TRUYỀN THUYẾT VỀ THÁNH MẪU LIỄU HẠNH - Trải Nghiệm Sống

Vân Hương Thiên Tiên tam vị Thánh Mẫu được thờ ở Phủ Dày chính cung là Thần Hệ của Thánh Mẫu Thần Chủ (theo khái niệm tôn giáo từ phương Tây) của Đạo Mẫu Liễu Hạnh Công Chúa .

THÁNH MẪU LIỄU HẠNH

(Đệ Nhất Thiên Tiên Thánh Mẫu) còn được gọi là: Nam thiên bất tử Mẫu nghi Thiên hạ hay dân gian ta hay gọi hai từ thân thương quen thuộc là Mẫu Mẹ trong cặp từ Vua Cha Mẫu Mẹ.

Thánh Mẫu được các vị vua và triều đình phong kiến sắc phong là:

– Thiên chủ tiên đình hoặc có sắc ghi đế thích tiên đình mẫu nghi thiên hạ đồng quản sơn tinh bộ chúng (ý câu này là quản cả các thần trên sơn nhạc chứ không phải quản 36 cửa rừng sơn trang).

– Chế thắng hòa diệu đại vương tái phong Mã Vàng bồ tát

– Tái cấp gia ban đệ nhất Quỳnh Hoa Dung Liễu Hạnh Công Chúa – Mẫu nghi thiên hạ Thượng Thượng Thượng Đẳng Tối Tối Tối Linh Vạn Thế Phúc Thần.

Về truyền thuyết tương truyền, Mẫu Liễu Hạnh là Đệ Nhị Quỳnh Hoa công chúa – Con gái thứ 2 của Ngọc Hoàng (ông trời của VN, tên gọi ngọc hoàng là do ảnh hưởng đạo giáo TQ chứ hai người hoàn toàn khác nhau), có đạo hiệu là Hồng Liên Công Chúa.

Sự tích về lai lịch, hiện thân của Bà được ghi chép và lưu truyền bởi truyền thuyết 3 lần giáng sinh của Mẫu Liễu Hạnh.

Lần giáng sinh thứ nhất (1434 – 1473)

• Niên đại: Nhà Hậu Lê, năm Giáp Dần, 1434

• Tên: Phạm Tiên Nga

• Quê Quán: Ấp Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, Trấn Sơn Nam

• Cha Mẹ: Phạm Huyền Viên (Cha) và Đoàn Thị Hằng (Mẹ)

• Trước khi giáng trần tại nhân gian: là Công chúa Hồng Liên, con gái của Vua cha Ngọc Hoàng

• Ngày hóa: Về trời ngày 2 tháng 03 năm Quý Tỵ, thời Lê Thánh Tông (1473)

• Thờ tự: Phủ Đại La Tiên Từ, Xã La Ngạn, Huyện Đại An, Phủ Nghĩa Hưng, phủ Quảng Cung, thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, Ý Yên, Nam Định.

Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu 1433, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.

Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).

Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).

Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).

Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành

Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.

Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường – Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn – Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.

Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.

Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, bà đã hóa thần về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.

Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ. Đồng thời quê mẹ của bà là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.

Lần giáng sinh thứ hai (1557 – 1577)

Đây là lần mà không phải tương truyền cũng không phải gán ghép và truyền thuyết mà là việc được ghi trong lịch sử đạo Mẫu của dân tộc Việt với chứng thân thành Nam Thiên Bất Tử của Thánh Mẫu(một trong tứ bất tử Mẫu nghi thiên hạ của nước Nam ta).

• Niên đại: Nhà Hậu Lê, thời Lê Anh Tông, năm Đinh Tỵ, 1557

• Ngài sinh 15/ 8 có tên: Lê Thị Thắng, hiệu Giáng Tiên, Pháp Tự Là Liễu Hạnh .

• Quê quán: làng Tiên Hương xã Kim Thái Huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định ( xưa có tên là An Thái nay thay bằng Tiên Hương)

• Thân Phụ Thánh Mẫu Lê Thái Công Thân Mẫu Trần Thị Phúc

• Ngày Hiển Thánh của ngài 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Thế Tông (1577)

Dân gian kể lại rằng :

Khi về thiên đình ở trên Linh Tiêu, Đức Tiên Chúa vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ cha mẹ trần thế và vùng đất Nghĩa Hưng. Một lần do mất tập trung, khi Tiên Chúa đang dâng thọ tửu nhân dịp van thọ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế thì lỡ đánh rơi chén Ngọc(vâng, vụ chén ngọc tai quái hại biết bao thần trên thiên đình không mỗi Mẫu Liễu). Đức Ngọc Hoàng thất ý, liền truyền ghi tên vào sổ trích giáng trần thế. Khi đó là vào Lê Thiên Hựu đinh tỵ nguyên niên (1557).

