Tín Ngưỡng Thờ Cúng Cá Ông Trên địa Bàn Quận Sơn Trà

Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông trên địa bàn quận Sơn Trà

Lễ nghinh thần Lăng Ông Vạn Đồng Hiệp (đường Hoàng Sa, phường Thọ Quang)

Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông (hay cá voi) là một loại hình tín ngưỡng tâm linh khá đặc thù của ngư dân ven biển nước ta. Hầu như các làng chài ven biển đều có các lăng, miếu thờ cúng cá Ông với những nghi thức cúng tế hết sức trang trọng. Ngư dân xem cá Ông là con vật thiêng phù trợ cho họ trong đời sống hàng ngày với niềm tin mạnh mẽ. Niềm tin về vị thần Nam Hải đã hình thành các nghi lễ, phong tục, hội hè mang đậm tính nhân văn và sắc thái của từng địa phương vùng duyên hải. Ở quận Sơn Trà (thành phố Đà Nẵng), tục thờ cúng cá Ông của ngư dân các phường Mân Thái, Thọ Quang, Nại Hiên Đông, Phước Mỹ, An Hải Tây cũng nằm trong dòng chảy chung của tín ngưỡng này nhưng mang những sắc thái riêng.

  1. Lịch sử hình thành cư dân quận Sơn Trà

Sơn Trà là một quận nằm về phía Đông thành phố Đà Nẵng, trải dài theo hạ lưu phía hữu ngạn sông Hàn, có toạ độ địa lý từ16004'51'' đến16009'13''vĩ độ Bắc, 108015'34''đến108018'42'' kinh độ Đông, diện tích tự nhiên 63,39 km2 và dân số vào khoảng 161,55 nghìn người (Niên giám TK 2020). Là một quận có ba mặt giáp sông, biển: Phía Bắc và Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp sông Hàn, phía Nam giáp quận Ngũ Hành Sơn. Quận Sơn Trà có 7 phường: An Hải Đông, An Hải Tây, Phước Mỹ, An Hải Bắc, Nại Hiên Đông, Mân Thái và Thọ Quang.

Trước đây, Sơn Trà là vùng đất thuộc vương quốc Champa, khoảng đầu thế kỷ XIV, nhất là sau khi Chế Mân (vua Chăm) dâng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt vào năm 1306 để cưới công chúa Huyền Trân thì những di dân người Việt vào định cư trên vùng đất này.

Gần 150 năm sau, trong cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông (1471), rất nhiều cư dân người Việt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,... tiếp tục vào vùng đất “ô châu ác địa” này để sinh sống. Đến năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Đàng Trong thì các đợt di dân vào vùng đất mới diễn ra ngày càng nhiều và phát triển hết sức mạnh mẽ.

Nhiều thế kỷ trôi qua, với biết bao biến thiên và thăng trầm của lịch sử, kể từ khi được thành lập đến nay, rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa minh chứng cho vùng đất giàu truyền thống được nhân dân xây dựng trên vùng địa lý tên quận Sơn Trà hiện nay.

Quận Sơn Trà có ngư trường rộng lớn, không bó hẹp trong phạm vi của quận, của thành phố, mà được mở rộng ra các tỉnh lân cận, kéo dài đến Vịnh Bắc Bộ và biển Nam Trung Bộ, có nguồn lợi thuỷ sản dồi dào, phong phú, có giá trị kinh tế cao và nhiều loại hải sản quí hiếm. Nghề đi biển nơi đây đã có truyền thống lâu đời, gồm hai hình thức chính là đi khơi và đi lộng. Đi lộng là hình thức đánh bắt gần bờ, thời gian thường bắt đầu từ 5, 6 giờ chiều, đến 4, 5 giờ sáng ngày hôm sau thì về, ngư cụ thường dùng là lưới, sản phẩm đánh bắt được chủ yếu là các loài cá, tôm, cua, ốc, mực nhỏ, công việc này diễn ra quanh năm; Ngược lại, hình thức đi khơi thích hợp với các phương tiện đánh bắt lớn, hiện đại. Đi khơi chủ yếu là đi tập thể từ 7 đến 15 người, thời gian mỗi chuyến ra khơi có thể từ 15 đến 20 ngày, có khi cả tháng. Sản phẩm đánh bắt được thường là các loại cá, tôm, mực lớn... Việc đi khơi phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên thời gian thường diễn ra ngắn hơn. Chính hoạt động đánh bắt và khai thác thủy hải sản của ngư dân quận Sơn Trà tự bao đời qua đã phần nào cung cấp một lượng thực phẩm lớn, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân trong thành phố và các địa phương lân cận.

