Bài Thơ: Đằng Vương Các - 滕王閣 (Vương Bột - 王勃) - Thi Viện

Thi Viện ×
  • Tên tác giả/dịch giả
  • Tên bài thơ @Tên tác giả
  • Nội dung bài thơ @Tên tác giả
  • Tên nhóm bài thơ @Tên tác giả
  • Tên chủ đề diễn đàn
  • Tìm với Google
Toggle navigation
  • Tác giả
    • Danh sách tác giả
    • Tác giả Việt Nam
    • Tác giả Trung Quốc
    • Tác giả Nga
    • Danh sách nước
    • Danh sách nhóm bài thơ
    • Thêm tác giả...
  • Thơ
    • Các chuyên mục
    • Tìm thơ...
    • Thơ Việt Nam
    • Cổ thi Việt Nam
    • Thơ Việt Nam hiện đại
    • Thơ Trung Quốc
    • Đường thi
    • Thơ Đường luật
    • Tống từ
    • Thêm bài thơ...
  • Tham gia
    • Diễn đàn
    • Các chủ đề mới
    • Các chủ đề có bài mới
    • Tìm bài viết...
    • Thơ thành viên
    • Danh sách nhóm
    • Danh sách thơ
  • Khác
    • Chính sách bảo mật thông tin
    • Thống kê
    • Danh sách thành viên
    • Từ điển Hán Việt trực tuyến
    • Đổi mã font tiếng Việt
Đăng nhập ×

Đăng nhập

Tên đăng nhập: Mật khẩu: Nhớ đăng nhập Đăng nhập Quên mật khẩu? Đăng nhập bằng Facebook Đăng ký

Bình luận nhanh 7

Bạn đang bình luận với tư cách khách viếng thăm. Để có thể theo dõi và quản lý bình luận của mình, hãy đăng ký tài khoản / đăng nhập trước.