Lần thứ hai giáng thế, bà giáng vào nhà họ Lê ngụ ở An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Vào năm 1557 tức năm Tiên chúa giáng sinh, lúc đó Lê Thái bà đã quá ngày sinh mà vẫn chưa có dấu hiệu sinh nở. Một ngày, trong dịp nửa mê nửa tỉnh vô tình linh hồn lạc lên dự tiệc trên Thiên đình thấy cảnh đấy hỏi thì được lính canh giải thích về công chúa, sau đó Lê Thái ông được báo rằng có một cô gái tên Đệ Nhị Quỳnh Nương bị Ngọc Hoàng trích giáng. Chẳng mấy lâu sau, Thái bà hạ sinh con gái. Thấy đứa con mới sinh hao hao giống với tiên nữ đó nên ông liền đặt tên Trần Lê Giáng Tiên. Tiên chúa lớn lên xinh đẹp hơn người, giỏi ngâm thơ vịnh phú, đọc sách gẩy đàn.

Còn đời thật của ngài không phải truyền thuyết dân gian thì vẫn còn được lưu lại:

Khi vừa tròn 18 tuổi, Tiên chúa được phụ mẫu cho kết duyên cùng Trần Đào Lang, sinh được một người con trai tên là Nhân, một con gái tên là Hòa. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì mà người thì vẫn hồng hào như khi sống gia đình để 3 ngày mới tổ chức mai tang.

Khi di quan tài ra cánh đồng cách nhà mấy trăm mét bỗng nhiên trời nổi vân vũ và có tiếng nói của bà Giáng Tiên truyền ra khuyên mọi người tránh ra không sét đánh chết cả bây giờ.

Khi mọi người tránh ra thì sét đánh xuống áo quan vỡ ra, thấy bà nằm đó và lúc này sét đánh càng mạnh đủ 49 luồng thì ngưng. Mọi người không thấy áo quan đâu, và cũng không thấy thân xác của Mẫu, có mấy người nhìn thấy bà bay về trời.

(Chính vì việc bay về trời này Thánh Mẫu mới là một trong Nam Thiên tứ bất tử. Bất tử ở đây có nghĩa là không chết và thân xác bay về trời như các đức Thánh tứ bất khác trong truyền thuyết: Thánh Gióng bay về trời, Thánh Chử Đồng Tử bay về trời, Thánh Tản về trời đều không chết và để lại thân xác).

Cái đáng trân quý ở đây trong sự tích của Đức Thánh Mẫu là vị Thánh không phải là truyền thuyết mà là người thật bay về trời có nhân chứng và chứng tích. Một số vị tu đạo theo đạo Giáo đương thời coi đó là ngài độ kiếp Thành Tiên.

Sự hiển linh Thành Thánh của ngài ở An Thái là một sự việc được cả Thiên hạ lúc bấy giờ biết tiếng và dân chúng kính ngưỡng đến chiêm bái nơi ngài về trời và tập trung xây đền phủ để thờ.

Sự hiển linh của Thánh Mẫu lại tiếp nối bởi khi đó ai đến chiêm bái Mẫu lấy nước ở dòng suối Cánh Gà mang vào phủ thờ Mẫu kêu cầu lễ uống đều khỏi bệnh (tục lấy nước suối cánh gà này mãi đến thời kỳ bao cấp bị chính quyền xưa ngăn cấm mới bỏ).

Và rồi những người bị ma quỷ ốp nhập bệnh âm bệnh về tinh thần hễ đến lễ Mẫu là khỏi bệnh. Nhân dân thì nô nức cầu xin đều linh ứng…

Rồi có người điên dại căn cơ sâu nặng người nhà đưa đến cầu xin phép Mẫu đều được khỏi. Sau đó họ được ốp bóng sang tai và theo vào các dòng đồng ở địa phương mình, ra trình đồng và hầu hạ nhà Thánh theo lối hầu đồng ngàn xưa của dân tộc.

(Cũng nói thêm xưa kia Thánh Mẫu chưa giáng sinh các cụ người Việt Nam ta đã thờ cúng và hầu hạ lên đồng hầu các Thánh Thượng, Thánh Thoải và các vị Thần linh Bách Việt cũng như cửa Thượng Từ Trần Triều Kiếp Bạc, trong các văn bản cổ lưu lại rất nhiều).

Bản thân làng An Thái thời đó cũng có dòng đồng của Chiêu Dung công chúa một nữ tướng Thời Hai Bà Trưng vậy lên bách gia xuống ăn mày cửa Mẫu cầu xin và giải bệnh hạn cậy sở các Ông bà đồng thông công thần linh ngay từ buổi Đầu Thánh Mẫu Vũ hóa Phi thăng là khởi phát.

Bởi đền thờ dựng tại nhà của Thánh Mẫu và việc mỗi người hầu mỗi kiểu và ứng bóng rất nhiều vị Thánh thuộc các dòng đồng khác nhau kêu cầu… rồi gây rất nhiều điều không phải, mỗi ông mỗi kiểu hầu… nên khi đó người chị dâu họ Trần (lấy anh ruột của Mẫu Liễu khi ngài giáng sinh(Họ Trần Lê) – sau này là

Quảng cung DUY TIÊN THÁNH MẪU).

