Nét Riêng Của Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Tạp Chí Sông Hương

Ban biên tập Gửi bài viết Liên hệ quảng cáo Trang chủ Huế luôn luôn mới SỰ KIỆN Phòng chống dịch COVID-19 (new) 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ Tình Sông Hương Văn Thơ Nghiên Cứu & Bình Luận Câu chuyện hôm nay Văn hoá nghệ thuật Festival Huế Kiến trúc Âm nhạc Sân khấu Mỹ thuật Nhiếp ảnh Văn học dân gian Đất và người Huế bốn phương Nhìn ra thế giới Nhịp cầu di sản Trang viết đầu tay Trang thiếu nhi Góc Hoài niệm SỐ ĐẶC BIỆT CHUYÊN ĐỀ Giá sách Sông Hương Tác phẩm hay Thông tin Cơ quan - Doanh nghiệp Tác giả - Tác phẩm Giá sách Sông Hương Tạp chí Sông Hương - Số 7 (T.6-1984) Nét riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ 14:32 | 05/11/2010 HỒNG DIỆU(Nhân đọc Trái tim sinh nở và Bài thơ không năm tháng *) Nét riêng của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ Ảnh: Internet
Ấn tượng rõ nét nhất đối với tôi về thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có từ khi đọc bài Ý nghĩ chị viết cách đây mươi lăm năm. Do một sự tình cờ, lần đầu tiên tôi được thấy bài thơ này trong sổ tay một anh bộ đội, sau đó mới đọc lại trên báo Văn nghệ (số 366 ra ngày 16-10-1970). Bài thơ thật ngắn.Ý NGHĨ Những cơn mưaQuen mà rất lạMưa chải dài cây láĐọng ngấn tròn bâng khuângMưa đi đâu về đâuChẳng ai biết nữaChỉ biết sau cơn mưaTrời không còn vôi vữaChỉ biết sau cơn mưaMặt đất thành mới mẻCon gà đi nhặt thócNắng lại vàng trên đồngCây đâm chồi nẩy lộcCát nhìn thêm mênh mông. 12-1969Một vài cách diễn đạt nào đấy trong bài thơ, bây giờ đã trở nên ít nhiều mòn sáo, nhưng vào hồi ấy có thể coi là mới. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn tôi muốn nói ở đây chưa phải chuyện mới cũ, mà ở chỗ Ý nghĩ sớm cho thấy tác giả của nó có một tâm hồn thơ, có nghệ thuật làm thơ - mặc dù như Mỹ Dạ gần đây có nói, bấy giờ đang là lúc chị “tập tễnh vào nghề”.

