Ví Dụ Con đường Biện Chứng Của Sự Nhận Thức Chân Lý
Có thể bạn quan tâm
Nội dung chính Show
- Các giai đoạn của quá trình nhận thức
- – Nhận thức cảm tính
- – Nhận thức lý tính
- Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức
- I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
- 1. Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính, đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.
- 2. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.
- 3. Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính).
- II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
- Bài cùng chủ đề:
- Video liên quan
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Như vậy, nhận thức là sự phản ánh thế giới được thực hiện trên cơ sở thực tiễn và con đường biện chứng của nhận thức gồm hai giai đoạn kế tiếp, bổ sung cho nhau.
Bạn đang xem: Con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Các giai đoạn của quá trình nhận thức
Nhận thức cảm tínhCảm giácTri giácBiểu tượngNhận thức lý tínhSuy luận– Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là gì?Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Những thành phần của nhận thức cảm tính+) Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các giác quan của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+) Tri giác là sự tổng hợp (sự phối hợp, bổ sung lẫn nhau) của nhiều cảm giác riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+) Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người. Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm tính. Trong biểu tượng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng chưa nắm được sự chuyển hoá từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận thức “bề ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực quan sinh động chưa đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện tượng; các nấc thang khác nhau của giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện tượng.
– Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là gì?Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ những lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức.
Những thành phần của nhận thức lý tính+) Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan khi phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và chung nhất của sự vật, hiện tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức. Các thông tin, tài liệu đó càng nhiều, càng đa dạng thì các khái niệm cũng ngày một nhiều và giữa chúng có các mối liên hệ qua lại với nhau trong sự vận động, phát triển không ngừng dẫn đến sự hình thành những khái niệm mới, phản ánh sâu sắc hơn về bản chất của sự vật, hiện tượng.
+) Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan. Có ba loại phán đoán cơ bản là phán đoán đơn nhất; phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến, trong đó phán đoán phổ biến là hình thức diễn đạt tương đối đầy đủ các quy luật.
+) Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề (suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới). Suy luận có vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. Có thể nói rằng, đa số các ngành khoa học được xây dựng trên hệ thống suy luận và nhờ đó, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn hiện thực khách quan. Tuỳ thuộc vào tính chất của mối liên hệ giữa các phán đoán tiên đề với phán đoán kết luận mà suy luận có thể là suy luận quy nạp hoặc suy luận diễn dịch. Trong các suy luận quy nạp, tư duy vận động từ cái đơn nhất đến cái chung, cái phổ biến; trong các suy luận diễn dịch tư duy đi từ cái chung đến cái ít chung hơn và đến cái đơn nhất. Cũng như khái niệm và phán đoán, các loại suy luận đều biến đổi, có liên hệ qua lại với nhau theo tiến trình phát triển của nhận thức.
Xem thêm: Cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế 1929 Đến 1933 Và Hậu Quả Của Nó ? Đề Thi Đáp Án Sử 11
Kết quả của nhận thức trong giai đoạn tư duy trừu tượng là nhờ phương pháp trừu tượng và khái quát hoá các thông tin, tài liệu do trực quan sinh động và tư duy trừu tượng các thế hệ trước để lại, tư duy trừu tượng phản ánh hiện thực sâu sắc hơn; phản ánh được những thuộc tính và mối quan hệ bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng.
Sự phân chia quá trình nhận thức như trên chỉ là sự trừu tượng quá trình vận động của nhận thức; còn trên thực tế, nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và các nấc thang của chúng luôn đan xen nhau và thực tiễn là cơ sở của toàn bộ quá trình nhận thức đó.
Mối quan hệ biện chứng giữa hai giai đoạn nhận thức
– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn của một quá trình nhận thức. Tuy có những sự khác biệt về mức độ phản ánh hiện thực khách quan, nhưng giữa hai quá trình đó có sự liên hệ, tác động qua lại. Trên thực tế, nhận thức lý tính không thể thực hiện nếu thiếu tài liệu do nhận thức cảm tính mang lại. Nhận thức cảm tính là cơ sở tất yếu của tư duy trừu tượng và ngược lại, nhận thức lý tính sẽ làm cho nhận thức cảm tính sâu sắc và chính xác hơn.
– Mỗi kết quả của nhận thức, mỗi nấc thang mà con người đạt được trong nhận thức thế giới khách quan đều là kết quả của cả trực quan sinh động và tư duy trừu tượng được thực hiện trên cơ sở thực tiễn, do thực tiễn quy định. Trong đó, trực quan sinh động là điểm khởi đầu, tư duy trừu tượng tổng hợp những tri thức của trực quan sinh động thành các kết quả của nhận thức và thực tiễn là nơi kiểm nghiệm tính chân thực của các kết quả của nhận thức đó. Đó chính là con đường biện chứng của nhận thức.