Tên của bạn: Thông tin liên hệ: Xác nhận bạn không phải người máy: Gửi bình luận Minh Chu20/01/2022 15:13 Khổ cuối này còn được tách ra thành bài: “滕王閣:Đằng Vương các-Gác Đằng vương”.c3 khổ này tôi đối vụng. 晝 là trụ, Họa là vẽ, Đống: quan trọng nóc, trụ côt tể tướng. Họa đống tôi cho là tranh vẽ trên vải treo như cờ biểu tượng chủ nhân trên nóc nhà. 1-Còn gọi là sông Dương Tử. Gác Đằng Vương do Lý Nguyên Anh, con trai Đường Cao Tổ Lý Uyên, xây năm 653 khi đến Hồng Châu nhậm chức thứ sử. Về sau, ông được phong Đằng Vương nên lầu gọi ĐVC. Vương Bột đi thăm cha ở Nam Hải, ghé dự tiệc do Diêm Bá Dư chiêu đãi đã viết bài phú trên khiến lầu theo thơ lừng danh. Lầu Nhạc Dương Hồ Nam, Lầu Hoàng Hạc Hồ Bắc, Gác Đằng Vương Giang Tây là “tam đại danh lâu” của Tr Quốc. Bài này làm say nhừ tử các thi sĩ tiền chiến cho đến nay cũng như các thi sĩ chữ Hán cổ điển kể cả Nôm Kiều ND cũng vay mượn một số ý tứ rất hay:“Duyền đằng thuận nẻo gió đưa”.Ba tranh bên:Đằng Vương Các Giang Tây 1989, Ấp Giang Đình và Ấp Thúy Đình. Khổ cuối này còn được tách ra thành bài: “滕王閣:Đằng Vương các-Gác Đằng vương”.c3 khổ này tôi đối vụng. 晝 là trụ, Họa là vẽ, Đống: quan trọng nóc, trụ côt tể tướng. Họa đống tôi cho là tranh vẽ trên vải… Minh Chu20/01/2022 15:12 Bài tự gác Đằng Vương Nam Xương quận cũ, Hồng Đô phủ mới, Trời phân Dực Chẩn, đất giáp Hành Lư. Ôm ba sông và bao năm hồ, chế Man Kinh cho tới Âu Việt. Vật hoa trời quý, ánh rồng chiếu Ngưu Đẩu đến gò. Nhân kiệt địa linh,Từ Trĩ đãi Trần Phồn giường riêng tiếp. Châu hùng mù bủa, anh tuấn sao bay. Đài hào gối Di Hạ ra biên, khách chủ tận đông nam đều khéo. Đô đốc Diêm Công đầy nhã vọng, kích bọc xa chinh, Vũ Văn châu mới quan khuôn phép, màn xe tạm trú. Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây, Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ. Giao bay, phượng nổi, Học sĩ Mạnh tổ từ chương, Chớp tía sương trong, Vương tướng quân cai võ khố. Cha làm quan tể, rộng xuất miền thơm, Trẻ nhỏ đâu hay, mừng gặp tiệc đưa. Nay đang tháng chín vốn thuộc thu mùa. Nước rãnh cạn và đầm lạnh trong, màu khói đọng ráng chiều non tía. Xe ngựa sang giờ trên lối, hỏi phong cảnh tới gò cao. Soi bậc chúa của Trường Châu, được người tiên về quán cũ. Đài tầng vút biếc nhô khỏi trùng mây, gác bay hồng chảy, dưới nhìn chẳng đất. Bến hạc, bãi le cùng gò đảo lượn quanh co. Điện quế, cung lan trên gò vòng theo địa thế Mở cửa gác soi hoành chạm, Núi đồng rộng của đầy trông, sông đầm to mà thấy sợ . Cửa thôn san sát, chuông rung vạc nấu từng nhà, Chiến hạm đầy cầu sẻ xanh, rồng vàng thay đổi. Mống tan mưa tạnh, sáng rực đường mây. Ráng chiều với chiếc vịt bay ngang, thu nước cùng trời xa một sắc. Ngư thuyền hôm hát vang tít Bành Lễ bến sông. Nhạn lũ rét kinh, kêu dứt Hành Dương cầu bến. Lòng xa đoái thích, hứng nổi như bay. Sáng lại phát đi gió trong sinh, ca nhẹ vừa ngưng mây trắng nổi. Vườn Kỳ trúc biếc, khí lan Bành Trạch rượu bình. Sông Nghiệp rạng hồng sáng rọi Lâm Xuyên ngọn bút. Bốn đẹp đủ, tốt khó đôi. Liếc trông khắp cả khoảng trời, vui chơi hết ngày nhàn rỗi. Trời cao, đất rộng, thấy vũ trụ quả vô cùng. Hứng hết, buồn sang, hiểu đầy vơi là có số. Ngắm Trường An dưới nắng trời, chỉ Ngô Hội trong khoảng mây. Thế đất tận cùng, biển Nam sâu; cột trời cao và Bắc Đẩu ngái. Đường non khó vượt, ai thương lạc lối con người? Bèo nước gặp nhau, hết thảy tha hương làm khách. Nhớ cửa vua, không thấy được, phụng chiếu chỉ tới năm nào? Than ôi! Thời vận chẳng giúp; đường đời lắm nỗi. Phùng Đường dễ lão; Lý Quảng khó phong. Giả Nghị oan nơi Trường Sa, đâu không chúa sáng, Lương Hồng náu tới Hải Khúc, há thiếu thời minh. Nhờ được quân tử vui nghèo, đạt nhân biết mệnh. Già sang thêm mạnh, nên tường đầu bạc tới lòng? Lúc cùng thêm vững, chẳng nản mây xanh sẽ tới. Uống suối Tham, lòng biết sáng, chốn cùng kiệt, vẫn còn vui. Biển bắc tuy xa, cưỡi lốc thể tới, Đông trời đã