| Thư Mục | | Lời Phi Lộ | | Lời Giới Thiệu | | Cách Sử Dụng | | Dẫn Giải | | Diêu Dụng | | Cảm Nghĩ | | Ẩm Thực | | Chợ Quê | | Cội Nguồn | | Cổ Tích | | Lễ Hội | | Lịch Sử | | Ngôn Ngữ | | Nhân Vật Nữ | | Nhạc Cụ Việt Nam | | Phong Tục Tập Quán | | Quê Ta | | Tiền Tệ Việt Nam | | Tiểu Luận | - Ca Dao
- Câu Đố
- Dân Ca
- Di Tích
- Lịch Sử
- Linh Tinh
- Nghệ Thuật
- Ngôn Ngữ
- Phong Tục
- Tín Ngưỡng
- Tục Ngữ/TN
- Văn Hóa
| | Văn Minh Cổ | | Vui Ca Dao | | Trang Nhạc Dân Ca | | Trang Chủ | | Tìm Bài Trong Toàn Trang Ca Dao Tục Ngữ bằng:  | | | | | Dị bản Thúng Xôi Rền Hà Phương Hoài Lịch sử nam tiến của dân tộc ta cho ta thấy tại vùng định cư mới, dân nhập cư dù cố vẫn giữ gia sản văn hóa nguyên gốc nhưng lần lần cũng đã hài hòa với phong tục tập quán, ngôn ngữ, giọng nói của bản địa mà tạo thành một nếp sống mới. Ca Dao cũng theo họ và rồi từ từ đổi thay theo sự suy tư hợp với phong tục và ngôn ngữ mới. Bài Ca Dao Một Thúng Xôi Rền Mẹ em tham thúng xôi rền (dền) Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng. Em đã bảo mẹ rằng đừng Mẹ hấm (lườm) mẹ hứ (nguýt) mẹ bưng ngay (xôi) vào Bây giờ chồng thấp vợ cao Như đôi đũa lệch so sao cho bằng (vừa). (e-cadao.com Câu số 3975 ) Đã biến dạng như Dị bản Khánh Hòa (Quả Xôi Rền): Hai tay bưng quả xôi rền Cha ham con heo trắng, mẹ ham tiền cảnh Hưng Buổi xưa kia thưa thiệt xin đừng Cha mẹ ép uổng biểu ưng kẻo già (cho rồi) Bây giờ nghiệp báo oan gia Nó đánh trong nhà, nó đánh ra sân Mồ cha tám kiếp nợ trần Đi bán trầu héo mà bưng (mua) con về (e-cadao.com Câu số 39047 ) Xôi Theo Từ điển bách khoa toàn thư thì XÔI là món ăn bằng gạo nếp ngâm nước, đồ chín bằng hơi nước, làm cho hạt gạo dẻo dính. Là lương thực chính của hầu khắp các cư dân nông nghiệp trồng lúa thời sơ khai ở Đông Nam Á. Về sau, cơm tẻ mới trở thành lương thực chính ở nhiều dân tộc vì lúa tẻ dễ trồng hơn và cho năng suất cao. Hiện nay, ở một số cư dân vùng núi (như Tây Bắc, dọc Trường Sơn - Tây Nguyên…) vẫn tồn tại tập quán dùng Xôi trong bữa ăn hàng ngày. Xôi thường được đồ lẫn với lạc, đỗ đen, đỗ xanh (để làm Xôi xéo, Xôi hoa cau, Xôi vò), gấc, dừa, ngô, sắn...; ở miền núi còn có Xôi nếp cẩm (loại có màu tím) thường ăn với mật ong. Ở Nam Bộ có Xôi nướng (Xôi trắng, gói lá chuối tươi nướng trên than hồng). Ở nhiều dân tộc, Xôi là thức ăn ngon dùng để đãi khách. Xôi còn là lễ vật quan trọng dùng để dâng cúng tổ tiên và thần linh. Rền • Dẻo đều: Xôi rền; Bánh chưng rền. • Liên tiếp từng hồi: Sấm rền; Đi chơi rền. Chẵn rền, lẻ rền. Chẵn liền hoặc lẻ liền mấy ván xóc đĩa. Bài ca dao “Quả Xôi Rền” đã thay đổi hầu như toàn diện dù rằng vẫn giữ được kết cấu và ý nghĩa