Sau khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh phi thăng chứng thân bất tử, người chị dâu của Mẫu ở tại trần thế được mộng báo đã y theo lời Thánh Mẫu tổ chức thờ cúng và tập hợp các dòng đồng đã có trước đó như dòng đồng Thiên Tiên, dòng đồng thờ Thánh Thoải, dòng đồng thờ Thánh Thượng – Thanh sơn (sơn trang…)…hình thành nên thứ tự hầu đồng từ nhiều dòng đồng, nhiều giá đồng và định ra lối hầu cùng phép tắc hầu đồng và bắc ghế tu cơ sở cho con đồng nói chung như ngày nay chúng ta vẫn hầu. Đồng thời bà còn truyền bá Đạo Mẫu và phép hầu hạ tu tập này rộng rãi.

Sau này bà được phong là Đệ nhị Địa Tiên Thánh Mẫu. (Đệ nhị Vân Hương Thánh Mẫu Quỳnh Cung Duy Tiên Công Chúa), thờ trong cung cấm phủ Dày -Tiên Hương – Vụ Bản – Nam Định cùng với Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Hà Nam (Hoàng Thị Quế Anh).

Câu chuyện người cháu của Mẫu Liễu (CÔNG CHÚA QUẾ HOA) bên họ Trần Lê.

Ngài cũng là bậc Thượng đẳng Thần, một trong ba vị Vân Hương Thánh Mẫu.

Hiệu: Ngài là Vân Hương Đệ tam Thiên Tiên Thánh Mẫu quảng cung HOÀNG THỊ QUẾ ANH công chúa linh quang huyền diệu tĩnh nhu đoan khiết trai thục dực bảo trung hưng trang huy thánh cung hạ từ tôn.

Bà là cháu của Mẫu, năm lên 9 tuổi bà theo vào hầu Mẫu. Đến khi bắc ghế đến giá bà chúa Thánh Thoải bà tự dưng nói “ta biết ta là ai rồi, ta phải về với các chị của ta” và tự đi ra khỏi sập công đồng, đi xuống giếng trước cửa đền. Mọi người đi theo thấy bà ngập đến đầu thì kéo lên nhưng bà đã thác ngay lúc đó. Sau đó mọi người tổ chức đi chôn cất.

Và Bà được coi là Thánh Tổ cô họ Trần Lê.

Chính vì việc này các hủ nho đương thời bởi tức tối vì Thánh Mẫu là phụ nữ mà lại là Thần chủ một đạo mới bèn vu cho Thánh Mẫu là hung yêu tác quái, vu cho Mẫu bắt cả trẻ nhỏ.

Bên những người theo Mẫu cũng ứng phó bằng cách đặt ra tục 16 tuổi mới cho ra trình. Sau này có câu “Chấm đồng từ thủa lên ba đến khi 16 mới ra trình đồng”.

– Sự tích tại văn bia ghi lại tại phủ Giáp Ba về Hoàng Thị Quê Hoa thì ghi rõ: Bà tên là Thúc, người họ Hoàng ở xã Tây Mỗ huyện Nga Sơn (sau đổi thành Tống Sơn và nay là làng Tây Mỗ-xã Hà Thái-huyện Hà Trung), sinh vào cuối năm Đinh Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 28 tính sang dương lịch là ngày 9 tháng 2 năm 1768.

Từ lúc sinh ra đã có nhiều kỳ lạ, đặc biệt thời nhỏ có khả năng dự báo được mưa nắng và một số điềm lành dữ rất tốt. Người ở xung quanh biết bà không phải là người bình thường. Năm 16 tuổi (năm Nhâm Dần, tức năm 1782), bà được gả cho ông Mai Nho Bàng ở xã Thạch giản tổng Thạch giản cùng huyện.

Bà về làm dâu một thời gian thì nói với chồng rằng mình biết kiếp trước là người huyện Thiên Bản và yêu cầu ông chuyển về đó sinh sống. Chiều vợ ông họ Mai mới cùng vợ tìm về Thiên Bản và ông bà mua đất và xây nhà ở Bảo Ngũ huyện Thiên Bản trấn Sơn Nam (Giáp Ba – tỉnh Nam Định ngày nay), ông bà cùng tới đó sinh sống.

Từ xã Bảo Ngũ, bà thường tới nơi thờ Đệ nhất Thánh Mẫu ở Tiên Hương. Cùng chồng mình, bà đi khắp nơi xây sửa đền phủ, truyền đạo, dậy đồng mở phủ giúp đỡ dân nghèo… bà cũng kể cho chồng kiếp trước mình là cháu gái của Thánh Mẫu và mất năm 9 tuổi, là vị thứ ba được thờ trong phủ Dầy.

