1-Nghĩa Của Bốn Chữ Kê, Kê, Kê, Dậu
|
KÊKÊKÊDẬU 雞 鷄 鸡 酉 Phạm xuân Hy ( * ) Nhân có người bạn già vong niên đến chơi thăm tôi, ngày trời tháng bụt , lại lún phún mưa rầm, ngồi trong nhà rỉ rả nói truyện phiếm dông dài, gió trăng mây nước, lan mannhững truyện cà kê dê ngỗng. Con hổ giấy. Con hổ thật. Con chồn con cáo. Con chuột con gà. Lại biết tôi có một dúm chữ nho, anh bèn lấy bút viết ra mấy chữ dưới đây : 雞 鷄 鸡 酉 KÊKÊKÊDẬU Bảo tôi cắt nghĩa và cho biết những sự tích liên quan đến gà. Bị hỏi đột ngột, bất ngờ, nhất thời tôi tỏ ra lúng túng, đỏ mặt, không biết trả lời bạn tôi ra sao. Vả, biển học mênh mông, chữ nghĩa chập chùng, cái vốn chữ nho của tôi cũng chỉ có giới hạn, nên không dám nói sằng nói bậy. Tôi đành khất nợ với bạn. Xin cho tôi đựợc phép rở sách ra đọc, và trả lời bạn sau. Vì thế, hôm nay mới có bài viết này. 1-Nghĩa của bốn chữ kê, kê, kê, dậu 雞鷄鸡酉 KÊKÊKÊDẬU Ba chữ雞 鷄 鸡 này âm Hán Việt đều đọc là "kê", đều là những chữ đồng âm và đồng nghĩa, và đều chỉ một loại gia cầm có khả năng báo hiệu giờ giấc, mỏ ngắn, phần trên hơi cong, trên đầu có mào, cánh ngắn, không thể bay cao được. Tiếng Việt dịch nghĩa là " Con Gà". Sách "Thuyết Văn Giải Tự" giải thích "知時畜也-Tri thời súc dã ". Gà là gia súc có khả năng biết giờ giấc, và báo sáng, nên ngày xưa gà người ta nuôi gà để báo thức dậy sớm đi làm. Nhưng ngày nay, đã có đồng hồ, nên gà được nuôi để ăn thịt. Tuy nhiên, ba chữ này có sự khác biệt nhau về cách tạo tự của chúng. -Chữ 雞. (Đọc là kê) Theo giáp cốt văn và kim văn, đây là một chữ thuộc loại tượng hình tự. Tự hình của chữ này rất giống hình một con gà trống, trên có mào, chữ được cấu tạo bởi hai thành phần. Thành phần bên tráigọi là thanh bàng là chữ 奚 (đọc hề), sử dụng làm thanh phù. Thành phần bên phải hình bàng là chữ 隹 (đọc chuy) sử dụng làm ý phù. Chuy隹, theo sách "Thuyết Văn Giải Tự" của Hứa Thận đời Đông Hán, giải thích là từ dùng để gọi chung loài chim lông đuôi ngắn (短尾禽總名-Đoản vĩ cầm tổng danh) 2-Chữ 鷄. (Đọc là kê) Chữ 鷄 (đọc kê)do diễn biến của chữ 雞 (đọc kê) này thành chữhình thanh tự. Hai chữ này chỉ khác nhau ở phầný phù bên phải, là chữ điểu 鳥 thay chữ chuy隹 mà thôi. Còn thanh phù vẫn giữ nguyên chữ hề奚, âm và nghĩa giống nhau. Chữ điểu鳥, "Thuyết Văn Giải Tự" giải thích là loại chim lông đuôi dài (長尾禽總名-Trường vĩ cầm tổng danh) 3-Chữ鸡. (Đọc là kê) Có người loại suy cho rằng chữ kê 鸡 này mới xuất hiện trên đại lục, khi nước Cộng Hòa Nhân Trung Hoa được thành lập. Thật ra, đây là chữ thuộc loại giản thể của chữkê 鷄 trên , thanh phù bên trái 奚(đọc hề ) được giản hóabằng chữ 又 (đọc hựu), còn ý phù bên phải 鳥 (đọc điểu ) , được