nguyên thủy của bài “Thúng Xôi Rền” – “Cha mẹ muốn cho con mình được hạnh phúc trong đời sống hôn nhân dựa trên căn bản vật chất, tiền tài” “Mẹ em tham thúng xôi rền (dền)” (Nguyên bản) “Hai tay bưng quả xôi rền” (Dị bản Khánh Hòa) Bài nguyên gốc người con gái kết án ngay rằng người mẹ tham “thúng xôi rền” và: “Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.” (Nguyên bản) Nhưng dị bản thì nhẹ nhàng hơn, vì khi thấy sự kiện xảy ra: “Hai tay bưng quả xôi rền”. (Dị bản Khánh Hòa) Dù nhẹ nhàng nhưng khi đi vào điểm chính thì sự trách móc cha mẹ làm lỡ duyên mình cũng gay gắt như nhau, có thể còn nặng nề hơn và đã kéo người cha vào trận: “Cha ham con heo trắng, mẹ ham tiền cảnh Hưng” (Dị bản Khánh Hòa) Ở bản gốc: Người con gái than dù đã cương quyết bảo "mẹ đừng nhận quà lễ của người ta": “Em đã bảo mẹ rằng đừng” (Nguyên bản) Người mẹ thấy con gái mình ương ngạnh, bà đã nổi giận, bất chấp ý kiến của con: “Mẹ hấm (lườm) mẹ hứ (nguýt) mẹ bưng ngay (xôi) vào” (Nguyên bản) Trong khi dị bản Khánh Hòa thì nàng năn nỉ cha mẹ xin đừng nhận mâm lễ: “Buổi xưa kia thưa thiệt xin đừng” (Dị bản Khánh Hòa) và cha mẹ không mắng mỏ mà chỉ khuyên ngọt: “Cha mẹ ép uổng biểu ưng kẻo già (cho rồi)” Ở bản gốc cho ta thấy rằng sau khi về nhà chồng người con gái mới chưng hửng là đức ông chồng của mình thuộc loại người thiếu thước không cân xứng với tầm vóc của nàng. “Bây giờ chồng thấp vợ cao Như đôi đũa lệch so sao cho bằng (vừa)” (Nguyên bản) Ở dị bản Khánh Hòa hoàn cảnh của người vợ do sự sắp đặt của cha mẹ đã trở thành quá tồi tệ, nàng phải chịu bao đòn hằn vì anh chồng thô lỗ cọc cằn. “Bây giờ nghiệp báo oan gia Nó đánh trong nhà, nó đánh ra sân” (Dị bản Khánh Hòa) Nàng rơi vào hoàn cảnh đau thương nhưng không biết làm sao để thoát khỏi cho nên đã thốt lên những lời cay đắng: “Mồ cha tám kiếp nợ trần Đi bán trầu héo mà bưng (mua) con về” (Dị bản Khánh Hòa) Trong thời phong kiến việc quyết định việc chung thân cho trai hay gái đều do bậc phụ huynh quyết định và tuyển chọn. Phận con cái chỉ biết cúi đầu vâng theo. Ngoài hai bài “Thúng Xôi Rền” và “Quả Xôi Rền” trên, kho tàng ca dao có rất nhiều bài tả duyên phận éo le trắc trở của người đàn bà: Con chim bị ná, Con cá bị câu, Anh với em ý hợp tâm đầu, Hai bên cha mẹ là sầu đôi ta Đôi ta như lúa đòng đòng Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha Đôi ta như chỉ xe ba Cha mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều Dĩa nghiêng mài mực Bút chực đề thơ, Phụ mẫu ơi nghĩ lại cho con nhờ, Khoan khoan hạ bút, kẻo hư tờ giấy thơm. Trách lòng cha mẹ vụng toan, Bông búp chẳng bán để tàn ai mua Sở dĩ đôi trai gái yêu nhau, thề