BỆNH BASEDOW CÓ BIẾN CHỨNG MẮT

Khoa Nội tổng hợp bệnh viện đa khoa Đức Giang vừa mới tiếp nhận và điều trị một bệnh nhân N.T.T 48 tuổi, địa chỉ Hưng Yên, vào viện do lác hoàn toàn mắt trái đột ngột được tuyến dưới chuyển lên với chẩn đoán: liệt dây thần kinh VI chưa rõ nguyên nhân, theo dõi u não.

Trước đó, bệnh nhân chưa có tiền sử bệnh lý gì đặc biệt, thể trạng gầy từ trước. Qua hỏi bệnh khai thác các thông tin: bệnh diễn biến một tuần với biểu hiện mờ mắt, chóng mặt, đau đầu, nhìn mờ, chảy nước mắt bên trái, mắt trái nhắm không kín, không nhìn ra ngoài bên trái được. Khám lâm sàng bệnh nhân nữ gày (đã gày từ trước rất lâu), da ấm, không có biểu hiện ra mồ hôi tay, mạch nhanh khoảng 100 lần/phút; cổ gày, không rõ bướu, lác ngoài trái, nhìn đôi, mất hội tụ nhãn cầu; mắt phải hoạt động bình thường, không có liệt dây sọ khác; khám các bộ phận khác không có gì đặc biệt.

Bệnh nhân được làm các xét nghiệm chẩn đoán và được điều trị tại khoa Nội tổng hợp với chẩn đoán Basedow biến chứng mắt. Qua 10 ngày điều trị bệnh nhân ra viện trong tình trạng hai mắt nhìn và hoạt động bình thường, không còn dấu hiệu nhìn đôi, lác ngoài trái. Hiện tại bệnh nhân vẫn đang được theo dõi và điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết đái tháo đường khoa Nội tổng hợp bệnh viện Đa khoa Đức Giang.

Bệnh Basedow là bệnh thuộc bệnh lý tuyến giáp với nhiều tên gọi khác nhau như: bệnh Graves, bệnh Parry, bệnh cường giáp tự miễn…

Bệnh xuất hiện do tuyến giáp sản xuất quá nhiều hóc môn giáp trong máu gây ra những tổn hại về mô và chuyển hóa. Bệnh thường ảnh hưởng đến tuyến giáp, làm phì đại tuyến giáp lên (bướu cổ), gây triệu chứng cường giáp với các triệu chứng như tăng nhịp tim, yếu cơ, mất ngủ hoặc khó ngủ và tính tình dễ bị kích thích. Bệnh có thể ảnh hưởng đến mắt gây lồi mắt và ảnh hưởng đến các hệ cơ quan khác bao gồm da, tim, tuần hoàn và thần kinh. Bệnh xảy ra ở mọi độ tuổi, nhất là độ tuổi 20-40, thường gặp nhiều ở nữ giới.

Triệu chứng của bệnh Basedow

Có 3 biểu hiện chính: bướu giáp, hội chứng cường giáp và biểu hiện mắt. Bệnh biểu hiện khác nhau tùy từng bệnh nhân. Bệnh có khi xảy ra rất nhanh chỉ trong vòng vài tuần hay ít hơn nữa, nhưng thường tăng dần trong nhiều tháng thậm chí nhiều năm trước khi bệnh nhân thấy.

Bướu giáp: Tuyến giáp thường lan tỏa tương đối đều, mềm hoặc chắc. Nghe tại bướu có thể phát hiện được tiếng thổi liên tục hay trội hơn ở thì tâm thu. Bướu giáp lớn đôi khi gây chèn ép các cơ quan lân cận. Khoảng 7,4% trường hợp không có bướu.

Hình ảnh bướu cổ trong bệnh Basedow

Hội chứng cường giáp: Triệu chứng chính của Basedow do tăng sản xuất quá mức các hóc môn tuyến giáp. Bệnh nhân dễ nóng giận, nói nhiều; vận động nhiều hay mệt, run tay, yếu cơ và có thể teo cơ; tăng tiết mồ hôi tay…

Biểu hiện mắt: Biểu hiện mắt có thể bắt đầu trước hoặc sau khi được chẩn đoán Basedow 6 tháng. Bệnh do thâm nhiễm tế bào Lympho đi kèm với phù nề của các mô ở hốc mắt và sau nhãn cầu gây ra lồi mắt hay còn gọi là bệnh mắt Basedow. Mặc dù nhiều bệnh nhân chỉ thấy có đỏ mắt hoặc cộm mắt nhưng chỉ có dưới 5% có các biểu hiện nghiêm trọng kéo dài. Do vậy, bệnh nhân có các triệu chứng về mắt cần được thăm khám bởi các bác sĩ mắt và đồng thời cả bác sĩ nội tiết.