giản hóa thành 鸟 (đọc điểu ), âm và nghĩa như hai chữ kê trên, không thay đổi. Chữ kê 鸡này, người ta đã thấy xuất hiện trong sách "Kim Bình Mai Kỳ Thư" và sách "Mục Liên Ký Đạn Từ " đời nhà Thanh. Đến năm 1932 và năm 1935, bộ giáo dục công bố bảng"Giản Thể Tự Biểu", chữ kê giản thể cũng đã được ghi trong bảng giản thể biểu đó, tuy nhiên chỉ giản hóa phần thanh phù thôi, phần ý phù vẫn giữ nguyên. Vì là giản thể, nên chữ kê 鸡 này không thể phân tích theo như phương pháp lục thư được. 4-Chữ 酉. (Đọc là dậu) Người ta thường nói :" Tôi tuổi Dậu ", để nói rằng năm sinh của người đó thuộc năm gà, vì thế, đôi khi đưa đến sự lầm lẫn cho rằng dậu 酉, có nghĩa là gà. Thật ra, chữ dậu là chữ thuộc loại độc thể tự. Tự hình, là hình vẽmột cái bình đựng đầy rượu, nên nghĩa gốc của dậu 酉 ngày xưalà rượu, nên chữ tửu 酒mới đầu viết là dậu 酉. Về sau, theo cách giả tá, dậu mới biểu thị danh xưng của chi thứ mười trong mười hai địa chi : Tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, Dậu, tuất hợi. Nhưng tại sao lại dùng congà làm tượng trưng của chi dậu, con chuột là tượng trưng của chi tý, con chó là tượng trưng của chi tuất v. v. . . ? Câu hỏi này cho đến nay, các nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, hầu như vẫn chưa tìm ra câu trả lời rõ rệt, thỏa đáng. Hoặc chỉ đưa ra những ức đoán mà không chứng minh được, và ngay cả các học giả Trung Hoa cũng không tìm được xuất xứ của mười hai địa chi trên. Tuy thế, dầu không biết xuất xứ, nhưng ảnh hưởng củamười hai địa chi này, như một thực tế, ăn sâu vào những suy tư, sinh hoạt của người Trung Hoa, không thể chối cãi được. Người Trung Hoa từ hàng nghìn năm trước đã dùng mười hai địa chi phối hợp với mười thiên can để ghi nhớ ngày, tháng, năm. Ghi nhớ các sự kiện lịch sử, những ngày sinh, tháng đẻ, đến ngày tết ngày giỗ, ngày cưới vợ gả chồng, cất nhà mở tiệm, đi chơi xuất hành, nhất nhất cái gì cũng được ghi nhớ bằng thiên can, địa chi cả. Có khi còn đến các thầy bói, các thầy địa lý, các tử vi gia, để nhờ reo quẻ, bấm độn cho biết sự tốt xấu về tình duyên, gia đạo, buôn may bán đắt. Các thầy bói, các thầy tử vi, các chiêm tinh gia, hàng ngày vẫn phải lẩm bẩm nhắc tên từng thuộc tướng tý, sửu, dần, mão, thìn, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. . . để thỏa mãn những câu hỏi của khách hàng. Đây thật là một điều kỳ lạ khó hiểu trong một văn minh rực rỡ lâu đời như nền văn minh Trung Quốc. Nhưng thôi, tôi xin gác vấn đề này sang một bên, để dịp khác. Và xin trở lại với đề tài về gà. 2-Những từ ngữ chữ Hán dùng để chỉ gà. Như trên đã trình bầy, chữ dậu không có nghĩa là con gà. nhưng