Đến năm 33 tuổi, tức năm Kỷ Mùi (1799), vào ngày ba tháng ba âm lịch, sau khi khăn áo chỉnh tề bà mật báo cho thị nữ biết mình là Hoàng Thị Quế Hoa tiên nữ đệ tam ở thiên cung (nguyên văn là “Thiên cung đệ tam tiên muội Hoàng Thị Quế Hoa”), đến ngày chín tháng ba thì sẽ về trời.

Đúng như lời, tới ngày chín tháng ba (nếu tính sang dương lịch thì là ngày 13 tháng 4 năm 1799), bà chỉnh tề khăn áo rồi vào trong quan tài mà từ từ nằm xuống, bảo con đồng theo hầu đóng áo quan lại. Cứ thế mà hóa.

Đạo sĩ các nơi nghe chuyện liền đổ tới vái lễ. Ngày đưa đám, các con đồng cả nước về đưa tang, thiên tượng cũng khác lạ: gió cuốn sạch bụi, mưa tuôn quyét đường, mây hồng chè huyệt mộ, chim én bay lượn các loại chim ca hót đầy trời. Nhân dân biết đó là dấu hiệu của tiên Thánh về trời quan sở tại thì cho nha lại, soạn thành sự tích giao về cho nguyên quán, rồi lập đền thờ phụng, linh ứng rõ ràng. Dân chúng trong làng Tây Mỗ từ đó thờ bà với tên Đệ tam tiên nữ có tên hiệu là Hoàng Thị Quế Hoa. Người ta kêu cầu gì với tiên nữ, đều được ứng nguyện.

Còn ở Thiên Bản và các nơi khác đều gọi là Vân Hương Đệ Tam Quế Anh Công Chúa

Trong phủ Giáp Ba trước có nhiều bia của tri phủ và tổng đốc ghi lại sự tích này.

Bề mặt văn bia và các tích lục của họ Trần Thiên bản thì đều xác nhận là Vân hương Đệ Tam Quế Anh công chúa.

Hai vị Thánh Mẫu Đệ nhị Đệ Tam Thị tòng Mẫu Đều có Sắc phong Thượng Đẳng Tối Linh Thần còn dân gian thì có đánh đồng là Chầu Quỳnh Quế Thị Tòng của Mẫu.

– Trong quá trình truyền giáo, mở mang đền phủ thờ Thánh khắp cả nước, Đệ Tam Vân Hương Thánh Mẫu Hoàng Thị Quế Anh là người có công truyền Đạo Thánh Mẫu về phương Nam theo chân Nguyễn tộc. Nhưng do điều kiện chính trị thời bấy giờ và cũng là do dân tộc Chiêm thành phương Nam theo đạo bà-la-môn nên những người đồng nhân sơn nam đệ tử của bà theo lệnh bà đi mở đạo đó có dung hòa giao thoa kết hợp với yếu tố bản địa tôn phụng đức Thiên Y A Na hay còn gọi tên khác là Thánh Mẫu Chúa Ngọc, mà nguyên gốc theo bà la môn giáo gọi là Ũma hay nữ thần Poh Yang Inư Nagar (hay Po Ino Nogor). Sau này Thánh Mẫu Thiên Y A Na dung hòa vào đạo Thánh Mẫu được các triều đình sắc phong như những vị Thánh Đạo Mẫu và ban danh là chúa xứ Thánh Mẫu, là có yếu tố đạo bà-la-môn của bản địa phương Nam.

Sau này những vị vua nhà Nguyễn mộ đạo nhập Đạo Mẫu (Vua nhà Nguyễn phong là Thiên Tiên Thánh giáo) cũng cải chính lại cho có kim chỉ nam về Đức thần chủ Thánh Mẫu Liễu hạnh và Chư Thánh Đạo Mẫu nguyên gốc.

Bởi tình hình thời bấy giờ ảnh hưởng tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo và sự cản trở của triều đình nên Đạo Mẫu cũng bị cấm truyền bá nhiều. Nhưng dân thì vẫn tín Mẫu và vẫn nương nhờ vào sự gia hộ anh linh quyền phép của Mẫu lên đạo càng phát triển mạnh cho đến lúc Hủ nho quan lại triều đình phong kiến không cản nổi.

Sau khi Mẫu Vũ Hóa Thăng Thiên bao nhiêu năm do không ngăn cấm được việc dân gian Thờ Mẫu là Thần chủ và theo vào làm con nhang đệ tử nhà Mẫu thì các bậc hủ nho quan lại cùng triều đình đều chấp thuận ủng hộ và bỏ tiền xây dựng Phủ Mẫu.

Phủ dầy khi xưa mới được xây dựng gọi là Tiên Phủ ngõa Từ sau khi đến đời Chính Hòa nhà Lê cấp tiền xây dựng và gia Phong Mẫu nghi Thiên Hạ vào năm 1683 ngày 24/6 nhuận Thì được gọi là Phủ Tiên Hương hay tên gọi dân giã là phủ dầy hay phủ chính.

Sắc phong năm 1683 vẫn được lưu họ Trần Lê tại Phủ Nội Tiên Đình nơi đó xưa là nội từ do Người Anh cả của Mẫu thờ phụng các vị Thân Sinh ra Mẫu.