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Mỹ Dạ làm thơ hay nói đúng hơn là in thơ trên báo chí không nhiều - nếu không muốn nói là ít - so với những bạn thơ khác. Và gần hai chục năm trời, chị cũng chỉ có một tập và nửa tập, cộng lại mới được năm chục bài. Nhưng thơ Mỹ Dạ khởi sắc khá nhanh. Sau khi viết Ý nghĩ vài ba năm, chị đã có những bài làm người đọc ngạc nhiên - nhất là Khoảng trời, hố bom (một trong bốn bài thơ của chị được tặng giải nhất, cùng một số bạn thơ khác, trong cuộc thi thơ 1972-1973 của báo Văn nghệ). Cái tứ của Khoảng trời, hố bom khá độc đáo. Bài thơ nói chuyện một cô gái mở đường hy sinh vì bom Mỹ. Những giọt mưa đọng lại trong hố bom đã giết cô, như là “nước trời xoa dịu vết thương đau”; nước trong hố bom in “một khoảng trời nho nhỏ”; cái khoảng trời ấy nằm yên trong đất. Ở khoảng trời hố bom, ban đêm thì ánh sao như tâm hồn cô gái “tỏa sáng lung linh”, ban ngày thì đầy nắng với những làn mây trôi qua - mây là thịt da cô “mềm mại, trắng trong”; mặt trời đi vào khoảng trời hố bom như trái tim cô rực sáng. Người người qua đường nhìn xuống hố bom như nhìn vào một tấm gương. Có thể đoán mà không sợ sai rằng, để có một bài như Khoảng trời, hố bom, Mỹ Dạ đã lao động nghệ thuật một cách công phu và đầy sáng tạo.Xét về cả một tứ thơ, những năm sau này Mỹ Dạ chưa có bài nào hay như Khoảng trời, hố bom - theo ý riêng tôi. Nhưng rải rác đó đây có những ý độc đáo, đọc rất thích. Nghĩ về đất, chỉ Mỹ Dạ mới viết một cách duyên dáng thế này:Đất như cô gái yêuGiấu bao điều chưa nóiBỗng nhú những mầm nonKhi nghe mùa xuân gọi.Đứng trước nghĩa trang liệt sĩ, với lòng biết ơn sâu nặng những người đã hy sinh vì dân, vì nước, chỉ Mỹ Dạ mới thấy:Những nấm mồ xếp đều bên nhauNhư những phím chiếc dương cầm của đấtRung lên những âm thanh lặng thầm không tắtChỉ trái tim người mới nghe được mà thôi Trong không gian thơ mộng của buổi sớm ở Đà Lạt, Mỹ Dạ có một cách “nghe - nhìn” riêng:Tiếng chim trong ngân thành vòng thành chuỗiNhư một loài hoa lạ của trời Thả từng chùm xuống thành phố đầy vơiNhìn những người thầy thuốc mặc áo blu trắng đi lại trong đêm ở bệnh viện, chỉ Mỹ Dạ mới so sánh kiểu:Những chiếc áo blu nhẹ như loài hoa riêng của đêm. Trong các nhà thơ nữ, nếu Anh Thơ đã có một lần táo bạo: Mẹ ru bé ngủ êm êm - Như ru vũ trụ ngủ trên tay mình, thì Mỹ Dạ ít nhất đã có hai lần táo bạo. Năm 1971, chị viết:Bố sẽ bế con quay tròn Như xoay mấy vòng quả đấtNăm 1974, chị viết:Ăn với nhau một que kemMùa đông tan ria đầu lưỡiCó những ý đã có trong thơ người khác, Mỹ Dạ biết nói bằng cách nói của chị.Xuân Diệu: Lá bàng xanh non như ăn đượcMỹ Dạ: Nhìn lá/ Cứ ngỡ là lá ngọt/ Bởi lá tơ non mơn mởn quá chừng.Xuân Diệu hỏi đất trời về sự sinh nở khi nhìn “quả sấu non trên cao”: Ôi từ không đến có - Xảy ra như thế nào? Mỹ Dạ thì lại hỏi:Cái phút hoa quỳnh nởNó thế nào hở trăng?Nó thế nào hở sao?Nó thế nào hở gió?(Cũng may mà Mỹ Dạ biết dừng lại ở đấy. Chỉ quá đi một lần nữa chị khó có thể tránh được cái tiếng: lặp lại người khác, dù vô tình hay hữu ý). Giống như một số không nhiều những người làm thơ, Mỹ Dạ nói được những điều ai cũng biết nhưng không nói ra được, mà nếu có nói thì cũng nói bằng cách khác. Chẳng hạn:Ngày tôi chưa ra đờiNỗi mong chờ đã cóNgày tôi vừa tuổi nhớ Đã nghe “Đợi anh về”.Hay là:Bạn gái đáng yêu đến thế Cho tôi quên hết nhọc nhằnCho tôi về thời con gái Sáng tròn như một vầng trăngÂm hưởng chính trong thơ Mỹ Dạ xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm, không ồn ào. Nhưng có một lần - quý thay - nó thật khỏe mạnh, cái khỏe mạnh ít thấy ở những cây bút thơ phụ nữ:Giấu bao cơn bão trong lòng Cây buồn đứng ngắm mênh mông biển trời Mình đầm gió mặn mồ hôiNgả trong nóng nực mặt trời trưa nay.Một điều cũng dễ thấy là, khi triển khai ý thơ, Mỹ Dạ thường bám sát nội dung hơn là chạy theo vần điệu. Chị làm chủ được mình, không cho ngôn từ trói buộc những suy nghĩ, không để vần điệu lái ngòi bút sang một nẻo đường khác nẻo đường đã định. Những năm trước kia, ở bài Đi trong đêm màu trắng, chị viết:Ta đi lên đồi cát mịnBiển ở ngoài kia nơi tiếng