trong những thư tịch và vănthơ cổ điển Trung Hoa , người ta thường gặp những từ ngữ sau đây để chỉ con gà : -Song cầm窗 禽 : Theo sách "Nghệ Văn Loại Tụ" thì :"Thứ sử Duyện Châu đời Tấn, tên là Tống Xứ Tông, người Bái Quốc, từng mua được một con gà, có tiếng gáy rất dài, nên Xử Tông rất lấy làm yêu quý, nuôi dưỡng rất cẩn thận, thường để lồng gà ở bên cửa sổ. Gà bèn dùng tiếng người đàm luận với Xử Tông, rất là biện bác, suốt ngày không ngừng. Nhờ thế mà tài hùng biện của Xử Tông tiến rất xa. Sau này, hậu thế dùng từ ngữ "Song cầm" để chỉ gà. - Kim cầm 金禽 : Theo thuyết ngũ hành, cổ nhân cho rằng gà thuộc kim, vì thế gọi gà là kim cầm. -Tốn vũ 巽羽 : Trong Kinh Dịch, quẻ tốn 巽 chỉ con gà. Gà thuộc loại vũ trùng, vì thế gọi gà là tốn vũ. Như Ban Cố, tác giả Hán Thư, từng dùng hai chữ tốn vũ để chỉ gà " 巽羽化于宣宮兮-Tốn vũ hóa vu Tuyên Cung hề" -Thời dạ 時夜 : Gà có khả năng coi đêm tối, vì thế gọi gà là "thời dạ". Thời, có nghĩa là chưởng quản, trông coi . Trong sách "Trang Tử -Tề Vật Luận " có câu " Kiến noãn nhi cầu thời dạ 見卵而求時夜 " Có nghĩa là "Thấy trứng thì muốn cógà ". -Chúc dạ 燭夜 : Gà có khả năng coi đêm, và quan sát trời sáng, vì thế nên gọi gà là chúc dạ. Chúc 燭 có nghĩa là quan sát, xem xét cho rõ. 3-Những từ ngữ có liên quan đến chữ kê. Liên quan đến chữ kê, hán tự có rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, và điển cố. Như trên đã trình bầy, chữ kê 雞 vốn là loại chữ tượng hình. Đó là hình vẽ của một con gà trống, nhưng các tự điển chữ Hán, hay Hán Việt từ điển, chỉ giải thích chữ kê có nghĩa là gà. Muốn nỏi rõ gà trống thì phải gọi là "công kê " 公雞, gà mái là "mẫu kê" 母雞. Nhưng cũng có những từ ngữ có chữ kê , lại chỉ một vật khác, hay ám chỉ một nghề nghiệp khác như. Như chữ dã kê "野雞, ngoài cái nghĩa chỉ loại chim trĩ ở ngoài đồng ruộng, ngày xưa còn dùng hai chữ này để ám chỉ những cô gái mại dâm, đứng ở ngoài đường, lôi kéo khách về nhà. Tôi không rõ thành ngữ "mèo mả gà đồng" của ta, trong đó hai chữ "gà đồng" có phải do ý từ chữ "dã kê"này mà ra chăng ?Hay do chữ "điền kê 田雞 mà ra? Dưới đây xin cử ra một vài thành ngữ khác. -Kê công xa 雞公車. Kê công xa là tên gọi loại xe một bánh, do vợ Gia Cát Lượng là Hoàng Nguyệt Anh nghĩ chế tạo ra. Nguyên vào thời Tam Quốc, Lưu Bị sau khi mượn được đất Kinh Châu, nhưng lương thực không đủ dùng, mới sai Gia Cát Lượng tìm cách khai khẩn trồng trọt. Kinh Châu lại là vùng đất có nhiều hồ, vì thế muốn khai khẩn thì phải đào đất làm đê để ngăn nạn lụt. Gia Cát Lượng thấy sĩ tốt lao lụy người cuốc người vác, vất vả, công việc chậm chạp mà lại cực nhọc vất vả, muốn dùng chiến xa để chuyên trở thì không