Lồi mắt có thể rất nhiều trên những bệnh nhân có bướu cổ nhỏ và ngược lại có thể lồi rất ít trên những bệnh nhân bướu cổ to. Lồi mắt thường xảy ra ở cả 2 mắt, đôi khi rõ rệt hơn ở một bên. Cũng có những bệnh nhân chỉ bị lồi một bên mắt nhưng rất hiếm gặp.

Dấu hiệu điển hình ở mắt:

+ Stellwag: mi mắt nhắm không kín.

+ Dalrymple: co cơ mi trên gây hở khe mi.

+ Von Graefe: Mất đồng tác giữa nhãn cầu và mi trên (co cơ mi trên khi mắt nhìn đưa xuống dưới)

+ Moebius: giảm hội tụ nhãn cầu gây nhìn đôi do liệt cơ vận nhãn.

Phân loại theo mức độ NOSPECT của Hội tuyến giáp Mỹ (ATA):

+ Độ 0: Không có dấu hiệu hoặc triệu chứng gì

+ Độ 1: Co cơ mi trên, giảm hội tụ nhãn cầu.

+ Độ 2: Tổn thương kết mạc và phù mi, phù kết mạc chảy nước mắt, cảm giác có vật lạ ở mắt, sợ ánh sáng.

+ Độ 3: Lồi mắt, đo bằng thước đo độ lồi Hertel (bình thường: 16-18mm).

+ Độ 4: Tổn thương thâm nhiễm các cơ vận nhãn, thường gặp nhất là cơ thẳng trong gây hạn chế nhìn lên, tiếp đến là cơ thẳng ngoài hạn chế nhìn sang bên. Thị lực bị rối loạn hoặc nhìn đôi.

+ Độ 5: Tổn thương giác mạc (đục giác mạc, loét giác mạc) vì không nhắm kín được mắt.

+ Độ 6: Giảm thị lực đến mất thị lực (tổn thương dây thần kinh thị giác)

Chẩn đoán bệnh Basedow

Bệnh Basedow được chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm hóc môn tuyến giáp tăng cao và hóc môn kích thích tuyến giáp-TSH giảm trong máu. Đôi khi tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể các bác sĩ có thể chỉ định thêm xạ hình tuyến giáp hoặc một vài xét nghiệm khác như TRAb.

Điều trị bệnh

Hiện nay có nhiều phương pháp và phương tiện để điều trị bệnh Basedow như dùng thuốc kháng giáp hoặc phẫu thuật. Tuy nhiên, mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng.

Việc chọn lựa phương pháp nào điều trị hay phẫu thuật thì tùy thuộc kinh nghiệm của thầy thuốc, sự dung nạp thuốc và tuân thủ của bệnh nhân trong quá trình điều trị. Khi thuốc không đáp ứng hoặc đáp ứng kém thì bệnh nhân cần chuyển sang điều trị phẫu thuật.

Đặc biệt những tổn thương lồi mắt trong bệnh Basedow sau quá trình điều trị rất ít được cải thiện triệu chứng lồi vì vậy cần được phát hiện và điều tị từ giai đoạn sớm.

Tại phòng khám Nôi tiết- đái tháo đường khoa Nội tổng hợp bệnh viện đa khoa Đức Giang đang theo dõi và điều trị ngoại trú khoảng hơn 300 bệnh nhân bệnh lý tuyến giáp chủ yếu trong số đó là Basedow và gần 4000 bệnh nhân đái tháo đường. Trong nhiều năm nay con số này còn tiếp tục tăng thêm một cách nhanh chóng.

Vì vậy khi bạn gặp các triệu chứng phổ biến của chứng cường giáp chủ yếu là mất ngủ hoặc khó ngủ, run tay, gầy sút, ngoài ra giảm cân đột ngột mặc dù tăng sự thèm ăn, tiêu chảy và đại tiện thường xuyên hơn, tim đập mạnh, cơ bị yếu khó hoạt động như trước, da ấm và có cảm giác ẩm người bệnh hãy đi khám ngay để phát hiện và điều trị trước khi xuất hiện các biến chứng nặng.

Từ khóa » Dấu Moebius