hệ thống dựa trên luật lệ không giải quyết được vấn đề trọng tâm, ôngcảnh báo. Ở Vương quốc Anh, hệ thống kế toán là một hệ thống dựa trên nguyên tắc điểnhình. “Ở đây, chúng ta có một hệ thống dựa trên luật lệ với ngày càng nhiều luật lệ trongnhững bộ luật ngày càng lớn với những con người ngày càng thông minh đang tìm cáchvượt qua những giới hạn.”13Một số luật lệ khác được đặt ra để kiểm soát gian lận như đạo luật về kiểm soát nội bộcủa Sarbanes- Oxley Act trở nên vô cùng tốn kém để thực hiện. Những đạo luật mới chohệ thống quản trị và kiểm soát xung đột này nêu bật 3 giả định: Những tiêu chuẩn tối thiểu cho trách nhiệm của người được ủy thác trở nên thiếuđầy đủ. Hệ thống kiểm soát nội bộ bị phá vỡ. Câu trả lời tốt nhất cho những điều trên là củng cố sự kiểm soát áp đặt cho bênngoài bằng cách tăng cường lượng thông tin đến thị trường vốn, chuyển giao quyền lựcđến cổ đông và hạn chế “làm ăn với chính bản thân mình” (self-dealing).Nhưng những điều luật mới được đặt ra này không ngăn chặn được sự thất bại củaEnron.“Vấn đề lớn ở Enron chính là sự kém cỏi chết người đi trước gian lận.” Enron chính làcâu chuyện về việc đội ngũ quản lý, đứng đầu là Ken Lay, xây dựng một văn hóa hướngthành tích (performance-oriented culture) vừa thể chế hóa vừa dung hòa hành động lầmđường lạc lối. Đây là trường hợp mà đội ngũ quản lý tạo ra một thế giới mà chính họcũng không hiểu, vì thế mà họ không thể điều khiển. Enron là một ví dụ về yếu kém tổngthể đi trước gian lận: khi mà nguồn gốc của sự yếu kém này chính là sự thiếu kinhnghiệm, sự khờ khạo và một thái độ quá coi trọng kết quả Và sau cùng là, là sự thiếukhả năng đối mặt với thực tế khi xuất hiện những vấn đề không như ý muốn.”a. Trèo cao té đauMalcolm cho biết, trước khi xảy ra gian lận là là một sự cải cách ấn tượng, nhưng nólại dẫn đường cho sự ngạo mạn và mạo hiểm trong vấn đề tài sản. Enron đã rất ngạo mạnmuốn thương mại hóa năng lượng điện, nước và băng thông rộng. (Năng lượng điện vànước là những vấn đề hết sức nhạy cảm về chính trị ở cấp độ địa phương, và rất khó đểvận chuyển đi xa). Sự dối trá và phủ nhận trách nhiệm nuôi dưỡng những lệch lạc về đạođức. Sự lệch lạc về đạo đức của Enron càng được thúc đẩy bởi tham vọng quản lý đánhgiá đẳng cấp tín dụng và kiểm soát nhu cầu về tiền mặt và thu nhập không ổn định, viphạm các điều luật của GAPP và SEC. Kết quả là “những ảnh hưởng xấu lan truyền và sựsai phạm trở nên hết sức bình thường”.Trong số các bài học ông nhấn mạnh cho các nhà quản lý vẫn còn bị ảnh hưởng sauthất bại của Enron chính là tầm quan trọng của sự khiêm tốn và biết mình biết người. Banđiều hành của Enron chỉ là những kẻ nghiệp dư cố gắng chơi một trò chơi chuyên nghiệp,Malcolm cho biết. Họ đã sử dụng động cơ mà không cần đến điều khiển. Sự cách tân củahọ đã thực sự thành công bước đầu, nhưng đã vượt quá tầm tay của họ. Là những kẻnghiệp dư, Enron không biết gì về các lực lượng họ tạo ra và bị lệ thuộc vào những lựclượng họ không thể hiểu được.Cảm nhận gần đây về nguy cơ khủng hoảng của các công ty cổ phần phát hành chứngkhoán ra công chúng (public listed corporations) đã đặt ra nhiều câu hỏi cơ bản về thựcchất của cơ chế Quản trị công ty (Corporate Governance) không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở14nhiều nước trên thế giới. Trước khi xuất hiện những khó khăn đã nhận