được, mà mùa nước lũ sắp tới. Về nhà Gia Cát Lượng thở vắn thở dài, chưa nghĩ ra biện pháp. Người vợ là Hoàng Nguyệt Anh thấy vậy mới hỏi nguyên cớ, Gia Cát Lượng đem sự việc kể lại cho vợ nghe. Người vợ chỉ cười. Gia Cát Lượng biết vợ đà tìm ra biện pháp, bèn khom người vái vợ mấy vái xin chỉ giúp. Người vợ mới nói : "Tối nay thiếp sẽ thiết kế làm một chiếc xe nhỏ, khi gà kêu đến lần thứ ba sẽ giao hàng cho tướng công" Gia Cát Lượng đứng chờ ở ngoài cửa , khi gà gáy đến lần thứ hai, ông sốt ruột, đẩy cửa bước vào phòng của vợ, thì thấy người vợ đã hoàn thành xong một chiếc xe nhỏ, có một bánh, khi đẩy xe lên , thì xe phát ra tiếng kêu cot ket như cục tác, lại hoàn thành trước cả dự định một tiếng gà, nên mới đặt tên là " kê công xa". Nhờ loại xe mới sáng chế nầy, mà công việc vận chuyển đất để đắp đê được nhanh chóng và bớt vất vả hơn, giúp cho việc khẩn hoang của Lưu Bị được mở rộng và phát triển thêm, có đủ lương thực để chống lại với phe Ngụy và Ngô. - Kê gian雞姦. Chỉ việc con trai hành dâm với con trai. Ngày xưa đó là một tội danh bị phạt xử tử, và bị coi là một tội hèn hạ, xỉ nhục, mất đạo đức. Tức như bây giờ thường gọi là bệnh đồng tỉnh luyến ái. Bê đê. Trên thực tế bệnh kê gian, bệnh háo nam sắc này xuất hiện đã từ lâu đời. Nước Tầu, từ khi Tần thống nhất cho đến nhà Mãn Thanh bị lật đổ, kéo dài 2133 năm, gồm 564 vị hoàng đế, không thiếu những ông vua anh hùng, tài trí thao lược, nhưng lại mắc bệnh "kê gian", hiếu nam sắc. Tần Thủy Hoàng có gã Triệu Cao xinh đẹp mà gian ác. Triều nhà Hán, Hán Cao Tổ Lưu Bang có chàng Tịch Nhũ thanh tú linh lợi. Văn Đế Lưu Hằng có chàng Đặng Thông xuất thân bần hàn, sống bằng nghề lái đò , nhưng nhờ khuôn mặt đẹp như trăng, nước da trắng như ngọc ngà mà được vua yêu. Võ Đế Lưu Triệt có nam sủng là Hàn Yên và Lý Diên Niên. Vua Ai Đế đời Hậu Hán có Đổng Hiển. Ai Đế say mê Đổng Hiền, thường cho Hiền cùng ăn cùng ngủ. Có lần vua cho Hiền ngủ trên tay áo của mình, vua muốn đứng dậy, nhưng thấy Hiền còn chưa tỉnh, không nỡ đánh Hiền thức dậy, bèn dùng dao cắt đứt tay áo của mình, để cho Hiền ngủ yên. Thành ngữ "Đoạn tụ 斷袖 -Cắt tay áo" thường được sử dụng trong thơ văn cổ điển để chỉ bệnh háo nam sắc của các bậc đế vương. Háo nam sắc đối với các ông vua, không phải là một thứ tình cảm bẩm sinh, chẳng qua chỉ là một món ăn chơi "nghiệp dư", khi đã là "thiên tử-con trời", muốn gì được nấy. Bằng cớ là các vị thiên tử này vẫn vì nữ sắc mà bị mất thiên hạ . -Kê đầu nhục 雞頭肉. Nếu hiểu theo nghĩa là "miếng thịt đầu gà" thì không đúng. "Kê đầu nhục" có nghĩa là đầu vú của phụ nữ. Nhân vì Đường Minh Hoàng là một ông vua bay bướm