Đến năm 1912 Cụ Đoàn Triển Tổng đốc Nam định cho hưng công xây dựng lại vẫn để kết cấu cột Vuông trong phủ như cũ để Thể Hiện mẫu là Thần chủ Của Thiên Địa chủ quản địa tiên.

Ngài vừa là Thánh vừa Thần vừa là Tiên sau này còn được Phong mã vàng Bồ Tát ngài còn hiện thán Là Phật .

Cũng có một số bạn trẻ không hiểu lịch sử hay hỏi tại sao Mẫu có lăng mộ mà lại gọi là bất tử?

Việc này do thời Nguyễn trước kia: Bởi người Việt ta có quan niệm “Sống về mồ mả không sống cả bát cơm” nên các cụ xưa làm ngôi mộ gió ở chỗ Thánh Mẫu về trời để thờ tự. Sau này đến đời vua nhà Nguyễn để báo ơn Mẫu đã phò trợ cho mấy đời vua Nguyễn và đặc biệt việc vợ chồng vua Bảo Đại cầu tự cửa Mẫu sinh được hoàng tử mới cho người xây ngôi mộ gió đó thành lăng để đền ơn với Mẫu.

Quan niệm về lần giáng sinh thứ ba (1579)

Theo truyền thuyết thì thế này:

Đức Tiên Chúa về trời, lòng vẫn lấy sự trần chưa duyên mãn mà áy náy khôn nguôn, luôn sầu ủ mày xuân, châu chan nét ngọc khiến các vị Quần Tiên không khỏi thương cảm, liền tâu với Ngọc Hoàng. Đức Thượng Đế thấy vậy, ban sắc phong “Liễu Hạnh công chúa” cho phép trắc giáng phi thường để tự diêu tự thích khỏi nỗi u sầu. Lúc bấy giờ là năm Kỷ Mão niên hiệu Quang hưng nhị niên triều vua Lê Thế Tôn (1579). Bà khi ẩn khi hiện về thăm quê hương 2 lần rồi ngao du thiên hạ, tiêu diêu bông đảo rồi giáng hiện tại Nga Sơn, Thanh Hóa vào năm 1609 để tái hợp cùng Mai Sinh – hậu kiếp của Trần Đào Lang.

Được hơn một năm thì Tiên Chúa phụng mệnh mãn hạn về trời. Lúc này là vào năm Canh Tuất, niên hiệu Hoàng Định thập nhứt niên triều vua Lê Kính Tông tức năm 1610. !…

Sau khi đầu thai xuống hạ giới đủ 3 lần, Mẫu Liễu Hạnh ở lại Thiên cung mà trong lòng bà vẫn canh cánh nỗi nhớ với nơi trần thế. Hiểu được nỗi lòng của con gái, Ngọc Hoàng cho phép bà hạ thế bất thường lần nữa để hóa phép giúp đời, miễn vòng sinh tử luân hồi. Lần này bà xuất hiện dưới hình hài của một tiên nữ, đi cùng hai tiểu tiên Quỳnh Hoa, Quế Hoa, hiện xuống giữa ban ngày ở vùng Phố Cát, tỉnh Thanh Hóa. Ba nàng tiên liền lập chỗ trú ngụ và dùng nhiều loại phép tiên huyền ảo giúp vua giúp dân.

Theo truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh, nàng đi khắp nơi để cứu nhân độ thế, trừng trị kẻ ác và sau này đắc đạo thành Bồ Tát hiển Phật thánh linh thần (vụ đại chiến Sòng Sơn).

Ngài biến hiện bất thường, khi là người đàn bà ngâm thơ dưới trăng, khi hóa hình bào lão chống gậy bên đường. Ngài lại qua Lạng Sơn, thấy chùa Thiên Minh là một danh lam thắng cảnh, liền trụ trì ở đấy. Một lần Phùng Khắc Khoan tức Trạng Bùng, đỗ Trạng Nguyên dưới triều Lê, đi sứ sang Tàu về ngang, Ngài hóa thành người con gái họa thơ thách đố, Trạng Bùng rất khâm phục, nhưng chưa kịp hỏi lai lịch thì Ngài biến mất.

Về sau, Ngài lại xuất hiện ở Tây Hồ và các nơi danh lam thắng cảnh trên đất Bắc và Trung như Sầm Sơn, Phố Cát… Có lần Ngài xuất hiện ở Hồ Tây trong vóc hình một thiếu nữ có tên Quỳnh Tiên, cùng xướng họa thơ với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, cử nhân họ Ngô, và Tú Tài họ Lý, làm cho ba người vô cùng kính phục. Những lời xướng họa này Phan Kế Bính có bản dịch trong Việt Hán Văn Khảo.