vuột, dâu hôm chưa muộn. Mạnh Thường cao khiết ôm hoài báo quốc trong lòng Nguyễn Tịch cuồng ca, há học đường cùng lại khóc! Bột thân nhỏ ba thước, thuộc giới thư sinh. Không lối xin vua dây cỡ anh Chung nơi giải nón lụa, Hoài mong quẳng bút, theo Tông Xác chốn gió dai. Bỏ trâm hốt ở trăm năm, hiến sớm hôm ngoài vạn lý. Chả Tạ gia họ cây báu, giáp họ Mạnh láng giềng thơm. Ngày sau rảo sân, lạm bàn ông Lý. Nay sớm nâng tay, vui ký cổng rồng. Dương Ý gặp đâu, hỏi mây qua mà tự tiếc. Chung Kỳ đã gặp, tấu lưu thuỷ sao thẹn thùng?. Than ôi! Thắng cảnh vô thường, tiệc to khó lặp. Lan Đình đã bỏ, Tử Trạch gò hoang. Gần biệt tặng lời, may chịu ân lớn tiễn, Lên cao làm phú, là mong mỏi ở các ông. Bạo dốc chân quê, kính bài tự ngắn, Một lời thể phú, bốn vần đều thành. Mời rảy sông Phan, cùng nghiêng mây biển đất vậy. Đằng Vương cao ngất soi trên bến, Tiếng ngọc chim loan ngưng múa ca. Họa nóc sớm bay mây Nam Phố, Rèm châu tối cuộn Núi Tây mưa. Mây in hồ lặng ngày thông thả, Vật đổi sao dời thu mấy mùa. Trên gác vương tôn nay chẳng thấy, Ngoài song Dương Tử dưới trời qua. Khổ cuối này còn được tách ra thành bài: “滕王閣:Đằng Vương các-Gác Đằng vương”.c3 khổ này tôi đối vụng. Bài tự gác Đằng Vương Nam Xương quận cũ, Hồng Đô phủ mới, Trời phân Dực Chẩn, đất giáp Hành Lư. Ôm ba sông và bao năm hồ, chế Man Kinh cho tới Âu Việt. Vật hoa trời quý, ánh rồng chiếu Ngưu Đẩu đến gò. Nhân… Huyền Không01/07/2021 08:15Gác Đằng cao ngất tận bờ sông Tiếng ngọc bội reo múa hát dừng Sớm vẽ cột rồng mây Nam Phố Chiều cuộn rèm châu mưa núi tây Đầm in bóng mây ngày phiêu dạt Vật đổi sao dời trải mấy thu Đế tử trong lầu nay đâu nữa Ở ngoài Trường Giang vẫn tự trôi. 廣秀譯Tu Nguyen22/07/2020 11:34 Đằng vương gác cất trên bờ sông Không cảnh người đeo ngọc múa ca Cột đám mây bay Nam Phố vẽ Mưa qua rèm ngọc Tây Sơn sa Mây lang thang vẫn in hình đậm Vật đổi sao dời năm mấy qua Trên gác người con Đường đế vắng Trường Giang vẫn chảy hiên ngoài xa. Đằng vương gác cất trên bờ sông Không cảnh người đeo ngọc múa ca Cột đám mây bay Nam Phố vẽ Mưa qua rèm ngọc Tây Sơn sa Mây lang thang vẫn in hình đậm Vật đổi sao dời năm mấy qua Trên… Tu Nguyen22/07/2020 11:33 Gác Đằng Vương cao ngất bãi bên sông Người đeo ngọc, chuông loan, thôi ca múa Vờn cột vẽ, sớm mai, mây Nam Phố Hắt rèm châu, chiều xế, mưa non tây Mây lang thang, in ảnh ở đầm này Lẽ vật đổi, gác vài năm bỏ phế Còn đâu nữa, con trai Đường hoàng đế Ngoài hiên kia, vẫn lờ lững Trường Giang. Gác Đằng Vương cao ngất bãi bên sông Người đeo ngọc, chuông loan, thôi ca múa Vờn cột vẽ, sớm mai, mây Nam Phố Hắt rèm châu, chiều xế, mưa non tây Mây lang thang, in ảnh ở đầm này Lẽ vật đổi, gác vài năm… Chi Nguyen26/06/2020 15:29 Cao cao Đằng gác bên sông. Leng keng ngọc bội, ca công đã ngừng. Nam Phố mây họa lưng chừng. Rèm châu mưa móc, tưng bừng núi Tây. Lững lờ đầm nước soi mây. Sao dời vật đổi, bấy chầy bao thu. Gác xưa đế tử vân du. Trường Giang sóng vỗ, mịt mù ngoài song. Cao cao Đằng gác bên sông. Leng keng ngọc bội, ca công đã ngừng. Nam Phố mây họa lưng chừng. Rèm châu mưa móc, tưng bừng núi Tây. Lững lờ đầm nước soi mây. Sao dời vật đổi, bấy chầy bao thu. Gác xưa đế… Truong Tran14/05/2018 23:58 Đằng Các soi mình bến nước trong, Còn đâu vũ điệu tiếng tơ đồng ? Hình như mây vẽ bay về núi, Có phải rèm đưa hay mưa dông ? Ngày tháng in hình mây trắng nước, Cảnh tình thay đổi mấy thu đông Người xưa đâu vắng, đây lầu cũ, Ngoài hiên chảy mãi một dòng sông Đằng Các soi mình bến nước trong, Còn đâu vũ điệu tiếng tơ đồng ? Hình như mây vẽ bay về núi, Có phải rèm đưa hay mưa dông ? Ngày tháng in hình mây trắng nước, Cảnh tình thay đổi mấy thu đông Người xưa… 74.57Ngôn ngữ: Chữ HánThể thơ: Thất ngôn cổ phongThời kỳ: Sơ Đường28 bài trả lời: 23 bản dịch, 4 thảo luận, 1 bình luận9 người thíchTừ khoá: Đằng Vương các (7) gác Đằng Vương (2)
  • Trả lời
  • In bài thơ
  • Tài liệu đính kèm 4