chìm Enron vànhiều công ty cổ phần khác, ví dụ như Worldcom, Tyco,…b. Các vấn đề về HĐQT độc lậpYêu cầu phải có các thành viên HĐQT độc lập nảy sinh vì khả năng xung đột lợi íchgiữa những người cung cấp vốn, tức là cổ đông, và ban giám đốc. Do những người quảnlý công ty thường không nắm giữ vốn góp đáng kể trong công ty, có nguy cơ họ dành ưutiên cho các quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi của cổ đông. Vì thế, một trongnhững vai trò của thành viên HĐQT độc lập là giám sát ban giám đốc; nói đúng hơn, cólẽ đó là vai trò chính của họ.Có các thành viên HĐQT độc lập để giảm nguy cơ ban giám đốc lạm dụng quyền hạn.Vì những thành viên HĐQT độc lập không tham gia trực tiếp vào việc quản lý nên khôngcó các cơ hội như ban giám đốc để lạm dụng chức vụ vì lợi ích riêng thay vì bảo vệ lợiích của công ty và cổ đông.Do vai trò của các thành viên HĐQT độc lập là giám sát hoạt động của ban giám đốc,để làm được điều này, bản thân họ phải độc lập với ban giám đốc. Ở Hoa Kỳ, nhiều côngty phát hành chứng khoán ra công chúng có đa số thành viên HĐQT là thành viên độclập. Hiện tượng này thật hiếm ở Châu Á, một phần là do nhiều công ty phát hành chứngkhoán ra công chúng tại Châu Á có các cổ đông chi phối (ưu thế); trên thực chất họ cóthể kiểm soát công ty, vì vậy họ chẳng có động cơ bổ nhiệm nhiều thành viên độc lậptrong HĐQT để không mất một phần quyền kiểm soát của mình. Hơn nữa, tại Châu Áhầu như không có các áp lực thị trường để thúc đẩy các công ty như thế cải tiến (hay ítnhất là ra vẻ cải tiến) cung cách quản trị, ví dụ, bằng cách bổ nhiệm một đa số độc lậptrong HĐQT. Tuy vậy, trong chừng mực các thành viên HĐQT độc lập tiếp cận đượcthông tin và ban giám đốc, tham dự các buổi họp và nói chuyện của HĐQT, họ vẫn cókhả năng thi hành chức năng giám sát dù không tạo thành đa số trong Hội đồng Quản trị.Đó là lý thuyết; thực tế lại hơi khác. Có nhiều lý do để giải thích sự không tương quangiữa tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập và thành tích hoạt động của công ty.Thứ nhất, mặc dù các thành viên HĐQT độc lập được bổ nhiệm để bảo vệ quyền lợicủa cổ đông thông qua chức năng giám sát, họ có thể phải chịu ơn ban giám đốc về việcđược bổ nhiệm hay vì một lý do khác nào đó. Đây là một thực tế thường thấy tại các côngty mà Tổng Giám đốc (CEO) cũng là cổ đông kiểm soát. Trong chừng mực ban giám đốccó ảnh hưởng trong việc bổ nhiệm các thành viên HĐQT, họ sẽ thường khuyến khíchviệc bổ nhiệm các thành viên mà họ cảm thấy sẽ không can thiệp nhiều vào các quyếtđịnh của họ.Thứ hai, nhiều thành viên độc lập được bổ nhiệm chủ yếu để làm vẻ vang và tăngthêm uy tín cho HĐQT. Họ thường là những cá nhân đã thành đạt, rất bận rộn và đangnắm giữ một số vị trí tương tự ở nhiều nơi khác. Thời gian họ có thể giành cho công tyhạn chế. Lại thêm vấn đề, đôi khi các công ty hoạt động trong các ngành rất kỹ thuật màcác thành viên HĐQT độc lập không am hiểu nhiều. Trong tình huống đó, sẽ cực kỳ khókhăn cho các thành viên độc lập đóng vai trò hữu ích trong những sự bàn tính của HĐQT.15Thường thì, các thành viên độc lập không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào phánđoán của ban giám đốc. Do các thành viên độc lập không có quá trình đào tạo hay kinhnghiệm hoạt động trong lĩnh vực hay ngành của công ty, cái tối đa mà họ có thể làmtrong quá trình