– Mỗi giai đoạn nhận thức có những nét đặc trưng riêng. Nhận thức ở giai đoạn cảm tính gắn liền với thực tiễn, gắn liền với sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức lên các giác quan của chủ thể nhận thức. Nhận thức ở giai đoạn lý tính đã thoát khỏi sự tác động trực tiếp của khách thể nhận thức để có thể bao quát sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, nhận thức ở giai đoạn này nhất thiết phải được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh nhằm tránh nguy cơ trở thành ảo tưởng, viển vông, không thực tế. Đó là thực chất của mệnh đề “từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”.
– Mỗi chu trình nhận thức đều phải đi từ thực tiễn đến trực quan sinh động rồi đến tư duy trừu tượng rồi đến thực tiễn. Trong đó, thực tiễn giữ vai trò là điểm bắt đầu và khâu kết thúc của chu trình đó. Nhưng sự kết thúc chu trình nhận thức này lại là sự khởi đầu của chu trình nhận thức mới ở mức độ cao hơn, rộng hơn chu trình cũ và cứ thế vận động mãi làm cho nhận thức của con người ngày càng sâu hơn, nắm được bản chất và quy luật của thế giới khách quan, phục vụ cho hoạt động biến đổi thế giới.
– Trên con đường nhận thức đó, cứ mỗi lần mâu thuẫn trong nhận thức được giải quyết thì lại xuất hiện mâu thuẫn mới. Mỗi lần giải quyết mâu thuẫn của nhận thức là một lần nhận thức được nâng lên trình độ mới, chính xác hơn. Quá trình giải quyết mâu thuẫn của nhận thức cũng là quá trình loại bỏ dần những nhận thức sai lầm đã phạm phải. Kết quả của quá trình đó là hình ảnh chủ quan được tạo ra ngày càng có tính bản chất, có nội dung khách quan hơn và cụ thể hơn. Trong quá trình đó không ngừng nảy sinh, vận động và giải quyết các mâu thuẫn của nhận thức để tạo ra các khái niệm, phạm trù, quy luật nhằm phản ánh đúng bản chất của thế giới vật chất đang vận động, chuyển hoá và phát triển không ngừng.
Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn, mà là một quá trình biện chứng.
Như Lênin đã chỉ ra: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Con đường biện chứng của quá trình nhận thức gồm hai khâu sau:
I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
1. Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính, đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.
Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giức và biểu tượng.
* Cảm giác:
– Đây là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết của con người.
Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Các giác quan đó là thị giác (mắt), thính giác (tai), vị giác (lưỡi), khứu giác (mũi), xúc giác (tay, chân tiếp xúc với sự vật…).
– Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác, như cảm giác về màu đỏ, tiếng nhạc, vị chát, mùi thơm, nước nóng…
Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ta có thể công thức hóa về cảm giác như sau:
+ Cảm giác A = Hình ảnh A mắt nhìn thấy.
+ Cảm giác B = Âm thanh B tai nghe thấy.
+ Cảm giác C = Vị giác C lưỡi nhận thấy.
+ Cảm giác D = Mùi hương D mũi nhận thấy.
+ Cảm giác E = Nhiệt độ hoặc mức độ thô ráp E của đồ vật khi tay sờ vào cảm thấy.
* Tri giác:
Đây là hình thức tổng hợp nhiều cảm giác để đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn về sự vật.
Tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác, là sự kết hợp các cảm giác. So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính; nó đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Ta có thể công thức hóa về tri giác như sau:
+ Tri giác 1 = Cảm giác A + Cảm giác B + Cảm giác C + Cảm giác D + …
+ Tri giác 2 = Cảm giác A’ + Cảm giác B’ + Cảm giác C’ + Cảm giác D’ + …
* Biểu tượng:
– Đây là hình ảnh của sự vật được con người giữ lại trong trí nhớ.
Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước mắt. Đó chính là biểu tượng.
– Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ con người.
Ta có thể công thức hóa về biểu tượng như sau:
Biểu tượng = Tri giác 1 + Tri giác 2 + Cảm giác X + Cảm giác Y +…
Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng.
Ở sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo của con người. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.
– Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm tính, song đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính.
Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính còn gọi là tư duy trừu tượng.
2. Tư duy trừu tượng là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.
– Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế. Bởi vì con người không thể chỉ với cảm giác, tri giác mà hiểu được những cái như độc lập, tự do, hạnh phúc, tốc độ ánh sáng, hình thái kinh tế – xã hội…
Muốn hiểu được những cái phức tạp như vậy cần phải có sức mạnh của tư duy trừu tượng. Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.
– Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy.