Vùng đất Sơn Trà đã trải qua nhiều thế kỷ hình thành và biến đổi, do đó đời sống văn hóa tín ngưỡng của cư dân nơi đây luôn gắn liền với quá trình hình thành, phát triển, với lịch sử sinh tồn và cư trú của người dân. Ở quận Sơn Trà, ngư dân quanh năm bám trụ với sóng gió trên biển, vì vậy ngoài các hình thức thờ cúng gia tiên, các vị tiền hiền, nhân thần, thiên thần... thì một hình thức tín ngưỡng gắn liền với nghề biển, có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tinh thần của họ, được họ lưu giữ bao đời nay là tín ngưỡng thờ cúng cá Ông. Ngư dân Sơn Trà thường hát lời hát bả trạo ca ngợi cá Ông: Ngó lên Bắc Đẩu Nam Tào/ Kìa con cá Liệt nọ sao Ông Chài/Ngó ra biển bạc nước săn/Mồi neo sửa lót neo quen dừng chèo/Thuyền nan gặp sóng ba đào/Kêu Ngài, Ngài đã đưa vào cứu con...

  1. Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông ở quận Sơn Trà

Theo các nhà khoa học thì cá voi/cá Ông là một loài động vật có vú, sinh con và thở bằng phổi. Cá Ông thích nghi với đời sống ở biển ôn đới cũng như hàn đới, là một sinh vật to lớn với thân hình đồ sộ, thể trọng có thể đến 120 - 150 tấn. Vì thở bằng phổi nên từ 3 đến 5 phút, cá Ông phải ngoi lên mặt biển để thở, hấp thụ ôxy, đồng thời cá Ông có tập tính hay bơi theo thuyền đánh cá của ngư dân, nhất là khi có sóng to gió lớn cho đến tận gần bờ mới rời thuyền bơi ngược lại ra biển khơi. Chính điều này có liên quan đến việc cá Ông cứu người hay ghe thuyền bị nạn giữa biển khi có gió to và bão.

Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn cho biết: “Cá Ông voi: đức ngư (theo tên đời Tự Đức ban cho), đầu tròn, trên trán có lỗ phun nước sắc đen, nhẵn nhụi không vẩy, đuôi chẻ ra như con tôm, tính hiền lành hay cứu người. Đầu đời Minh Mệnh cho tên là nhân ngư, đầu đời Tự Đức cho đổi tên hiện nay. Con nào ở biển Nam thì có linh tính, ở biển khác thì không. Tục truyền, long diên hương là do nước dãi của cá này kết lại, chưa rõ có đúng thế không. “Dị lục chí” trong An Nam chí của Cao Hùng Trưng chép rằng: hải thu là thứ cá rất lớn trong loài cá, phun hơi nước lên trên không, gió bay đi như mưa. Cách trí kính nguyên dẫn sách Chính tự thông chép rằng: bạch ngư dài 20 trượng, tính hiền lành, hay cứu người, hoặc thấy người chài bị loài cá dữ làm khốn quẫn, nó cũng giải cứu”.(1)

Còn trong Thoái thực ký văn, Trương Quốc Dụng cho ta biết rõ hơn về tín ngưỡng thờ cúng cá Ông của ngư dân ven biển: “Hải Thu tục gọi là cá Ông voi, mình dày không vây, đuôi giống tôm, kỳ nó rất sắc, mũi ở trên trán, tính nó nhân hay cứu người. Người đi thuyền gặp phong ba mà đắm nó thường đội trên lưng đưa vào gần bờ, vẫy đuôi bỏ lên. Người miệt biển rất kính. Có con chết mà tạt vào bờ ruồi lẳng không đậu, họ bèn góp tiền làm ma, ai chủ việc ấy thì đánh cá và buôn bán có lợi”.(2)