HĐQT ra quyết định là ngăn chặn những ý kiến quá kém cỏi.Thứ ba, sự thiếu kiến thức và chuyên môn của các thành viên độc lập về hoạt độngcủa công ty trao lợi thế đáng kể cho ban giám đốc. Ngoài ra, ban giám đốc có trong tay cảbộ máy điều hành của công ty. Vì thế, các thành viên độc lập không thể tránh khỏi tìnhtrạng phải phụ thuộc vào ban giám đốc. Các thành viên độc lập nói chung chẳng có chọnlựa nào khác ngoài việc phải tin vào thiện chí của ban giám đốc và hoạt động trên cơ sởthông tin mà ban giám đốc cung cấp cho họ. Và tất nhiên, nếu ban giám đốc không cóthiện chí thì các thành viên HĐQT độc lập sẽ bị bất lợi và không thể hoàn thành chứcnăng giám sát của họ một cách hiệu quả.Sau sự kiện Enron, do tình hình khó khăn của các công ty ở Hoa Kỳ, vấn đề quản trịcông ty hiệu quả một lần nữa được đưa lên hàng đầu. Trong đó, vai trò của các thành viênHĐQT độc lập được đặc biệt quan tâm. Ở Hoa Kỳ, Ủy Ban Giám Sát Việc Niêm Yết vàTrách Nhiệm Giải Trình của doanh nghiệp trực thuộc NYSE đã kiến nghị việc sửa đổimột số điều luật liên quan đến quản trị công ty nhằm nâng cao tính chính trực và minhbạch của các công ty trong NYSE. Những kiến nghị được trình lên NYSE ngày 6 tháng 6năm 2002 bao gồm:(1) Yêu cầu các công ty niêm yết phải có đa số thành viên HĐQT độc lập.(2) Định nghĩa rõ hơn thế nào là một thành viên HĐQT “độc lập”.(3) Trao thêm quyền cho các thành viên HĐQT độc lập để họ thực hiện nhiệm vụkiềm chế ban giám đốc một cách hiệu quả hơn; yêu cầu họ có những phiên họp thườngkỳ ở cấp điều hành không có ban giám đốc hiện diện; đồng thời, yêu cầu các thành viênHĐQT độc lập chỉ định và tiết lộ công khai danh tánh của thành viên HĐQT sẽ chủ tọacác phiên họp này, nhằm tạo điều kiện cho một thành viên HĐQT độc lập làm đối trọngvới quan chức điều hành cao nhất (CEO) trong công ty.(4) Yêu cầu các công ty niêm yết phải có một ủy ban tiến cử/quản trị công ty gồmtoàn thành viên HĐQT độc lập để xem xét việc bổ nhiệm những người mới vào HĐQTvà định hình cơ chế quản trị của công ty. Tương tự, ủy ban phụ trách về thù lao cũng phảigồm toàn thành viên HĐQT độc lập.(5) Gia tăng quyền lực và trách nhiệm của ủy ban kiểm toán, kể cả giao cho họ quyềnquyết định thuê mướn hay sa thải các kiểm toán viên độc lập, và phê duyệt bất kỳ quanhệ phi kiểm toán đáng kể nào với các kiểm toán viên độc lập.(6) Các công ty niêm yết phải công bố những nguyên tắc quản trị công ty của mình,bao gồm các tiêu chuẩn về năng lực, trách nhiệm, mức thù lao của thành viên HĐQT,v.v (7) Yêu cầu các công ty niêm yết chấp nhận thực hiện cũng như công bố thông tinmột bộ qui tắc về hành vi cũng như đạo đức kinh doanh áp dụng cho các thành viên16HĐQT, các quan chức và nhân viên của công ty, và nhanh chóng công bố mọi trường hợpkhước từ bộ qui tắc này đối với các thành viên HĐQT hay các quan chức điều hành.c. Vai trò của kiểm toán viênCác kiểm toán viên độc lập đóng vai trò quyết định trong việc quản trị công ty. Nếukhông có báo cáo kế toán và thông tin tài chính chính xác, thì ngay cả người có thiện chínhất trong các thành viên HĐQT độc lập cũng sẽ không thể thi hành nhiệm vụ. Về khíacạnh này, hoạt động của giới kiểm toán trong thời gian qua thật là đáng thất vọng. Khókhăn chính, cũng như trong trường hợp các thành viên HĐQT độc lập, là việc bổ nhiệmkiểm toán viên độc lập hầu như trong tay của ban