Về Trách Nhiệm Công Vụ Trong Các Cơ Quan Nhà Nước ở Việt Nam
Có thể bạn quan tâm
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn về trách nhiệm và trách nhiệm công vụ, bài viết đề xuất những giải pháp góp phần thực hiện mục tiêu đề cao tính trách nhiệm với sự tận tụy, mẫn cán và hoàn thành vai trò, bổn phận của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ ở Việt Nam.
1. Mối quan hệ giữa trách nhiệm, ý thức trách nhiệm và chịu trách nhiệm
Trách nhiệm của cá nhân là việc một người đảm bảo cho kết quả được thực hiện trong tương lai một cách chính xác và kịp thời. Nếu không hoàn thành trách nhiệm là mắc lỗi và người đó phải chịu hậu quả do lỗi của mình. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Trách nhiệm là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”(1). Hiện nay, yêu cầu về trách nhiệm là phải làm việc theo đúng quy định pháp luật và phải tạo ra được kết quả theo những tiêu chuẩn cụ thể. Nếu kết quả không đạt yêu cầu đặt ra thì phải chịu một phần trách nhiệm tương ứng. Nghĩa là, người lao động đến làm việc tại nhiệm sở đúng giờ (không đi muộn, không về sớm) mới chỉ thực hiện đúng quy định về thời gian làm việc chứ chưa hẳn đã có trách nhiệm với công việc được giao, bởi hoạt động của cá nhân chưa được xem xét về kết quả đạt được theo yêu cầu hay kế hoạch của cơ quan, đơn vị. Để đảm bảo yêu cầu về cả thời gian và kết quả thực hiện công việc, đòi hỏi mỗi người phải có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc được giao, đồng thời dám chịu trách nhiệm về kết quả công việc mình đã thực hiện.
Ý thức trách nhiệm là thái độ của người có chức vụ với công việc thuộc thẩm quyền và toàn bộ hoạt động của tổ chức do họ lãnh đạo. Người có ý thức trách nhiệm tốt luôn tự đặt ra cho mình trách nhiệm với công việc được giao, với vai trò, vị trí của bản thân trong các mối quan hệ. Ý thức trách nhiệm là việc nhận thức một cách đầy đủ về nhiệm vụ được giao với những công việc cụ thể phải hoàn thành cả về số lượng, chất lượng, thời hạn theo quy định. Mức độ ý thức trách nhiệm của một người phản ánh thái độ làm việc của họ, đồng thời cũng ảnh hưởng quyết định đến thành tích công việc của họ trên thực tế. Do vậy, khi nói tới cấu trúc hoàn chỉnh của thuật ngữ “trách nhiệm” thì ý thức trách nhiệm và việc chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện phải có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, tạo nên cấu trúc của mục tiêu, yêu cầu và các biện pháp đảm bảo cho trách nhiệm của người lao động được thực hiện.
2. Trách nhiệm công vụ và các biểu hiện của trách nhiệm công vụ
2.1. Công vụ và trách nhiệm công vụ
Khi nghiên cứu thuật ngữ “công vụ”, có nhiều cách hiểu khác nhau gắn với các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động và con người thực thi hoạt động đó. Khoa học luật hành chính nhiều nước cho rằng, công vụ có nội dung thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, an ninh, quốc phòng nhằm thoả mãn nhu cầu chung của xã hội trên cơ sở đường lối chính trị đã hoạch định(2). Mọi hoạt động của Nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống để đảm bảo trật tự xã hội. Mặt khác, các đạo luật đều được cụ thể hóa bằng những quyết định của cơ quan quản lý nhà nước. Việc thực hiện các quyết định hành chính nhà nước chính là hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Do đó, công vụ là một khái niệm mang tính lịch sử và gắn liền với thiết chế chính trị của mỗi quốc gia.