nguyền sống với nhau cho đến đầu bạc răng long mà phải chịu cảnh chia lìa cũng chỉ vì Đạo Hiếu: Con cái không thể tự quyết định cho duyên phận của mình: Phụ mẫu sơ sinh để cho phụ mẫu định Em nỡ nào trái lịnh mẹ cha Phụ mẫu tôi già đầu bạc như hạt đậu nhành dưa Ơn tôi chưa đền, nghĩa tôi chưa trả Anh bảo tôi giục ngựa, buông cương sao đành Anh thương em còn sợ nỗi mẹ cha Thuở nay áo mặc khó qua khỏi đầu Đạo mẹ cha mất đà khó kiếm Nghĩa can thường chẳng hiếm chi nơi! Dù tình đã nặng nhưng câu hỏi “liệu mẹ cha có bằng lòng hay không?” vẫn đè nặng trong tâm tư của đôi lứa: Tàu Nam Vang chạy ngang sông Hậu Tàu Vĩnh Thuận hay đậu Tam Bình Đôi ta nặng nghĩa nặng tình Biết cha với mẹ hay chuyện chúng mình ra sao? Để mong rằng cha mẹ thương tưởng mà tác thành cho!!! Dòm lên trời đang mưa, đang chuyển Dòm xuống biển bên đây lở, bên kia bồi. Đôi ta thương lỡ nhau rồi Chàng than, thiếp thở, phụ mẫu ngồi sao yên Chữ môn đăng hộ đối là điều quan tâm lớn lao giữa bậc cha mẹ cho nên ngoài việc xét đến chọn một cô dâu hay chàng rể xứng hợp, đủ điều kiện vật chất bảo đảm được hạnh phúc và sự thịnh vượng cho gia đình mới của con mình hay không, sui gia cũng không kém phần quan trọng. Nhiều trường hợp, mọi sự đều tốt đẹp duy chỉ ông sui hoặc bà sui có chút bất hòa nào đó thì chuyện hợp duyên của đôi trẻ cũng bất thành, trong văn chương Tây Âu cũng có truyện Roméo and Juliette: Cây đa trốc gốc, thợ mộc đương cưa Anh với em bề ngang cũng xứng, bề đứng cũng vừa Bởi tại cha với mẹ kén lừa sui gia. Hai đứa mình hòa, phụ mẫu không hòa, Tỉ như nước lạnh, pha trà sao ra? Và: Nhà giàu ngồi mát bát vàng Nàng tham chốn ấy anh sang làm gì. Xưa kia nói nói thề thề Cá trê chui ống lọt về giếng khơi Mới hay lấy vợ trên đời Chẳng tại trời, tại không tiền nằm không. Dù em nên vợ nên chồng Con bế con bồng nghĩ lại duyên xưa Trời có mây mà chẳng có mưa Sao em lại nỡ đong đưa với tình? Mới hay duyên nợ ba sinh Nhà giàu cướp cả cái tình đôi ta Anh chẳng trách mẹ trách cha Trách đời chênh lệch hóa ra thế này! Trai gái khi đến tuổi yêu nhau dù thành hay không, ngoài trông nhờ vào người mai mối, trên phương diện tâm linh, ca dao thường nhấn mạnh đến một yếu tố đậm nét đó là Ông Tơ, Bà Nguyệt. Theo điển tích: Ông Tơ, còn gọi là Nguyệt Lão/Bà Nguyệt: Ông lão tóc và râu bạc phơ ngồi dưới bóng trăng, tức vị thần xe duyên cho những cặp trai gái nào có căn tiền định, người ta gọi là Ông Tơ hay Bà Nguyệt. Do sự tích ông Vi Cố trong lúc đi ngoạn cảnh vào một đêm trăng, thấy có ông lão tóc bạc phơ ngồi dưới bóng trăng, trước một tòa cổ miếu bên đường, tay ông lão cầm một quyển sổ và mớ chỉ hồng. Thấy lạ, Vi Cố hỏi thì ông lão nói :" Ta đây là Nguyệt Lão, cuốn hôn thư này dùng để ghi tên những đôi trai gái phải lấy nhau và những sợi chỉ hồng này dùng để cột họ lại thành đôi vợ chồng". Nói xong, Nguyệt Lão cho Vi Cố xem, bên trong cuốn sổ có ghi chép rất nhiều tên tuổi của những đôi trai gái, mà họ sẽ được nên duyên chồng vợ với nhau. Sẵn dịp, Vi Cố nhờ Nguyệt Lão xem giùm căn duyên của mình, thì Nguyệt Lão cho Vi Cố biết rằng, người vợ tương lai của Vi Cố sẽ là đứa con gái của mụ ăn mày trước chợ. Tin vào lời của vị tiên tri, nên Vi Cố sợ bị nhục, bèn lấy dao ra chợ chém vào đầu đứa con gái của mụ ăn mày, làm máu chảy đầm đìa, rồi sau đó Vi Cố trốn đi mất. Sau này Vi Cố lấy đứa con gái của một vị quan làm vợ. Khi tình cờ thấy trên đầu của người vợ mình có vết thẹo lớn, hỏi ra mới biết nàng đúng là đứa con gái của mụ ăn mày trước chợ đã bị chính Vi Cố chém vào đầu, vì bị bỏ rơi, nên đã được một vị quan mang về nuôi nấng cho đến ngày khôn lớn. Người xưa tin rằng: chuyện duyên nợ là do Trời định, nên khi những cặp uyên ương đã trót thề nguyền yêu thương nhau, nhưng lại không được thành vợ thành chồng, là bởi Nguyệt Lão không chịu xe duyên cho: Căn duyên ai đã phá rồi Ông Tơ ông buộc ông Trời biểu không Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành Vì đâu hoa nọ lìa cành Nợ duyên sớm hết cho đành dạ con * Có bản khác: Căn duyên ai phá cho rồi Bắc thang lên đến tận (lên hỏi) Trời Bắt ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay Đánh rồi lại trói vào cây Hỏi ông Nguyệt lão: đâu dây tơ hồng ? Nào dây xe bắc xe đông Nào dây xe vợ, xe chồng người ta Ông vụng xe tôi lấy phải vợ già Tôi thì đốt cửa, đốt nhà ông đi Bắt ông tơ đánh sơ vài chục, Bắt bà nguyệt nếm mấy mươi hèo, Người ta năm bảy vợ theo Còn tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi! Ngoài các sự kiện nêu trên, để bảo đảm cho hạnh phúc tương lai của con mình các cụ thường xem trọng “Bói toán”, và vì bói toán cũng làm lỡ duyên bao cặp tình yêu nhau thắm thiết: Cọp mà vật mấy ông thầy địa Voi mà giày mấy lão coi ngày Trớ trêu họ khéo đặt bày, Đôi ta thương nhau thiệt, lẽ nào trời không định đôi. Nhiều cặp bất chấp những dị biệt, khó khăn trắc trở quyết cùng nhau đi hết đoạn đường đời với nhau. Cá lưỡi trâu dầm trong nước mắm Qua với nàng duyên thắm mấy trăng Cha mẹ tuy chẳng bằng lòng Nợ duyên đã gắn, chữ đồng quanh năm Bằng không thì: Xin người hiếu tử gắng khuyên Kịp thời nuôi nấng cho tuyền đạo con Kẻo khi sông cạn đá mòn Thơ ngâm nga đọc có còn thấy chi Hoặc: Bước xuống ruộng sâu, sầu đầy tấc dạ Tay ôm bó mạ, nước mắt hai hàng Ai làm trễ chuyến đò ngang Cho sông cạn nước, đôi đàng biệt ly Hà Phương Hoài (10-2009) | |