giám đốc. Trên lý thuyết thì các kiểmtoán viên độc lập, tương tự như các thành viên HĐQT độc lập, được cổ đông bổ nhiệmtrong đại hội cổ đông. Trong thực tế, thường thì kiểm toán viên nào được tiến cử thìngười đó sẽ được bổ nhiệm, mà việc tiến cử này lại do ban giám đốc phụ trách.Công nhận điểm yếu này, NYSE đã kiến nghị tăng cường quyền lực và trách nhiệmcủa ủy ban kiểm toán, kể cả việc độc quyền quyết định thuê mướn hay sa thải kiểm toánviên độc lập. Ủy ban kiểm toán phải có một số nhiệm vụ tối thiểu hàng năm là tiếp nhậnvà xem xét báo cáo của kiểm toán viên độc lập về quy trình kiểm soát nội bộ, đánh giámối quan hệ giữa kiểm toán viên độc lập và công ty. Ủy ban kiểm toán cũng phải cóquyền được sự cố vấn và hỗ trợ của các nhà cố vấn pháp lý, kế toán và các nhà cố vấnkhác không làm cho công ty, tiếp xúc riêng với ban giám đốc, kiểm toán viên nội bộ,kiểm toán viên độc lập và cùng với kiểm toán viên độc lập rà soát bất kỳ vấn đề hay gútmắc nào về kiểm toán.Ngoài ra, Quốc hội Hoa Kỳ cũng đã tiến hành các bước nhằm tăng cường sự độc lậpcủa kiểm toán viên, ngăn cấm một số công ty kiểm toán có đăng ký cung cấp cùng mộtlúc dịch vụ kiểm toán lẫn phi kiểm toán cho bất kỳ công ty phát hành nào mà hãng nàyđang phục vụ. Một số dịch vụ phi kiểm toán bao gồm:- Giữ sổ sách kế toán hay các dịch vụ khác liên quan đến hồ sơ kế toán hay báocáo tài chính của khách hàng đang được kiểm toán;- Thiết kế và thực hiện các hệ thống thông tin tài chính;- Quản lý công ty hay quản lý nhân lực;- Môi giới, tự doanh, cố vấn đầu tư, hay làm dịch vụ ngân hàng đầu tư;- Cung cấp dịch vụ pháp lý và các dịch vụ chuyên môn không liên quan đến việckiểm toán;- Đối với các dịch vụ phi kiểm toán khác, như các dịch vụ về thuế, thì phải đượcsự chấp thuận trước của ủy ban kiểm toán của nhà phát hành cổ phiếu.Việc cấm đoán các công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ tư vấn hay các dịch vụ kháccho khách hàng được họ kiểm toán sẽ có tác dụng phần nào trong việc phục hồi sự độclập của kiểm toán viên, nhưng tự nó không thể hoàn toàn giải quyết vấn đề. Với một số17công ty kiểm toán bị cáo buộc là cẩu thả trong việc kiểm toán, có lẽ các kiểm toán viên sẽchú ý hơn rất nhiều đến việc kiểm toán cho khách hàng của họ, ít nhất là trong tương laigần. Những sự cấm đoán và khó khăn liên quan đến công việc phi kiểm toán cũng sẽ gópphần giúp các kiểm toán viên tập trung hơn vào công việc chính của mình.d. Việc phân tích và theo dõi tài chính phải do các tổ chức chuyên môn thựchiệnMột cơ chế điều tiết dựa chủ yếu vào quá trình minh bạch hóa thông tin thay vì kêkhai thành tích đơn thuần dẫn đến sự ra đời của các định chế tài chính chuyên môn theodõi hoạt động của các công ty cổ phần, và sự phân tích của họ về thành tích hoạt động, vịthế tài chính, triển vọng của các công ty này có tác dụng kiềm chế ban giám đốc và cungcấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư. Sự theo dõi tài chính mà các định chế này thựchiện có tác dụng áp đặt kỷ luật thị trường lên các công ty bằng cách trừng phạt các côngty nào không minh bạch và yếu kém trong quản trịTrong thời kỳ hậu-Enron, có sự hoài nghi đáng kể về sự “vô tư” của các nhà phântích, đặc biệt những người gắn kết với các ngân hàng đầu tư hay các định chế cung cấpdịch vụ cho các công ty đang và sẽ niêm yết. Như thường lệ, thủ phạm chính