đa tài lẫn đa tình. Một hôm vua thấy Dương Qúy Phi tắm xong, đứng soi gương, để lộ một đầu vú ra khỏi áo, vua bèn lấy tay vân vê sờ lẩn, rồi bảo với Dương Quý Phí rằng :"Nhuyền ôn tân bác kê đầu nhục -軟溫新剝雞肉 . Mềm mại êm ấm như thịt đầu gà mới bóc. Nhưng đầu gà thì chỉ toàn xương thôi, làm sao mà mềm mại êm ấm được. Chẳng qua là một cách nói văn hoa, ẩn dụ cho đẹp, thay vì nói toạc móng heo, một càch sỗ sàng là cái đầu vú. Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị, truyện Liên Tỏa, cũng dùng từ ngữ này một cách khéo léo. Ông viết :"戲以手探胸 則 雞 頭 之 肉 依 然 處 子-Hí dĩ thủ thám hung, tắc kê đầu chi nhục, y nhiên xử tử. -Đùa lấy tay lần sâu vào bụng nàng, thấy đầu vú, y nhiên còn là trinh nữ . " Cổ nhân dùng chữ quả thật nhiêu khê, rắc rối. Ngoài "kê đầu nhục", trong Hán ngữ còn có từ ngữ "Kê đầu cẩu huyết -Đầu gà máu chó". -Kê đầu cẩu huyết 雞頭狗血-Đầu gà mấu chó. Cổ xưa, người Trung Hoa cho rằng gà và chó là những con vật có nguồn gốc thần bí, khác những gia súc khác. Gà là do Ngọc Hành Tinh tan ra mà thành. Chó là do Đẩu Tinh mà sinh ra, nên người Trung Hoa xử dụng một số bộ phận nào đó của gà để làm pháp bảo phù chú, như đầu gà máu chó. Họ tin rằng dùng máu gà , máu chó có thể tịch tà, diệt trừ được những điều bất tường, xui sẻo. Theo sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, việc sử dụng máu chó, máu gàbôi vào cửa để giải trừ những thế lực "tà ma", hoặc phá những "yêu thuật" gian áccủa kẻ thù. Đó là một hiện tượng đã có từ đời Tần Thủy Hoàng. Tập tục chém đầu gà treo ở trước cửa vào đêm giao thừa để trợ trường sinh và giúp ích cho việc trồng trọt, cấy cầy của nhà nông cũng là một hiện tượng phổ biến ở Trung Hoa trước cuộc Cách Mạng Tân Hợi. Ngoài ra, người Tầu còn dùng xươnggà, gan gà, mỏ gà, trứng gà để bói toán, dự đoán cát hung, may rủi. Để chấm dứt bài này, tôi xin thuật lại sự tích "Kê cân 雞筋 -gân gà " dưới đây. -Kê cân 雞筋 hay kê lặc 雞肋. Gân gà hay xương gà ? Hồi còn nhỏ, tôi ham đọc "Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa", tôi cố để dành tiền mua được một bản dịch truyện này, do nhà in Phúc Chi ấn hành, nhưng lại không ghi tên người dịch. Nguyên danh là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa, La Quán Trung đã dựa vào Tam Quốc Chí của Trần Thọ, đời Tấn mà soạn ra, được các nhà phê bình văn học Trung Hoa coi là đệ nhất tài tử thư. La Quán Trung đã vẽ lại cho người đọc thấy cuộc đấu tranh quân sự giữa các sứ quân cát cứ, và tình hình chính trị phức tạp kéo dài hơn nửa thế kỷ trong thời kỳ Hán mạt-Tam Quốc. Toàn truyện có nhiều chi tiết có thật rút từ chính sử ra, và có khoảng 1191 nhân vật, rất