Đẩy Mạnh Và Phát Triển Doanh Nghiệp Logistics ở Việt Nam

Thực trạng thị trường logistics Việt Nam

Thống kê mới đây của Hiệp hội doanh nghiệp (DN) logistics Việt Nam cho thấy, cả nước hiện có khoảng trên 1.300 DN logistics đang hoạt động, bao gồm cả DN có vốn nước ngoài. Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những DN nhỏ và vừa (DNNVV).

Một số DN lớn như: Công ty Transimex Saigon, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Gemadept, Vietrans, Vietfracht… Dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện có quy mô khoảng 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ logistics trong những năm qua là từ 16 – 20%/năm.

Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 16 – 20%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, các DN logistics mới chỉ cung cấp một số dịch vụ trong chuỗi logistics. Các dịch vụ logistics chủ yếu mà các DN kinh doanh logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho… còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistisc mặc dù cũng có một số DN cung ứng nhưng số lượng không nhiều và chưa thực sự được quan tâm phát triển.

Trong 30 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới, hiện đã có tới 25 tập đoàn thâm nhập thị trường Việt Nam, chiếm lĩnh 75% thị phần, chủ yếu là các lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng cao. Ngược lại, với khoảng 1/4 nhỏ hẹp và khó khăn còn lại, các DN nội tự “trồi sụt”, “giành giật” từng cơ hội.

Thị phần nhỏ hẹp, giá trị gia tăng thấp, khiến chi phí cho dịch vụ logistics ở Việt Nam được đánh giá đang ở mức độ quá cao. Không chỉ vậy, năng lực của các DN Logistics Việt Nam còn hạn chế bởi chất lượng cán bộ không đáp ứng được nhu cầu. Trong số các DN nội địa, có tới 93 – 95% người lao động không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…

Đánh giá logistics Việt Nam qua mô hình SWOT

Điểm mạnh

Những điểm mạnh của logistic Việt Nam có thể kể đến gồm:

– Việt Nam có chỉ số LPI (Logistics performance index) theo báo cáo Ngân hàng Thế giới năm 2014 xếp hạng 48/155 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với xếp hạng tại 3 báo cáo trước đây (vào các năm 2007, 2010, 2012) và dẫn đầu về hoạt động logistics trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng phát triển mạnh mẽ về hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics trong thời gian sắp tới.

– Số DN thành lập và hoạt động trong ngành khá lớn gồm nhiều thành phần, cả nước có khoảng 1.300 DN cung ứng dịch vụ logistics (vượt qua Thái lan, Singapore) tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh – nơi thu hút trên 70% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Các công ty logistics đa quốc gia hàng đầu trên thế giới cũng đã có mặt tại Việt Nam như Fedex, Maersk, DB Schenker, APL, DHL, NYK Logistics… và hoạt động dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong việc cung ứng dịch vụ 3PL với trình độ công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp như tại các nước phát triển.

Các DN Việt Nam sở hữu phần lớn kho bãi, khiến DN nước ngoài phải thuê lại hoặc liên kết, liên doanh để phục vụ dịch vụ logistics.

Tốc độ tăng trưởng doanh thu thị trường logistics ở mức cao, khoảng 25%/năm. Quy mô thị trường đạt hơn 20 tỷ USD và vẫn chưa được khai thác hết.

Điểm yếu

Tuy số lượng đông nhưng hầu như các DN logistisc Việt Nam là các DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho các công ty nước ngoài.

Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, ứng dụng công nghệ thông tin chưa hiệu quả nên chi phí logictics tại Việt Nam khá cao, chiếm 25% GDP (so với các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của dịch vụ, hàng hóa của các DN Việt Nam.

Tiềm lực tài chính của các DN logistics Việt Nam yếu (80% DN thành lập có vốn pháp định từ 1,5 – 2 tỷ đồng), chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, khả năng kết nối tổ chức mạng lưới toàn cầu, hệ thống thông tin chưa rõ ràng, quy mô hoạt động chưa vượt ra khỏi quy mô trong nước và khu vực.

Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam. Khả năng cạnh tranh của các DN nội địa cũng còn thấp so với DN FDI.

Từ khóa » Swot Ngành Vận Tải