là sự xungđột về lợi ích; sự xung đột phát sinh khi các định chế vừa muốn cung cấp thông tin kháchquan cho công chúng nhưng đồng thời lại cung cấp một số dịch vụ cho các công ty họđang xem xét và sinh lợi rất lớn từ đó.Trước những công kích của dư luận, các định chế tài chính này bắt đầu dựng lênnhững rào cản mà họ ví von là "vạn lý trường thành" giữa bộ phận phân tích và bộ phậngiao dịch với khách hàng. Tuy nhiên, tác giả bài này quan niệm rằng, các rào cản là quádễ bị xâm phạm để khách hàng có thể thực sự an tâm, và các biện pháp như thế chủ yếuchỉ để lấy lòng công chúng. Một số tổ chức khác có thể tách các bộ phận phân tích thànhmột đơn vị riêng biệt, được độc lập đáng kể. Ví dụ, Citigroup đã tuyên bố là sẽ chia táchhoạt động phân tích và hoạt động môi giới bán lẻ thành đơn vị riêng biệt. Thậm chí, luậthình sự cũng có thể được sử dụng rộng rãi hơn khi thích hợp, như Bộ trưởng Tư phápbang New York đã làm khi khởi tố nhiều ngân hàng đầu tư; đến nay, đã có một số ngânhàng đồng ý dàn xếp qua thương lượng, ví dụ, Merril Lynch đồng ý trả khoản phạt 100triệu USD để dàn xếp vụ kiện nói trên.2. Liên hệ đến Việt Nam:Việc minh bạch hóa thông tin tài chính ở Việt Nam chưa được thực hiện tốt. Điềuđáng buồn mà kiểm toán Việt Nam cần khác phục là khi có sự bắt tay giữa công ty kiểmtoán và công ty bị kiểm toán thì kết quả tất yếu là các báo cáo kiểm toán được đưa ra sẽthiếu chính xác và không trung thực, dẫn tới các quyết định sai lầm của các nhà đầu tư.Hơn nữa, những quy định về trách nhiệm của kiểm toán viên khi xảy ra rủi ro, gây thiệthại cho khách hàng chưa rõ ràng (bồi thường không quá 10 lần phí kiểm toán) nên chưagắn trách nhiệm với kết quả công việc, từ đó dẫn đến việc đóng dấu ăn tiền, ảnh hưởngđến sự minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp nói riêng và nền tài chính quốc gia nóichung.18Việt Nam mới chỉ phát triển lĩnh vực Kiểm toán trong vài năm trở lại đây, do vậychúng ta không thể tránh khỏi những hạn chế, sai xót. Vì thế, Kiểm toán Việt Nam nóichung và bản thân mỗi kiểm toán viên nói riêng cần không ngừng trau dồi nghiệp vụ, tưdưỡng đạo đưc để ngành ngày càng phát triển, tạo được uy tính và long tin các nhà đầutư.IV. KẾT LUẬN:Tình hình hậu-Enron đã làm thay đổi quan niệm có phần được thổi phồng trước đâyrằng, ở các quốc gia phát triển việc quản trị công ty là tốt, không có vấn đề gì để nói.Thực tế cho thấy rằng, phần lớn sự gia tăng lợi nhuận công ty và giá trị cổ phiếu cuốithập niên 1990 ở Hoa Kỳ được xây trên cát chứ không phải trên nền tảng vững chắc củakhả năng sinh lời và việc quản trị công ty tốt. Các biện pháp chấn chỉnh đang được tiếnhành. Tuy thế, chúng ta phải luôn nhớ hai điều.Thứ nhất, sự điều tiết phải được bổ sung từ bên ngoài nhưng cũng đòi hỏi phải thậtkhéo léo, điều mà nhà nước cần phải quan tâm ở đây là không nên can thiệp quá mức kẻosáng kiến tư nhân bị bóp nghẹt.Thứ hai, quản trị tốt trong môi trường thị trường xuống giá trong đó nhiều nhà đầu tưbị tác hại là một chuyện; còn quản trị tốt ở một môi trường thị trường lên giá nhưng bịlũng đoạn bởi sự hám lợi là hai chuyện hoàn toàn khác. Chính trong môi trường thứ hai,việc quản trị công ty tốt có thể còn quan trọng hơn. Thế nhưng, rút kinh nghiệm từ lịchsử, có thể làn sóng đầu cơ kế tiếp sẽ làm cho các bài học rút ra từ sự kiện Enron chóngchìm vào quên lãng.