Ngư dân đánh cá biển nhận thấy cá Ông dù có thân hình to lớn, nhưng hiền lành và không bao giờ làm hại người, ngược lại còn cứu mạng họ khi bị tai nạn đắm thuyền trên biển, nên được họ coi như một vị thần của biển cả. Theo sắc phong thần của các vua nhà Nguyễn, cá Ông được tôn vinh là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần”. Sách Gia Định thành thông chí chép: “Những khi thuyền bè gặp sóng gió nguy hiểm, thường thấy thần [cá Ông] dìu đỡ mạn thuyền bảo vệ người yên ổn. Hoặc thuyền bị chìm đắm, trong cơn sóng gió thần cũng đưa người vào bờ, sự cứu giúp ấy rất rõ. Chỉ nước Nam ta từ Linh Giang đến Hà Tiên mới có việc ấy và rất linh nghiệm, còn các biển khác thì không có”(3). Khi cá Ông sống, ngư dân gọi là Ông Sanh, khi cá Ông chết thì gọi là Ông Lụy. Khi còn sống, cá Ông là ân nhân cứu sống sinh mạng của họ những khi bão to gió lớn trên biển, khi cá Ông lụy thì họ chịu tang như đối với người thân của mình.

Trong thần thoại của người Chăm, cá voi vốn là hóa thân của thần Cha-Aih-Va. Vì nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian rèn luyện phép thuật nên Cha-Aih-Va cãi lời thầy, tự ý biến thành cá voi để trở về và sau đó bị trừng phạt. Cha-Aih-Va đổi tên và tự xưng là Po Riyah (thần Sóng biển), cũng có lúc hóa thân thành thiên nga, trở thành ân nhân của những người bị đắm thuyền. Đã có một truyền thuyết về con cá voi thần kỳ, chở đến cho người miền núi Nam Việt Nam một hài nhi cứu thế, giải phóng loài người khỏi bị đau khổ. Trong khi đó, ở Campuchia lại không tìm thấy dấu vết gì về sự thờ cúng này(4).

Tục thờ cúng cá Ông vốn là tín ngưỡng của cư dân Champa mà những lưu dân người Việt trên bước đường Nam tiến đã tiếp thu được trong quá trình giao lưu văn hóa giữa hai tộc người. Dọc theo bờ biển nước ta, kéo dài từ Thanh Hóa vào tận đến Kiên Giang, hầu hết các làng chài đều có các lăng miếu thờ cá Ông với những nghi thức cúng tế hết sức trang trọng. Người dân vẫn xem cá voi/cá Ông là con vật thiêng phù trợ cho họ trong đời sống hàng ngày với niềm xác tín mạnh mẽ. Trong tâm thức của họ, hình ảnh cá Ông độ mạng trở thành chỗ dựa tinh thần quý giá, là nơi gởi gắm niềm tin. Niềm tin này, ban đầu là một nhu cầu giúp người ta chịu đựng gian khổ, hiểm nguy trong cuộc mưu sinh, dần dần dấu vết của niềm tin hằn sâu vào tiềm thức, trở thành tín ngưỡng dân gian. Và tín ngưỡng này đã ăn sâu vào ký ức cư dân ven biển thông qua việc tổ chức các lễ hội cúng cá Ông hàng năm diễn ra trên vùng đất mới này(5).

Dưới thời nhà Nguyễn, các vua nhà Nguyễn đã phong tặng cá Ông là vị thần biển và cấp độ phong tặng cá Ông như sau: Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Chi Thần (thời Minh Mạng); Từ Chế Chương Linh Trợ Tín Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Chi Thần (thời Thiệu Trị); Từ Tế Chương Linh Trợ Tín Trừng Trạm Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Chi Thần (thời Tự Đức); Từ Tế Chương Linh Trợ Tín Trừng Trạm Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Chi Thần (thời Đồng Khánh); Từ Tế Chương Linh Trợ Tín Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần (thời Duy Tân). Đồng thời, các vua nhà Nguyễn cũng quy định, làng nào bắt gặp cá Ông chết thì lý trưởng phải báo cáo lên cho phủ, huyện để cử quan đến khám định, cấp tiền tuất, hương đèn, vải đỏ quấn đủ bảy vòng và tổ chức khâm liệm, cấp đất xây lăng và ruộng hương hỏa để thờ cúng. Sau khi chôn cất cá Ông khoảng ba năm thì người ta làm lễ cải táng, xương cốt cá Ông được người ta xếp vào các quách đặt trong lăng để thờ. Hằng năm, những nơi có lăng thờ cá Ông, người dân đều tổ chức lễ hội cầu ngư.

Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông của ngư dân quận Sơn Trà là một nét đẹp của đời sống văn hóa tâm linh nhằm bày tỏ lòng thành kính của ngư dân Sơn Trà với “cá Ông”, cầu mong sự che chở, tốt lành bội thu và cũng như để xua đi mọi điều xấu. Lễ hội này còn là dịp để người ta cúng tế những vong hồn oan khuất và vĩnh viễn ở lại với biển nhằm xoa dịu nỗi đau của những người ở lại. Ông Trần Lự, một ngư dân ở phường Thọ Quang cho biết: “Cá Ông rất linh hiển. Trước lễ Cầu ngư, ngư dân chúng tôi đánh bắt 10 chỉ được 2. Nhưng sau khi cúng lễ xong, ngư dân ra khơi rất được mùa. Chính vì lẽ đó mà lễ này đã được duy trì hơn 400 năm nay”.

Lễ tế chính lăng Ông Vạn Đồng Hiệp (đường Hoàng Sa, phường Thọ Quang)

Ở quận Sơn Trà hiện có lăng Ông ở các phường Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang, Nại Hiên Đông, An Hải Tây, An Hải Đông thờ cúng cá Ông. Hầu như các lăng được xây dựng gần biển, quay mặt về phía biển, hướng Đông (Thọ Quang, Mân Thái, An Hải Đông) hoặc phía sông Hàn, hướng Tây (Nại Hiên Đông, An Hải Tây). Lăng ông được xây dựng thành 3 gian: gian tiền đường, gian chính điện và hậu tẩm. Theo lời kể của các cụ cao niên làm nghề đi biển lâu đời thì các lăng được xây dựng vào thời nhà Nguyễn và sau này do trải qua thời gian, bị mưa gió, bão lũ cũng như chiến tranh tàn phá nên được tu sửa lại nhiều lần mới có diện mạo như ngày nay.

Mỗi lăng tổ chức lễ hội cầu ngư vào những ngày khác nhau theo lịch âm (phường Thọ Quang ngày 16 đến 20 tháng 2, phường Phước Mỹ ngày 26 tháng Giêng, phường Mân Thái ngày 26 tháng Giêng, phường Nại Hiên Đông ngày 7 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch), có lăng thì chỉ tổ chức phần lễ, có lăng thì tổ chức cả phần lễ và phần hội, nhưng hình thức trong phần lễ thì tương tự nhau. Trong lễ hội Cầu ngư ở Sơn Trà thì nghi thức Đại lễ 3 năm mới tổ chức một lần, sau đó tùy theo kinh phí mà tổ chức Trung lễ hay Tiểu lễ, trong đó Tiểu lễ chỉ cúng Đức Ông, không có nghi thức xướng văn, Trung lễ thì có thêm đọc văn tế, có nghi thức cúng như Đại lễ nhưng không có hát Bả trạo. Lễ vật dâng cúng trong các lễ gồm: hương đèn, giấy tiền, hoa, rượu, bánh, chuối, xôi, chè, gạo muối, heo hoặc gà,... không được dâng lễ vật làm từ hải sản. Ban nghi lễ này do người dân trong làng bầu chọn, bao gồm các cụ cao niên, hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị tang chế, trong đó người trưởng lễ phải có uy tín, đạo đức, lanh lẹ, siêng năng, cần cù, có sức khoẻ và hợp tuổi để đứng lễ chính cáo bái với thần linh,...

Phần lễ thường diễn ra trong 2 ngày. Ngày thứ nhất: 12 giờ tổ chức lễ Nghinh Ông (có kiệu để rước hồn Đức Ông, các vị thần ở đình, chùa, miếu trong làng và vong linh những người khuất mặt). Đoàn rước là những người hiền đức, có uy tín với bạn chài và không bị tang chế đại diện cho nhân dân trong làng do Ban nghi lễ tuyển chọn trong trang phục áo dài, khăn đóng,... dẫn đầu đi quanh các đình, miếu trong làng làm lễ rước các vị thần, những người có công lập làng, cô bác âm linh, rồi đi dọc theo bờ biển để cúng và nghinh Ông về lăng Ông cùng dự hội với con cháu trong làng. 14 giờ tổ chức lễ Vọng; 21 giờ tổ chức lễ tế Âm linh. Lễ tế Âm linh diễn ra ở sân lăng. Sau Lễ này có hai đội chèo cổ khoảng 12 người, mặc áo thụng, chân đi hài, đầu đội mão, hát Bả trạo, cầu nguyện cho xóm làng yên vui, nhân dân làm ăn thuận lợi, may mắn.