Ngài từ giã cảnh Tây Hồ, qua chơi Sóc Hương, tỉnh Nghệ An, Hoàng Sơn, cùng là Khoa Lãnh, Thủy Khê. Qua Phố Cát, tỉnh Thanh Hóa, thấy có cây xanh tốt, Ngài hiển linh, dân chúng kinh sợ lập đền thờ. Lúc ấy vào khoảng triều vua Lê Hiến Tông, vua cho là yêu quái, sắc mệnh cho đạo sĩ pháp sư tiểu trừ, rồi đốt phá cả đền miếu. Không bao lâu trong vùng bị ôn dịch làm chết trâu bò, dân trong thôn lập đàn cầu đảo, có người bổng nhảy lên đàn hát bảo triều đình sửa lại đền miếu hương đăng phụng sự thì sẽ được tha.

Dân thôn nghe lời cử hương lão trong làng tới kêu vua. Vua cho sửa lại miếy đền, sắc phong Ngài là “Mã Hoàng Công Chúa”. Nhân dân địa phương có việc cầu nguyện đều được linh ứng, mỗi lần vua đem quân đi đánh giặc, Ngài cũng âm phò thắng trận. Triều đình gia tặng Ngài là “Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương”.

Rồi sự tích ngài phò trợ bầy kế cho Vua Quang Trung đánh quân Thanh Và phát cháo cho binh lính…. ở đền Quán Cháo Ninh Bình….. nói chung rất nhiều sự tích ngài âm phù hộ quốc.

Ngài đã được các triều đại nhà Lê, rồi Tây Sơn, đến nhà Nguyễn sắc phong.

Sắc phong Vua Quang Trung phong cho Thánh Mẫu là Thiên Chủ Tiên Đình Mẫu nghi Thiên Hạ ….. Thượng Thượng Thượng Đẳng Tối Linh Thần.

Một số sắc phong sau cũng phong cho cả họ Trần Lê, ví như sắc phong của vua Khải Định năm thứ hai Đinh Tỵ 1917:

“ Ban cho họ Trần Lê xã Tiên Hương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định phụng thờ Đế Thích Tiên Đình công chúa Liễu Hạnh, Ngọc Nữ , vị tôn thần giúp nước cứu dân, sáng tỏ đức thiêng. Nay vâng tỏ rõ ơn thần vận lớn, phong làm Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng đẳng thần, chuẩn y cho thờ phụng, ngõ hầu giúp đỡ dân ta lâu dài. Kính vậy thay!”

Thánh Mẫu Liễu Hạnh của Việt Nam khi ngài giáng sinh, sau đó phi thăng chứng thân bất tử, đã từng được sắc phong Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Mã Vàng Thánh Mẫu Thượng Thượng Thượng đẳng tối linh thần, có sắc còn phong là Quản Trưởng quản sơn tinh sơn lâm bộ chúng …

Mấu quyền phép anh linh hộ quốc ta khỏi lạm bàn vì nhiều đời vua các triều đình phong kiến đều gia phong, miền ngược miền xuôi bắc trung nam đền chùa đều thờ Ngài.

Việc truyền thuyết thêm ra bớt vào cũng bởi thời cuộc nhưng thực ra là dân gian truyền thuyết.

Các truyền thuyết về Đồi Ngang phố Cát… đều được dòng họ Trần Lê tại Tiên Hương ghi lại cẩn thận.

Mẫu Liễu Hạnh là bậc anh linh có câu truyện khi ra sắc phong thời vua Quang Trung còn được kể lại

Khi triều đình vua Quang Trung sắc phong cho Thánh Mẫu, Trạng Nguyên Trần Văn Kỷ có bàn tâu lên khi một số người và quan lại phản bác ban sắc cho Thánh Mẫu ba chữ Thuọng Thượng Thượng Đẳng quan lớn Trần Văn Kỷ tâu bàn lời lẽ như sau :

“Công chúa Liễu Hạnh là bậc Thiên Tiên chứng Thánh Quả, ta bàn theo kiểu nói của đạo giáo ngài độ kiếp chịu được thử thách của thiên quy đã được trời đất và tạo hóa công nhận. Trong các sắc phong của Vua chúa và triều đình cũ đều viết ngài là tinh hoa của đất trời Nam ta kết tinh mà giáng sinh vào họ Lê.

Với sự anh linh muôn phần đã chứng quả vị Thánh đạo chứng thân bất tử mà về trời khiến ngay người theo đạo Giáo họ còn ngưỡng vọng. Bởi tất cả các vị Thánh nhân phương bắc hay đất Nam cổ đại đều chỉ là truyền thuyết đâu có ai độ kiếp phi thăng người thật việc thật.

Thượng cổ xưa nay cũng nhiều vị Thần Thánh được thờ cũng vẫn phải trút lại xác phàm tại thế gian. Thần lại bàn tâu lên vương thượng đặc biệt dân Bắc Hà đều nghe nói Thánh Mẫu đã phù trợ vương thượng đại thắng Quân hung bạo. Vậy nên ta cứ cao nhất mà viết sắc để tỏ lòng với Thần… cùng tỏ sự anh minh của Vương Thượng.”