Một số bài cùng từ khoá

- Đằng Vương các tự (Vương Bột)- Đằng Vương các tự (Cao Bá Quát)- Đăng Đằng Vương các (Lưu Sân)- Đăng Đằng Vương các (Lê Trinh)- Đằng Vương các đồ (Lăng Vân Hàn)

Một số bài cùng tác giả

- Đằng Vương các tự- Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục châu- Tư quy- Thục trung cửu nhật- Lạc hoa lạc

Đăng bởi Vanachi vào 21/03/2005 09:46, đã sửa 8 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 08/04/2010 08:44

Ảnh đính kèmĐằng Vương các

Đang tải...

Đằng Vương các

Đang tải...

Đằng Vương các

Đang tải...

Đằng Vương các

滕王閣

滕王高閣臨江渚,佩玉鳴鸞罷歌舞。畫棟朝飛南浦雲,珠簾暮捲西山雨。閒雲潭影日悠悠,物換星移幾度秋。閣中帝子今何在,檻外長江空自流。

Đằng Vương các

Đằng Vương cao các lâm giang chử,Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,Vật hoán tinh di kỷ độ thu.Các trung đế tử kim hà tại,Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.

Dịch nghĩa

Gác Đằng Vương cao ngất dựa bên bãi sông,Đeo ngọc reo chuông thôi múa hát.Cột vẽ mây bến Nam bay lúc sáng sớm,Rèm châu cuốn buổi chiều thấy mưa núi Tây.Mây lững lờ ngày ngày vẫn in bóng trên đầm,Vật đổi sao dời trải đã bao thu.Con vua ở trong gác nay ở chốn nào?Ngoài hiên sông Trường Giang cứ chảy mãi.

滕王閣 Đằng Vương các Gác Đằng Vương

滕王高閣臨江渚,Đằng Vương cao các lâm giang chử,Gác Đằng Vương cao ngất dựa bên bãi sông,

佩玉鳴鸞罷歌舞。Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.Đeo ngọc reo chuông thôi múa hát.

畫棟朝飛南浦雲,Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,Cột vẽ mây bến Nam bay lúc sáng sớm,

珠簾暮捲西山雨。Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.Rèm châu cuốn buổi chiều thấy mưa núi Tây.

閒雲潭影日悠悠,Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,Mây lững lờ ngày ngày vẫn in bóng trên đầm,

物換星移幾度秋。Vật hoán tinh di kỷ độ thu.Vật đổi sao dời trải đã bao thu.