Ngày thứ 2: 3 giờ sáng sẽ làm lễ thỉnh văn, đọc văn tế. Bài văn tế do ban phụng sự di tích viết, nội dung kể lại quá trình hình thành vùng đất, ý nghĩa thiêng liêng của lễ cúng, cũng như thể hiện sự thành kính, ca ngợi công đức, dâng trọng niềm tin sâu sắc và lòng biết ơn đối với sự che chở, bảo vệ của Đức Ông, về các vật Thủy thần, kể về công lao của các vị tiền hiền, hậu hiền, người khai canh, khai cư lập làng và ông tổ nghề cá. Trong văn tế có đoạn viết: “Sắc tặng chư tế, chương linh trợ quốc, cứu dân chi tử, nhơn thiên đại trừng, ban trạm lăng tế, sanh chi lượng thương binh” hay “Sắc tặng Đông Hải cự tộc, ngọc long tôn thần”... 4 giờ sẽ diễn ra Lễ tế Thần (còn gọi là chánh lễ hay đại lễ). Lễ tế Thần với sự tham gia của chính quyền địa phương, ngư dân trong làng và các làng lân cận. Trong lễ này có xướng văn và đọc văn tế. Đến 7 giờ sẽ tổ chức Xây chầu hát lễ. Lễ này có tiếng trống khai hội. Trong lễ này, Ban tổ chức sẽ chọn một vị cao niên đức cao vọng trọng và một đôi vợ chồng hạnh phúc song toàn để đánh tiếng trống chầu đầu tiên, cầu mong mọi điều tốt lành đến với bà con. Sau lễ Xây chầu là phần lễ hát mừng gọi là lễ chúc Phước Lộc Thọ cho toàn thể ngư dân và quan khách đến dự.

Thi lắc thúng trong lễ hội Cầu ngư ở Sơn Trà

* Phần hội diễn ra sau khi tổ chức lễ chánh, các vạn chài sẽ lồng ghép tổ chức nhiều môn thể thao được người dân vùng biển ưa thích như lắc thúng, đua thuyền, kéo co dưới nước, bóng chuyền bãi biển, gánh cá, đan lưới và hát bài chòi. Một trong những trò chơi đặc sắc trong phần hội của ngư dân Sơn Trà là lắc thúng. Lắc thúng được tổ chức vào 8 giờ buổi sáng. Sau khi làm lễ bến, các đội thuyền thúng chuẩn bị đua, đường đua thường dài khoảng 100 m. Mỗi đội dự thi chọn 1 vận động viên nam có sức khỏe tốt, biết bơi và biết lắc thúng. Mỗi vận động viên được trang bị 1 thúng, số đeo và 1 cột tiêu riêng của mình. Sau khi trống nổi lên, vận động viên từ điểm xuất phát lắc thúng (không được dùng chèo hoặc tay để bơi) đến cột thiêu của mình cua qua cột tiêu để quay về đích. Trên bờ, người dân tập trung để cổ vũ tinh thần cho các đội đua, tiếng chiêng, tiếng trống thúc giục hối hả, cờ hội đủ màu sắc phất phới dọc bờ biển. Tiếng cổ vũ vang lên vui vẻ, náo nhiệt làm tăng thêm không khí nhộn nhịp của hội. Theo các bậc cao niên làng chài thì việc tổ chức thi lắc thúng, đua thuyền vào ngày lễ cầu ngư nhằm khuấy động thủy cung, tức là nhân gian cần mưa, Thủy Nương mới sai người làm mưa cho cây cối xanh tươi. Còn hát bội thường tổ chức tại sân lăng Ông vào tối ngày diễn ra lễ cúng để nhân dân đến xem. Hát bội được xem như là hình thức trả lễ hoặc tạ ơn cho thần (lực lượng siêu nhiên) đã ngầm giúp đỡ để họ được toại nguyện.