khó mà nhớ hết. Nhiều thành ngữ của Trung Quốc cũng được rút ra từ bộ truyện này, như "Qúa Ngũ Quan Trảm Lục Tướng- 過五關斬六將", "Vọng Mai Chỉ Khát -望梅止渴 ", "Thất Bộ Thành Thi -七步成詩", "Tam Cố Thảo Lư -三顧草蘆", Dương Tu Kê Lặc揚修雞肋". Dương Tu vốn là mưư sĩ của Tào Tháo, con của Dương Bưu, người Hoằng Nông Hoa Âm, nổi tiếng là một người tài tư mẫn tiệp, học rộng biết nhiều, nhưng thường ỷ tài, nhiều lần mạo phạm vào những điều cấm kỵ của Tào Tháo, lại thêm đứng về phe Tào Thực trong cuộc tranh dành ngôi báu với Tào Phi, càng khiến Tháo ghét thêm. Năm Kiến An nhị thập tứ niên, tức năm 219 Công Nguyên, Tào Tháo với Lưu Bị tranh nhau đất Hán Trung. Tào Tháo đánh nhiều trận không thắng, lại mất viên mãnh tướng Hạ Hầu Uyên, nên Tháo có ý muốn rút quân, nhưng trù trừ chưa quyết định. Giữa lúc đó , bộ hạ của Tháo là Hạ Hầu Đôn vào trong trướng xin hiệu lệnh ban đêm . Tháo nhìn thấy trong bát thang đang ăn của mìnhcòn có cái "gân gà" chưa ăn, bèn thuận miệng nói :"Gân gà ! Gân Gà ". Đôn ra ngoài truyền lệnh cho các quan quân bảo là "Gân gà". Hành Quân Chủ Bạ Dương Tu nghe thấy hai chữ "Gân gà", bèn bảo cho quân sĩcủa mình sửa soạn hành trang để đi về. Có người đến báo cho Hạ Hầu Đôn biết. Đôn giật mình kinh sợ, cho mời Tu vào trong trướng của mình, và hỏi : -Tại sao ông lại thâu thập hành trang vậy ? Tu đáp : -Theo như hiệu lệnh đêm nay là biết Ngụy Vương sớm muộn gì cũng rút quân về. "Gân gà " ăn vào thì không có thịt, mà bỏ đi thì còn mùi vị. Nay ta tiến thì không thể thắng, còn lùi thì sợ địch quân chê cười. Trong hoàn cảnh vô ích như thế, chi bằng rút về. Tương lai, Ngụy Vương thế nào cũng ban sư đấy, vì thế tôi thâu thập hành trang trước, tránh khỏi bị hỗn loạn lúc lâm hành. Ngụy Vương tức Tào Tháo, các cận thần của Tháo đều tôn xưng Tháo là Ngụy Vương. Đôn nghe nói thế, bảo: -Ông thật là người biết hết gan ruột của Ngụy Vương đấy ! Rồi cũng cho lính thâu thập hành trang. Thế là các tướng trong doanh trại của quân Ngụy, chẳng ai là không chuẩn bị để rút về. Đêm đó, Tào Tháo thấy trong lòng bồn chồn rối loạn, ngủ khôngyên, bèn sách cương phủ đi một vòng quanh trại. Chỉ thấy quân sĩ trong trại của Hạ Hầu Đôn ai nấy đều chuẩn bị hành trang. Tháo đâm hoảng, vội vã trở về trong trướng, gọi Hạ Hầu Đôn lên hỏi. Đôn thưa : - Chủ Bạ Dương Đức Tổ biết trước được ý muốn trở về của Đại Vương ! Đức Tổ là tên chữ của Tu. Tháo cho gọi Tu lên hỏi. Tu lấy ý của hai chữ "Gân gà " ra giải thích. Tháo giận quá, nói : -Nhà ngươi dám tạo ngôn, làm loạn quân tâm à ! Rổi hét đao phủ thủ lôi Tu ra chém đầu treo ở ngoài cửa hiên môn. Sự tích trên đây, tôi đã dịch từ nguyên bản chữ Hán sách Tam Quốc Diễn Nghĩa, hồi thứ bẩy mươi, sách do Minh Lương Thư Cục ở Hương Cảng phát hành. Đếnđây tôi xin mở một dấu ngoặc. Vốn trong nguyên truyện bằng chữ Hán, không hề có chữ "kê cân 雞筋" mà chỉ có chữ "kê lặc 雞肋". Câu trong nguyên truyện viết là : 適庖官進雞湯, 操見碗中有鶵肋, 因而有感於懷 , 正沈吟間夏侯惇入帳稟請夜間口號 . 