Tài liệu liên quan
- Sự sụp đổ của A&A và Enron.doc
- 31
- 1
- 10
- Tiểu luận: Sự ổn định của bộ ba bất khả thi và các mẫu hình kinh tế vĩ mô quốc tê
- 29
- 713
- 1
- tiểu luận sự phù hợp của quy luật sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất
- 24
- 480
- 0
- Tiểu luận: Sự ảnh hưởng của tổng sản phẩm quốc nội, lãi suất và mật độ dân số đến việc huy động vốn dân cư tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- 14
- 756
- 0
- sự sụp đổ của enron và những sai lầm trong chiến lược quản trị tài chính
- 28
- 1
- 5
- Tiểu luận - Sự quá độ đi lên của chủ nghĩa xã hội docx
- 31
- 325
- 0
- Quá trình hình thành, phát triển và nguyên nhân sụp đổ của Enron và Worldcom
- 29
- 886
- 5
- TIỂU LUẬN sự sụp đổ của ENRON và aa
- 18
- 3
- 21
- Sự sụp đổ của hệ thống Vecxai-Oa sinh tơn và con đường dẫn đến chiến tranh ppsx
- 14
- 637
- 2
- Tiểu luận sự vận dụng của đảng và nhà nước ta về chính sách đối với việt kiều yêu nước hiện nay
- 29
- 544
- 0
Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về
(247.96 KB - 18 trang) - TIỂU LUẬN sự sụp đổ của ENRON và aa Tải bản đầy đủ ngay ×Từ khóa » Enron Scandal Tiếng Việt
-
Vụ Bê Bối Enron – Wikipedia Tiếng Việt
-
Enron - Kẻ Dối Trá Vĩ đại - VnExpress Kinh Doanh
-
Scandal Tài Chính Tại Enron - VnExpress
-
Vụ Bê Bối Tài Chính Enron: Trạng Chết, Chúa Cũng Băng Hà
-
Vụ Bê Bối Enron | Tóm Tắt, Lịch Sử & Sự Kiện
-
Enron - Công Ty Năng Lượng Lớn Nhất Nước Mỹ đã Sụp đổ Vì 'tô Hồng ...
-
Enron Scandal: Sự Sụp đổ Của Phố Wall Darling - Talkin Go Money
-
THE ENRON SCANDAL Tiếng Việt Là Gì - Trong Tiếng Việt Dịch - Tr-ex
-
Ba Bài Học Từ Vụ Phá Sản Của Enron | Vietstock
-
Kiểm Toán.NHÓM 8.ENRON
-
Vụ Bê Bối Của Enron - Wikimedia Tiếng Việt
-
Bê Bối Tài Chính Enron - Vụ Gian Lận Kế Toán Gây Thiệt Hại 70 Tỷ ...
-
10 Vụ Bê Bối đình đám Nhất Của Các Doanh Nghiệp Trên Thế Giới
-
Bẫy “bơm Xả” Chứng Khoán: Nhận Diện Công Thức Làm Giá Của "cá ...