sóng đang reoCát trắng quá nên đêm xuống chậmHay Bảo Ninh mãi vẫn ban ngày?Gần đây, ở bài Như lá, chị viết:Tôi đi giữa mùa nonSững sờ trong bao dáng láNhớ aiTôi gửi nụ hôn lên trờiRõ ràng, ở cả hai lần này (và nhiều lần khác nữa), nếu Mỹ Dạ không chủ động hy sinh một ít vần điệu, chắc gì chị giữ lại được những ý như vậy? Mỹ Dạ còn để ngòi bút mình thử thách trên nhiều thể thơ. Đó là một biện pháp làm cho thơ bớt đơn điệu…Tất nhiên, với cương vị một người đọc thơ, một người yêu thơ, hoặc với danh nghĩa một người phê bình thơ hay với tư cách một người bạn Mỹ Dạ, tôi còn có thể mong mỏi ở thơ chị điều này điều khác. Chẳng hạn, chị nên đưa vào thơ nhiều hơn nữa cái bộn bề, tươi mới của hiện thực (tôi nghĩ đến trường hợp Huy Cận với tập Trời mỗi ngày lại sáng, và Phạm Tiến Duật với nhiều bài thơ trong những năm chống Mỹ); hay là chị nên đa dạng hơn nữa trong cách cấu trúc những bài thơ; hoặc là chị nên thế này thế nọ… Nhưng có lẽ hãy dành cho một dịp khác.Bằng vào những dẫn chứng nêu trên, ở đây tôi chỉ muốn khẳng định một điều: Mỹ Dạ có ý thức lao động nghiêm túc trong việc làm thơ. Ý thức ấy đem lại một kết quả rõ rệt: thơ chị có những nét riêng, có bản sắc riêng. Cũng chẳng ngại là sớm đối với một người đã làm thơ gần hai chục năm như Mỹ Dạ, khi nói rằng bản sắc riêng ấy là phong cách của thơ chị, dù cho phong cách còn gồm những điều khác nữa, và phong cách không phải là cái gì “nhất thành bất biến”. Mà bản sắc riêng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với một nhà thơ. Bởi vì, chắc ai cũng biết, trong văn chương - mà có lẽ trong lĩnh vực nào cũng vậy thôi xét về một phương diện nào đấy, nếu một người không có cái gì là của riêng mình thì người ấy không có gì hết. Cái đáng quý nhất của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, theo tôi, chính là ở đó.
Hà Nội 3-1984H.D.(7/6-84)----------------------------(*) Trái tim sinh nở, phần thơ in trong tập Trái tim nỗi nhớ, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ý Nhi, NXB Văn học, 1974, Bài thơ không năm tháng, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, NXB Tác phẩm Mới, 1983.
Các bài mới Trang thơ đầu tay 6-84 (18/01/2011) Đắng như hạnh phúc (19/11/2010) Thơ Sông Hương 6-84 (19/11/2010) (19/11/2010) Con chim nhỏ đáng thương (16/11/2010) Những nét đơn giản có ích trong kiến trúc lăng Minh Mạng (12/11/2010) Nước mắt chim cu (12/11/2010) Trang thơ Thiếu nhi 6-84 (12/11/2010) Các bài đã đăng Dã Tràng (05/11/2010) Chùa Thiên Mụ qua một số bài văn bia (05/11/2010) Vài nét về truyền thống sân khấu ở Huế (02/11/2010) Xung quanh vấn đề không ngừng nâng cao chất lượng nghệ thuật sân khấu hiện nay (28/10/2010) Nhà văn Bửu Đình qua ngòi bút của một nhà văn Pháp (28/10/2010) Đọc “Về một mùa gió thổi” (*) (26/10/2010) Riêng và chung trong thơ tình hiện đại (1945-1975) (22/10/2010) Tạp chí Sông Hương Số 429 (T.11-24) Số 428 (T.10-24) » Năm 1983 » Năm 1984 » Năm 1985 » Năm 1986 » Năm 1987 » Năm 1988 » Năm 1989 » Năm 1990 » Năm 1991 » Năm 1992 » Năm 1993 » Năm 1994 » Năm 1999 » Năm 2000 » Năm 2001 » Năm 2002 » Năm 2003 » Năm 2004 » Năm 2005 » Năm 2006 » Năm 2007 » Năm 2008 » Năm 2009 » Năm 2010 » Năm 2011 » Năm 2012 » Năm 2013 » Năm 2014 » Năm 2015 » Năm 2016 » Năm 2017 » Năm 2018 » Năm 2019 » Năm 2020 » Năm 2021 » Năm 2022 » Năm 2023 » Năm 2024 Góc ảnh đẹp Những khoảnh khắc đẹp 10-24 Bạn đọc nhiều Trang thơ Trần Ngọc Mỹ Trang thơ Trần Ngọc Mỹ Văn chương như là đức tin tôn giáo Văn chương như là đức tin tôn giáo Phản ánh và sáng tạo Phản ánh và sáng tạo Những khoảnh khắc đẹp 10-24 Những khoảnh khắc đẹp 10-24 Sự nghiệp quan trường và tư tưởng tiến bộ của danh nhân Đặng Huy Trứ Sự nghiệp quan trường và tư tưởng tiến bộ của danh nhân Đặng Huy Trứ Quảng cáo

Tòa soạn: 09 Phạm Hồng Thái, thành phố Huế Điện thoại: 0234. 3686669 (Trị sự) - 3822338 (VP) - 3846066 Ban Biên tập: songhuongtapchi@gmail.com Ban Trị sự: tapchisonghuong.vn@gmail.com

© Bản quyền thuộc về Tạp chí Sông Hương ® Ghi rõ nguồn "Tạp chí Sông Hương Online" khi phát hành lại thông tin từ website này.

Từ khóa » Bài Thơ Của Lâm Thị Mỹ Dạ