Lễ hội cầu ngư của cư dân quận Sơn Trà thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên của người Việt, là cầu nối cố kết cộng đồng, góp phần giáo dục con người lòng biết ơn đối với các bậc tiền nhân. Từ đó cho thấy, tín ngưỡng thờ cá Ông của cộng đồng cư các phường Mân Thái, Phước Mỹ, Thọ Quang... là dạng thức tín ngưỡng thờ vật linh, phản ánh sự may rủi và bất trắc khi ngư dân lênh đênh đánh bắt trên biển. Nếu nhìn theo sự phát triển của hình thức đánh bắt thì tín ngưỡng thờ cá Ông ở đây ban đầu là hình thức tín ngưỡng của cư dân làm nghề chài lưới, đóng đáy ở cửa sông và ven bờ. Do vậy, họ mới có quan niệm cá Ông giữ nhiệm vụ trấn giữ các cửa sông để cứu người, đưa vào bờ, không trôi dạt ra khơi. Mặt khác, cũng thấy rằng, con người không chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào cá Ông mà còn cứu giúp cá Ông khi bị mắc cạn, bị ăn trúng sam... Đó là mối quan hệ có qua có lại, mang tính hai chiều, phản ánh sự gắn bó, hài hòa giữa con người với tự nhiên, phản ánh triết lý nhân quả “cứu người thì người cứu ta”... của ngư dân.

  1. Thay lời kết

Trải qua quá trình phát triển lâu dài, bao lớp người Việt từ đất Bắc di cư vào đây để sinh cơ, lập nghiệp. Trên vùng đất mới, họ phải luôn đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm để khai khẩn đất đai, lập thành làng mạc. Trung thành với vốn văn hóa truyền thống nơi quê hương cũ, đồng thời tiếp thu văn hóa của cư dân bản địa người Chăm trên vùng đất mới nên ngư dân quận Sơn Trà đã tạo nên những nét văn hóa đa dạng và ngày càng được nâng cao. Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và sự du nhập của nhiều luồng văn hóa ngoại lai thì phong tục, tập quán nói chung và tín ngưỡng thờ cúng cá Ông cũng có nhiều sự thay đổi?

Đến các làng biển của quận Sơn Trà ngày nay, chúng ta không còn nhìn thấy những ngôi nhà nằm sát biển, không còn thấy những mẹt cá, tôm được phơi dọc ven bờ biển,... Bởi Sơn Trà đã xây dựng phát triển hạ tầng, phát triển các loại hình du lịch biển trong chiến lược phát triển kinh tế biển và tổng thể phát triển du lịch của thành phố Đà Nẵng nên một phần cư dân được bố trí định cư tại các khu chung cư. Chính những biến đổi về đời sống kinh tế và xã hội đã kéo theo sự thay đổi trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người dân. Những thay đổi về đời sống tạo cho Sơn Trà có một bộ mặt mới, khang trang và giàu đẹp hơn. Song, hi vọng rằng song song với việc phát triển kinh tế của quận thì chính quyền và nhân dân vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống lâu đời của nghề đi biển trong đó có tục thờ cúng cá Ông.

(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (Tập 1), (Huế: Thuận Hóa, 2006), 480.

(2) Trương Quốc Dụng, Thối thực ký văn (Nguyễn Lợi - Nguyễn Đổng Chi dịch và chú thích), (Hà Nội: Tân Việt, 1944), 224 - 225.

(3) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch và chú giải), Đồng Nai: Tổng hợp Đồng Nai, 2005), 237.

(4) Jean Chevalier - Alain Gheerbrant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, (Đà Nẵng: Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997), 22.

(5) Nguyễn Thanh Lợi, “Giao lưu văn hóa Việt - Chăm. Nhìn từ tục thờ cá Ông”, Văn hóa dân gian, (Số 2, 2003), 24 - 27.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trương Quốc Dụng. 1994. Thối thực ký văn (Nguyễn Lợi - Nguyễn Đổng Chi dịch và chú thích). Hà Nội: Tân Việt.
  2. Trịnh Hoài Đức. 2005. Gia Định thành thông chí (Lý Việt Dũng dịch và chú giải). Đồng Nai: Tổng hợp Đồng Nai.
  3. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam nhất thống chí (Tập 1). Huế: Thuận Hóa.
  4. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant. 1997. Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. Đà Nẵng: Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du.
  5. Nguyễn Thanh Lợi. 2003. “Giao lưu văn hóa Việt - Chăm, nhìn từ tục thờ cá Ông”. Văn hóa dân gian,

Số 2.

  1. Nguyễn Xuân Hương. 2009. Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng. Hà Nội: Tự điển Bách khoa và Viện Văn hóa xuất bản.
  2. Nguyễn Xuân Hương. 2011. Tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt ở xứ Quảng. Đà Nẵng: Đà Nẵng.

Đ.T.T

Từ khóa » đền Thờ Cá ông ở đâu