Tư duy có tính năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa…
– Tư duy trừu tượng, hay nhận thức lý tính, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý:
* Khái niệm:
+ Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, hiện tượng nào đó, chẳng hạn cá khái niệm “xe máy”, “nhà hát”, “thể thao”, “giai cấp”…
+ Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học.
Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.
+ Khái niệm có tính chất khách quan bởi chũng phản ánh những mối liên hệ, những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Vì vậy, khi vận dụng khái niệm, ta phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm một cách chủ quan, tùy tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện.
+ Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến mà luôn vận động, phát triển. Bởi vì hiện thực khách quan luôn vận động và phát triển nên khái niệm phản ánh hiện thực đó cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hóa lẫn nhau, linh hoạt, năng động.
Do đó, ta phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của các khái niệm khi vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm, phải bổ sung những nội dung mới cho các khái niệm đã có, thay thế các khái niệm cũ bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới.
* Phán đoán:
+ Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.
+ Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng số đơn giản những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
+ Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy tắc văn phạm nhất định.
* Suy lý:
+ Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.
Ví dụ: Ta có 2 phán đoán làm tiền đề:
- “Giấy rất dễ cháy”.
- “Sách làm từ giấy”.
Từ 2 phán đoán trên, ta đi đến phán đoán mới: “Sách rất dễ cháy”.
+ Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm, thì suy lý là sự liên hệ giữa các phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách gián tiếp.
Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý. Nhờ có suy lý, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực khách quan.
+ Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan, quá trình suy lý phải xuất phát từ những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc lô-gic. Do đó, nếu ta có những tiền đề đúng và ta vận dụng một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những tiền đề ấy thì kết quả phù hợp với hiện thực.
3. Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính).
– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan.
Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật. Còn tư duy trừu tượng là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát.
Trực quan sinh động mang lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật. Còn tư duy trừu tượng phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu của sự vật. Do đó, tư duy trừu tượng phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.
Chúng cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ thần kinh của con người và điều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội.
– Trực quan sinh động là cơ sở của tư duy trừu tượng. Không có trực quan sinh động thì không có tư duy trừu tượng. Trái lại, trực quan sinh động mà không có tư duy trừu tượng thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.
Vì vậy, cần phải phát triển trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng; tư duy trừu tượng sẽ giúp trực quan sinh động trở nên chính xác. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong quá trình nhận thức.
– Một hình thức đặc biệt của nhận thức là trực giác.
Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận lô-gic trước.
Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên, bất ngờ, tính trực tiếp và tính không ý thức được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa nó không dựa gì trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu biết được tích lũy từ trước.
Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác được môi giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh nghiệm của quá khứ.
Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với những quy luật hoạt động của lô-gic. Trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý thức. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng nhiều thao tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau.
Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học một cách nghiêm túc.
II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
– Nhận thức đến trình độ tư duy trừu tượng rồi thi ta phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra. Chỉ có qua thực tiễn ta mới có thể xác định được nhận thức đó là đúng đắn hay sai lầm.
Mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải tạo thế giới. Đến lượt mình, hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
– Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một chu trình biện chứng của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn, một chu trình nhận thức mới lại bắt đầu và cứ thế mãi mãi.
8910X.com
Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!
Bài cùng chủ đề:
Từ khóa » Ví Dụ Về Quá Trình Nhận Thức Chân Lý
-
Ví Dụ Con đường Biện Chứng Của Sự Nhận Thức Chân Lý - TopLoigiai
-
Ví Dụ Về Nhận Thức - Luật Hoàng Phi
-
Ví Dụ Thực Tiễn Là Tiêu Chuẩn Của Chân Lý - Luật Hoàng Phi
-
Ví Dụ Về Con đường Biện Chứng Của Quá Trình Nhận Thức - Học Tốt
-
Thuyết Trình Con đường Biện Chứng Của Sự Nhận Thức Chân Lý - 123doc
-
Con đường Biện Chứng Của Nhận Thức: Từ Trực Quan Sinh động đến...
-
Ví Dụ Về Thực Tiễn Là Tiêu Chuẩn Chân Lý
-
Nhận Thức Và Các Cấp độ Của Quá Trình Nhận Thức? Lấy Ví Dụ?
-
Ví Dụ Các Giai đoạn Của Quá Trình Nhận Thức
-
Chủ đề 8: Con đường Biện Chứng Của Sự Nhận Thức Chân Lý - Prezi
-
Phân Tích Con đường Biện Chứng Của Quá Trình Nhận Thức
-
Quá Trình Nhận Thức: Nội Dung, ý Nghĩa Biện Chứng
-
Con đường Biện Chứng Của Sự Nhận Thức Chân Lý - Kipkis
-
8. Biện Chứng Của Quá Trình Nhận Thức - Tẩm Quất Hoàng Kim