閣中帝子今何在,Các trung đế tử kim hà tại,Con vua ở trong gác nay ở chốn nào?

檻外長江空自流。Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.Ngoài hiên sông Trường Giang cứ chảy mãi.

Đây là bài thơ ở cuối bài Đằng Vương các tự. Xem thêm đầy đủ bài tự của Vương Bột.Các nội dung nhắc tới bài thơ:
  • Hàn thực kỳ 03 (Trần Phu)
Thơ có nội dung liên quan:
  • Đằng Vương các tự (Vương Bột)
Xếp theo: Ngày gửi Mới cập nhật

Trang 123 trong tổng số 3 trang (28 bài trả lời)[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

Gửi bởi Vanachi ngày 21/03/2005 09:46Đã sửa 4 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 20/02/2006 15:30

Gác Đằng cao ngất bên sông đóĐeo ngọc reo chuông ngừng hát múaChiều cuốn rèm châu mưa núi TâySớm bay cột vẽ mây bến NamĐầm in mây lặng vẻ thâm uVật đổi sao dời trải mấy thuĐế tử trong lầu đâu vắng bóng?Trường Giang ngoài cửa vẫn trôi mù...

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 53.80Trả lời Ảnh đại diện

Gác Đằng Vương

Gửi bởi Vanachi ngày 21/03/2005 09:51Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Admin vào 21/03/2005 18:36

Người Trung Quốc gọi Đằng Vương các, Hoàng Hạc lâu, Nhạc Dương lâu là Giang Nam tam đại danh lâu. Nhiều người biết đến Hoàng Hạc lâu qua bài thơ của Thôi Hiệu. Đỗ Phủ có bài Đăng Dương lâu, nhưng khi nhắc đến lầu này, người ta có khuynh hướng nhắc đến bài Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọn Yêm đời Tống. Còn Đằng Vương các đã nổi tiếng từ thời Sơ Đường qua bài phú của Vương Bột. Bài phú này kết thúc bằng bài thơ thất ngôn trên.Con vua Đường Cao Tổ là Nguyên Anh được phong là Đằng vương, xây cất gác này khi nhận chức thứ sử tại Hồng Châu. Năm Hàm Thuận thứ hai, thứ sử Hồng Châu là Diêm Bá Tự mở đại yến ở đây, sai con rể là Ngô Tử Chương chuẩn bị trước một bài tự để mang ra khoe với tân khách. Trong bữa tiệc, họ Diêm sai đem giấy bút ra mời khách làm văn, nhưng không ai dám nhận. Duy có Vương Bột không từ chối. Họ Diêm sai người ngó xem bài của Vương Bột. Khi được nghe đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” thì thán phục, khen là thiên tài, bèn thỉnh cầu Vương Bột tiếp tục hoàn thành bài tự này. Vương Bột lúc đó mới 19 tuổi, nhờ ngọn gió thổi mạnh thuyền mới đến được Đằng Vương các đúng giờ. Nguyễn Du có dùng điển tích này trong câu Kiều:

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưaCùng chàng kết tóc xe tơ những ngày

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 43.50Trả lời Ảnh đại diện

Đằng Vương các tự

Gửi bởi Vanachi ngày 21/03/2005 10:04Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Admin vào 21/03/2005 10:16

Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).Con của vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hồng Châu, được phong là Đằng Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương các. Lúc Diêm Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một bài tự ngay bữa tiệc.Vương Bột lúc bấy giờ, tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm, tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc.Thấy Vương Bột, viên Đô Đốc họ Diêm khinh là con nít, miễn cưỡng cấp giấy bút. Nhưng cho người đứng bên cạnh Vương, hễ Vương viết được câu nào thì chép lại cho ông xem.Mới đọc hàng đầu, họ Diêm đã ngạc nhiên vì lời già giặn. Đến câu:

Lạc hà dữ cô vụ tề phi,Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc
Nghĩa:
Ráng chiều với cò lẻ cùng bay,Nước thu cùng trời dài một sắc
thì ông vô cùng khâm phục.Bài của họ Vương đặc sắc hơn tất cả. Từ đó, danh càng vang dậy khắp nơi.Bài phú Đằng Vương các viết theo thể biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì cực đẹp nên rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.Cuối bài thơ, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,Vật hoán tinh di, không độ thu?Các trung đế tử kim hà tại?Hạm ngoại trường giang không tự lưu.
Nghĩa:
Đầm chiếu mây bay, trời lửng lơ,Sao dời vật đổi, mấy thu rồi.Con vua trong gác nào đâu nhỉ?Dòng nước ngoài hiên vẫn tự trôi.
Nhưng người có tài như thế mà mạng yểu. Nhân khi đi thăm cha làm quan ở Giao Chỉ, Vương bị đắm thuyền, chết ở giữa biển giữa 29 xuân xanh.Tương truyền rằng hai câu thơ:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,Thu thuỷ cộng tràng thiên nhất sắc.
tuyệt diệu như thế mà có người cho Vương Bột còn dốt, nhưng không chỉ dốt chỗ nàọ Vì thế khi chết, hồn còn uất ức nên trong đêm khuya thanh vắng thường hiện hình trên bãi bể, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường, miệng ngâm nga hai câu thơ trên và hỏi dốt chỗ nào, xin chỉ giúp. Nhưng ai nấy đều khen haỵ Hồn Vương không bằng lòng, cho rằng sĩ tử kia còn dốt, thi khoa này không thể đậu. Quả thật như thế.Rồi, cũng từ đó, giọng ngâm hai câu thơ kia vẫn còn văng vẳng bi ai theo hình bóng họ Vương thơ thẩn, dật dờ trên bãi biển.Nhưng một hôm có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn Vương hiện hình níu lại hỏi, thì chàng văn nhân ấy cười bảo:- Hai câu thơ ấy không phải sai nhưng nhà ngươi còn dốt thật. Đã bao năm có tiếng là tứ kiệt Sơ Đường mà không nhận biết được cái dốt của mình trong hai câu thơ ấy ư?Nói xong dứt áo ra đị Vương tha thiết yêu cầu giải thích. Khách không phụ lòng, nên bảo:- Hai câu thơ thừa chữ “dữ” và chữ “cộng”. Nếu bỏ hai chữ thì thật tuyệt, vừa gọn vừa thanh thoát, lại nhất khí:
Lạc hà cô vụ tề phi,Thu thuỷ tràng thiên nhất sắc.
Vương Bột nhận ra, quả còn dốt thật, mới bái tạ lãnh lời chỉ giáo.Từ đó, trong đêm khuya thanh vắng, trên bãi biển không còn hình bóng của nhà thơ tài danh trẻ tuổi hiện ra nữạ Và giọng ngâm hai câu thơ bất hủ bi ai, não ruột kia cũng chìm mất trong không gian cao rộng, mịt mờ. Đây là một câu chuyện hoang đường.Do câu chuyện gió đưa thuyền Vương Bột đến Đằng Vương các làm cho Vương nổi tiếng tài danh, nên cổ thi có câu: “Thời lai, phong tống Đằng Vương các” (Thời tới thì gió đưa đến Đằng Vương) để chỉ sự may mắn của kẻ gặp thời. Những từ ngữ: “duyên Đằng”, “gió đưa Đằng các” đều có ý nghĩa như thế.Trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du có câu: “Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa” là do điển tích trên.

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 25.00Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của Trần Trọng San

Gửi bởi Vanachi ngày 21/03/2005 10:17Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 20/02/2006 15:29

Bên sông đây gác Đằng VươngMúa ca đã hết, ngọc vàng nào ai?Cột rồng Nam Phố mây bayRèm châu mưa cuốn ngàn Tây sớm chiều.In đầm, mây vẩn vơ trôiTang thương vật đổi, sao dời mấy thâuĐằng Vương trong gác giờ đâu?Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 25.00Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của Nam Trân

Gửi bởi Vanachi ngày 14/07/2006 08:18

Gác Đằng cao ngất bãi sông thuNgọc muá vàng reo nay thấy đâu?Nam phố mây mai quanh nóc vẽTây sơn mưa tối, cuốn rèm châuĐầm nước mây vờn ngày tháng trôiMấy phen vật đổi với sao dờiĐằng vương thuở trước giờ đâu tá?Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài.