Hiện nay đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về công vụ, không có khái niệm chung cho tất cả các quốc gia, đồng thời khái niệm này luôn được thay đổi để thích ứng với bối cảnh chính trị - xã hội ở mỗi thời kỳ. Theo đó, công vụ được xem xét ở những phạm vi, cấp độ khác nhau: thứ nhất, công vụ được hiểu là các hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức thuộc khu vực công, kể cả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp (bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình… do Nhà nước thành lập) và các cơ quan, đơn vị quân đội, công an; thứ hai, công vụ được hiểu là hoạt động do người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện nhằm tách biệt những hoạt động có tính chính trị với hoạt động chuyên môn nghề nghiệp của các đối tượng trong bộ máy nhà nước; thứ ba, công vụ là hoạt động do công chức làm việc trong bộ máy hành pháp thực hiện. Mặc dù có nhiều quan niệm ở các cấp độ khác nhau về công vụ nhà nước, nhưng điểm chung nhất của các quan niệm trên là tính chất phục vụ cộng đồng, xã hội do các cơ quan nhà nước (hay do Nhà nước thành lập) thực hiện theo quy định pháp luật. Ở Việt Nam, Điều 2 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định hoạt động công vụ “là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan”(3). Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn được giao.
Trách nhiệm công vụ không chỉ là một khái niệm gắn với quản lý nhân sự trong khu vực công mà còn mang tính chính trị, tạo dựng hình ảnh của chế độ nhà nước, của Nhà nước trong cộng đồng xã hội. Trách nhiệm công vụ là việc cán bộ, công chức, viên chức tự ý thức đầy đủ về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ đối với nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Trách nhiệm trong hoạt động công vụ của công chức có mối quan hệ chặt chẽ với kết quả hoạt động công vụ gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được tổ chức, cấp trên trao cho trên cơ sở luật định. Như vậy, trách nhiệm công vụ bao gồm:
- Trách nhiệm trước tổ chức/cơ quan và cấp trên. Loại trách nhiệm này hình thành khi người thực hiện công vụ không chỉ quan tâm đến kết quả công việc của mình mà còn quan tâm đến kết quả chung của tổ chức. Họ ý thức được sự gắn kết giữa quyền lợi, lợi ích của tổ chức với lợi ích của bản thân. Trong một số trường hợp, cá nhân sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để bảo vệ lợi ích của tổ chức xuất phát từ ý thức bảo vệ lợi ích của tổ chức cũng chính là bảo vệ lợi ích cá nhân của mình.
- Trách nhiệm trước công việc mà trước hết là trách nhiệm đối với chính bản thân mình. Đây là trách nhiệm với sự lựa chọn của mình khi trở thành thành viên của một tổ chức và theo đuổi sự nghiệp, trách nhiệm với những gì mình đã cam kết để được hưởng các đãi ngộ.
- Trách nhiệm đối với xã hội từ các tác động do hành vi mà họ tạo ra. Trách nhiệm xã hội là cam kết của các chủ thể thực thi công vụ đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững cho cộng đồng và xã hội.
2.2. Các biểu hiện của trách nhiệm công vụ
Trong thực thi công vụ, trách nhiệm có nhiều biểu hiện khác nhau như: 1) Trách nhiệm chủ động là việc tổ chức/cá nhân tự giác nhận trách nhiệm từ chỗ nhận thức được trách nhiệm của mình, đây là sự tham gia một cách có ý thức của chủ thể chịu trách nhiệm; 2) Trách nhiệm thụ động là việc tổ chức/cá nhân có trách nhiệm nhờ tác nhân bên ngoài (không bao hàm việc ý thức về trách nhiệm của bản thân) như có sự khuyến khích, động viên, giám sát, kiểm tra và các chế tài theo quy định; 3) Trách nhiệm giả tạo là việc có biểu hiện nhận trách nhiệm bằng ngôn ngữ, nhưng thực tế là không thực hiện trách nhiệm do trong tư tưởng cảm thấy mình bị ép buộc phải nhận trách nhiệm. Những điều này dễ dẫn tới việc bị căng thẳng về tâm lý, ức chế, bức xúc, bất mãn ngầm ở bên trong.