Khi đó triều đình thống nhất ban ra sắc phong: Mẫu được phong ngôi cao nhất “Thiên chủ Tiên đình Mẫu Nghi Thiên Hạ” cũng không có gì là lạ.

Chú thích: PHỦ DÀY

Phủ Dầy hay còn gọi là Phủ Chính có ý nghĩa là “đền lớn, đền chính ở làng Kẻ Dầy”. Tên chữ là Phủ Tiên Hương.

Năm 1557 triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy mới lấy tên chữ là xã An Thái, chia làm bốn thôn: Vì hai quan đỗ tiến sĩ cùng xã An Thái bất bình với nhau về chức Tiên chỉ, không ai nhường ai nên dân sở tại xin chia xã An Thái làm hai xã nhỏ: một xã lấy tên là Tiên Hương và một xã là Vân Cát, cách nhau 2 km. Và bên Vân cát vị quan mới xây phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh riêng sau này là phủ Vân để thờ vọng .

Năm 1861 (Tự Đức thứ 12) xã An Thái mới chính thức đổi tên là xã Tiên Hương.

Phủ Tiên Hương được xây dựng quy mô như bây giờ từ thời Lê – Cảnh Trị (1663 – 1671) hưng công lại do tổng đốc Nam Định Đoàn Triển xây năm 1912.

Hiện nay, xã Tiên Hương được đổi tên là xã Kim Thái.

Phủ trước không Thờ Ngọc Hoàng mà chỉ thờ Tam vị Vân Hương Thiên Tiên Thánh Mẫu (tích ở trên) phối thờ công đồng tứ phủ.

Sau này đến những năm 90 mới thờ tượng vua cha Ngọc Hoàng vào công đồng..

Trong Tâm thức từ xua của nhân dân nói trung và đồng nhân nói riêng đều kính Mẫu ngài là bậc chúa tể cai quản Thiên Phủ và Địa phủ quản luôn sơn tinh bộ chúng là bậc Anh linh đại diện cho tinh hoa đất Việt ngưng tụ mà Thành .

Sắc Phong của các triều đại rất rõ đã nói lên rằng ngài là bậc Thần chủ tối cao của Thần Đạo việt của non sông việt Bậc Mẫu nghi Thiên Hạ người Mẹ trung của muôn dân.

Ngay cả từ xưa sau khi Mẫu Được muôn dân thờ cúng và được các triều đình sắc Phong thì gần như các dòng đồng thờ các vị Thánh Thiên Thượng địa Thoải đều được ứng báo Thánh mình thờ theo thị tòng Thần chủ Là Mẫu Liễu .

Nói trung sự Anh linh Và ngôi Thần chủ của Đạo Mẫu thời bấy giờ được thông suốt từ Vua chúa cho đến chốn dân gian.

Trong họ Trần Lê vẫn lưu giữ Hương hỏa lăng mộ của cái vị Thánh thuộc Thần hệ Vân Hương cho đến ngày nay.

Trận giao chiến trên Đèo Ngang

Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.

Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ

Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện “Vân Cát thần nữ” ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.[3]

Theo “Nam Hải Dị Nhân” của Phan Kế Bính thì Tiên Chúa vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.

Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 – Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử. (Cụm từ “tam mộc sâm” 三木森 chỉ ba 三 chữ mộc木 (cây; gỗ) hợp lại thành chữ sâm 森 (cây cối rậm rạp; đông đúc) và cụm từ “hảo… nữ tử ” 好… 女子 chỉ chữ nữ 女 (đàn bà, con gái) hợp với chữ tử 子 (con) thành chữ hảo 好 (tốt, đẹp, hay).

Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 – Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân. (Cụm từ “trùng sơn xuất ” 重山出 chỉ hai 重 chữ sơn 山 (núi) chồng lên nhau thành chữ xuất 出

ra; đi ra) và cụm từ “sứ… lại nhân”使…吏人 chỉ chữ lại 吏 (làm việc quan) hợp với chữ nhân 人 (người) thành chữ sứ 使 (người được vua hay chính phủ phái đi làm việc gì).

Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人凴一几,莫非仙女臨凡 – Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm. (Cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.

Cô gái đáp ngay: 文子帶長巾必是學生視帳 – Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng. (Ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈

學). Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳).

Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ: 卯口公主- Mão khẩu công chúa) và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ: 冫馬已走 – Băng mã dĩ tẩu. Nghĩa là: Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa. Còn bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này. Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.

Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai)

Đại chiến Sòng Sơn

(Câu chuyện cho thấy mối quan hệ xung đột, liên kết giữa đạo giáo, đạo Phật và đạo Mẫu bản địa của VN)

Nội Đạo Tràng (tượng trưng cho đạo giáo ở VN): Lê triều khi mới Trung hưng, việc binh đao vừa yên, tà yêu quỷ quái nổi lên nhiều, dân gian rất khổ sở. Tại làng An Đông, huyện Quảng Xương, có người tên là Trần Lộc, vốn làm nghề phù thủy. Một hôm đi qua núi Na, nhân đương ngày hè nắng dữ, Trần Lộc ngồi nghỉ ở dưới núi, bỗng ở trên đỉnh núi, giữa khoảng rừng cây rậm rạp, có một ông già đầu bạc phơ, đương đứng ngó xuống mà vẫy. Trần Lộc xắn áo đi lên, giữa trưa thì lên đến đỉnh núi, phục xuống làm lễ bái yết. Ông già vỗ về rằng:

– Nhà ngươi là người thành thực, đôn hậu, Thượng đế khen ngợi, sai ta trao cho những bí quyết.

Bèn ghé vào tai mà bảo cho và nói:

– Đó là những phép Phật thượng không. Nhà ngươi nên siêng năng làm việc tế độ, tòa sen sẽ chẳng xa gì.

Nói xong thì không thấy đâu cả. Trần Lộc trông lên trên không mà bái tạ. Rồi đem những phép ấy ra thử dùng thì đều linh nghiệm. Từ đấy nổi tiếng về nghề phù lục. Người ta gọi Trần là Phật Tổ Như Lai, hai con là Tả Hữu Tôn Thánh, người đồ đệ giỏi nhất (có dị bản là con trai thứ ba) là Tiền Quan Tôn Thánh, còn những người khác là Bồ Tát, Kim Cương, Minh Sư, Thượng, Trung, Hạ Thặng v.v… Nghe núi Mỏ Diều có một con yêu, thường làm tai nạn cho những khách qua đường, bèn đến để trị. Con yêu vận mặc lối cung trang, giữ trên đầu núi, cùng Tổ sư chống cự ba ngày không phân thua được. Tổ sư tức lắm, phóng một cái quyết lật đổ núi. Yêu hóa làm con quạ bay vút lên giời. Tổ sư lại phóng mấy cái quyết trúng vào mình nó, nó phải sa xuống đất mà chết.

Mười hai cửa bể ở miền tây nam, mỗi cửa đều có một thần sóng, thường làm cho nước bốc cao lên như núi, chốc lát lại tan đi. Thuyền bè gặp phải, không tài nào sống sót được. Tổ sư sai đồ đệ đi bắn, trừ được chín, còn sót lại ba. Xảy có việc phải đi coi nom ở Sùng Sơn nên không trừ nốt được.

Bấy giờ vua Thần Tông mắc một bệnh lạ. Có người bảo là cái nhân quả tái thế của vua Lý Thần Tông (xem Lĩnh Nam chích quái). Trong triều ngoài dã đều lo ngại. Đại nguyên súy Thanh Vương tính kế, xin vua nhường ngôi cho Thái tử, xưng Thái thượng hoàng, ở cung riêng để dưỡng bệnh. Trải dùng bùa, thuốc trong mấy năm, không chút hiệu nghiệm gì cả. Nghe tiếng Tổ sư, triều đình sai trung sứ đến vời. Tổ sư nghĩ vì cái yêu khí ở vùng tây nam mới yên, chưa dám rời mà đi vội, cử đồ đệ là Pháp bộ Kim cương đi thay; đấm vào ngực mà niệm chú. Hơn một tháng, Thượng hoàng khỏi bệnh, trở lại ngôi rồng, truyền xuống dựng đền thờ Nội đạo để tinh biểu. Kim cương trở về; đường qua làng Bố Vệ. Giữa khi người làng đương làm lễ tế thần, Kim cương đứng đái ở trước đình, bị mấy người trẻ tuổi trong làng tức giận trói lại. Kim cương nói mãi mới được tha ra, bèn bắt một cái quyết trói, rồi đi. Lập tức già trẻ trong đình, ai nấy hai tay chập vào nhau mà ngồi dựa cột, chỗ năm người, chỗ ba người,muốn giằng ra cũng không được. Cả làng đều kinh ngạc. Có người nói vừa nãy có một vị thuật sĩ vô lễ, người làng trói rồi tha ra, hay là hắn phản chăng? Cho người đi tìm thì chẳng thấy đâu cả. Việc đến tai triều đình, vua nói:

– Đó là Pháp bộ Kim cương đấy.

Hỏi đến Tổ sư. Tổ sư sợ, trách mắng Kim Cương, rồi bao nhiêu bài quyết đã trao cho, đều thu lại hết, chỉ còn những bài quyết thỉnh Phật và trừ tà là còn để lưu hành ở đời.

Đụng độ

Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.

Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả “yêu nữ” ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô, với lực lượng chủ chốt chiếm trọng điểm trong này là phái Nội Đạo Tràng (nổi bật trong đó có Tiền Quân Thánh, vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba/dị bản là đồ đệ của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.

Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.

Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.

Giữa lúc ấy Phật tổ (theo một số dị bản thì là Quan Âm Bồ Tát) xuất hiện giải cứu cho Tiên Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.

Theo: Maybe You Missed This F***king News

Post Views: 895

Từ khóa » Bồ Tát Liễu Hạnh