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 25.00Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của Hải Đà

Gửi bởi Vanachi ngày 19/03/2007 18:52

Bến sông cao ngất gác Đằng VươngĐai ngọc chuông kêu múa hát ngừngCột vẽ mây Nam vờn sáng sớmMưa Tây rèm cuốn thấy chiều buông Ngày vẫn trên đầm in bóng mâySao dời vật đổi mấy thu đâyCon vua trong gác nơi nào ở?Ngoài cửa Trường Giang nước chảy dài.

Lộ tòng kim dạ bạch,Nguyệt thị cố hương minh. 15.00Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng

Gửi bởi Nguyễn Lãm Thắng ngày 10/12/2008 17:20

Gác Đằng cao ngất bãi sôngCòn đâu tiếng ngọc, nhạc rung rộn ràng?Mây mai vờn nóc phố NamRèm châu chiều cuốn thấy ngàn Tây mưaĐầm in mây lửng, ngày đưaSao dời vật đổi mấy mùa vèo trôiĐằng Vương giờ khuất xa rồi!Trường giang nước cứ chảy xuôi bên thềm.

15.00Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của Cao Nguyên

Gửi bởi cao nguyên minh ngày 09/07/2009 14:42Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi cao nguyên minh vào 09/07/2009 14:55

Bên sông gác Đằng Vương cao ngất,Đeo ngọc vàng reo ngừng múa hát.Cột vẽ mây Nam Phố sớm bay,Rèm cuốn mưa Tây Sơn chiều tạt.Đầm in bóng mây, ngày chậm trôiSao dời vật đổi mấy thu rồi.Trong gác con vua giờ đâu nhỉ?Ngoài hiên, sông vẫn chảy đấy thôi.

15.00Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của mailang

Gửi bởi kimthao ngày 17/09/2009 06:18

Gác Đằng vương bên sông cao nóc,Dứt múa ca, tiếng ngọc phôi phai.Cột hoa Nam Phố mây mai,Rèm châu chiều cuốn, non đoài hạt rơi.Trải mấy thu, sao dời vật đổi,Mây ánh đầm, ngày dõi lửng lơ.Gác đây, đế tử đâu giờ ?Trường Giang cứ chảy hững hờ ngoài hiên.

24.50Trả lời Ảnh đại diện

Bản dịch của Đinh Vũ Ngọc

Ngôn ngữ: Chưa xác địnhGửi bởi Phụng Hà ngày 13/02/2011 00:50Có 1 người thích

Gác Đằng cao ngất bên sông sâuMúa hát đàn ca vắng bấy lâuNam phố mây mai in cột chạmTây sơn mưa xế cuốn rèm châuMây trôi đầm lặng soi bao thuởVật đổi sao dời trải mấy thâuTrong gác con vua đâu vắng bóng?Hiên ngoài sông nước vẫn trôi mau.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn] 15.00Trả lời

Trang 123 trong tổng số 3 trang (28 bài trả lời)[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

© 2004-2025 VanachiRSS

Tiếng nhạc kêu. Đời Hán Vũ Đế (140-86 tr. CN) xe đi thăm phi tần trên đặt một con chim loan bằng vàng miệng ngậm nhạc. Khi xe đi, nhạc vàng rung động gọi là chim loan kêu. Tên đất, ở bờ sông Trường Giang, phía tây nam huyện Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Rèm bằng hạt châu. Đời Xuân Thu, vua nước Việt là Câu Tiễn đã dâng vua Ngô Phù Sai hai mỹ nhân là Tây Thi và Trịnh Đán. Vua Ngô yêu quý để hai nàng ở đài Cô Tô có mành che cửa bằng những hạt minh châu. Tên núi nằm ở phía tây huyện Tân Kiến, tỉnh Giang Tây.

Từ khóa » đằng Vương Cao Các Lâm Giang Chử