操隨 口曰:雞 肋!雞 肋. 惇傳令眾官都稱『雞 肋. 』 (Dịch âm : Thích bào quan tiến kê thang Tháo kiến oản trung hữu sồ lặc nhân nhi hữu cảm ư hoài Chính trầm ngâm gian Hạ Hầu Đôn nhập trướng bẩm thỉnh dạ gian khẩu hiệu. Tháo tùy khẩu viết "Kê lặc ! Kê lặc !" Đôn truyền lệnh chúng quan đô xưng "Kê lặc ". ) Trong nguyên bản rõ ràng là chữkê lặc 雞肋 chứ không phải chữ kê cân 雞筋. Chữ lặc 肋 có nghĩa là xương, còn cân 筋 mới có nghĩa là gân, hai chữ chỉ hơi giống nhau. Nhìn vội dễ có thể đọc nhầm. Nhưng sở dĩ tôi vẫn dịch là "gân gà", không câu nệ phải dịch đúng nghĩa là "xương gà", một phần vì thương tiếc hai chữ "gân gà", mà tôi cho là tuyệt cú mèo và thích hợp với văn cảnh và ý của cốt truyện , mà người dịch giả vô danhđã cố tình sử dụng một cách khéo léo, thần tình. Hai nữa, cũng để hoài cảm bộ sách cũ, tôi đã cố để dành tiền mua được, rồi giữ gìn, bảo quản, đóng bìa mạ gáy, mang theo khi vào Nam, sau 1975 bị nạn phần thư, chung một kiếp bạc mệnh, không còn nữa. Ôi !Cái tình " Trung thư hữu nữ nhan như ngọc 中書有女顏如玉". Là thế đấy. Cố nhân hề cố nhân. Năm thân sắp qua, năm dậu sắp lại, con khỉ đi con gà đến, gọi là có dúm chữ nho, trảmón nợ cuối năm, và để tạ cái tình của người bạn vong niên, anh đến thăm em một chiều mưa, chẳng có gì đãi đằng, ngoài tách trà "đinh" đắng chát. ____________________________________________ * Bài viết của anh Phạm Xuân Hy, một nhà nghiên cứu văn hóa Ðông Phương ở Paris, trước có làm cho Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội (Securite Sociale) của Pháp, nay đã nghỉ hưu. Anh Hy là thân hữu của sempai Ðào Hữu Dũng (Japan). Anh Hy đã đồng ý chia sẻ trên ERCT trong số báo Tết Ất Dậu này. Xin cám ơn anh Dũng và anh Hy. |
Từ khóa » Kê âm Hán Việt
-
Tra Từ: Kê - Từ điển Hán Nôm
-
Tra Từ: Kê - Từ điển Hán Nôm
-
Cách Viết, Từ Ghép Của Hán Tự KÊ 鶏 Trang 115-Từ Điển Anh Nhật ...
-
Kê - Wiktionary Tiếng Việt
-
Kê Nghĩa Là Gì Trong Từ Hán Việt? - Từ điển Số
-
Kê Chữ Nôm Là Gì? - Từ điển Số
-
Từ Hán-Việt – Wikipedia Tiếng Việt
-
Nhàn đàm Về Dậu-Kê-Gà
-
[PDF] CON GÀ TRONG NGÔN NGỮ TRUNG - VIỆT
-
Gà Chọi Hà Nội - Chữ Gà Trống Trong âm Hán Việt Là "Đại... - Facebook
-
禽獸門 - Cầm Thú
-
Câu đố Tiếng Việt: “Con Cà Con Kê” Là Con Gì? Ai Cũng Nghĩ ... - Infonet
-
Nên Cẩn Trọng Hơn Khi Dùng Từ Hán Việt
-
[PDF] Bước đầu Tìm Hiểu Về Từ Ngữ Hán Việt Trong Ca Dao Nam - CTU