Các mức độ trách nhiệm này được nhận biết thông qua các dấu hiệu về thái độ và hành vi sau:
- Tuân thủ nội quy, quy chế và các quy định của tổ chức dựa trên những cơ sở pháp lý và các chuẩn mực đạo đức xã hội. Ở đây bao gồm cả các quy định hành vi lao động trong lĩnh vực có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ như số lượng, chất lượng công việc, an toàn vệ sinh lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, các hành vi vi phạm pháp luật lao động, các hình thức xử lý vi phạm kỷ luật…
- Tự giác thực hiện nhiệm vụ: là việc triển khai các trách nhiệm đã quy định hay được giao mà không cần phải có người giám sát, nhắc nhở, đôn đốc, thúc giục mới chịu làm. Chính mình tự giám sát mình, làm việc một cách tận tâm, cẩn thận, chu đáo và thực hiện đúng cam kết về kết quả, thời gian, chất lượng công việc.
- Chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ: là sự thực hiện công việc không theo một khuôn mẫu cứng nhắc mà biết ứng phó linh hoạt tùy theo tình huống, không chờ việc đến tay mới làm mà có những dự đoán trước để chuẩn bị cho các yêu cầu mới. Trong triển khai thực hiện công việc, chủ động nghiên cứu quy trình thực hiện công việc, tận dụng tối đa thời gian cá nhân. Khi có các vấn đề phát sinh thì mạnh dạn và chủ động đề xuất, kiến nghị; nếu khó khăn thì chủ động xin ý kiến chỉ đạo hoặc đề nghị sự hỗ trợ từ cấp trên nhằm đảm bảo không phát sinh các sự cố gây hậu quả đáng tiếc trong công vụ.
- Có tinh thần nỗ lực, cầu thị, hợp tác, chia sẻ: luôn nỗ lực hết mình, tự giác khắc phục khó khăn và hoàn cảnh cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sẵn sàng đóng góp ý kiến, chia sẻ kinh nghiệm, đóng góp công sức cho cấp trên, đồng nghiệp một cách tự nguyện, tự giác góp phần xây dựng, phát triển tổ chức. Có tinh thần hợp tác cao trong công việc với các thành viên khác trong tổ chức.
- Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm: tích cực và tự giác thực hiện công việc đảm bảo yêu cầu về kết quả, sẵn sàng giải trình kết quả khi cấp trên yêu cầu hoặc có các ý kiến trái chiều về quá trình thực hiện. Quá trình thực hiện công việc nếu phát sinh hậu quả thì biết nhìn nhận thiếu sót, có ý thức khắc phục và rút kinh nghiệm, không đùn đẩy trách nhiệm cho người khác hoặc cho tập thể.
3. Giải pháp nâng cao trách nhiệm công vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Vấn đề trách nhiệm công vụ ở Việt Nam được xem xét, đánh giá theo hai nhóm đối tượng là trách nhiệm của cán bộ, công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và trách nhiệm của cán bộ, công chức thừa hành. Trong đó, có những trách nhiệm công vụ mang tính chung cho cả hai nhóm. Điều 3 Luật cán bộ, công chức năm 2008 quy định các nguyên tắc trong thi hành công vụ như: “công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát”, “bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ” nhằm bảo đảm thẩm quyền phải gắn với chức trách được giao. Từ đó, tạo cơ sở nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Điều 5 Luật cán bộ, công chức nhấn mạnh: “Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng” nhằm xác định trách nhiệm trong hoạt động công vụ để xử lý các sai phạm hoặc khen thưởng, đánh giá kết quả thực hiện một cách chính xác và kịp thời. Ngoài ra, trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ liên quan đến thể chế chính trị, chế độ nhà nước và nhân dân (Điều 8); trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong thi hành công vụ (Điều 9). Các quy định liên quan đến đạo đức, văn hóa giao tiếp cũng như những việc cán bộ, công chức không được làm cũng thể hiện trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức. Khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 56 của Luật cán bộ, công chức quy định trách nhiệm là một trong năm nội dung cần thiết khi đánh giá cán bộ và là một trong sáu nội dung cần thiết khi đánh giá công chức.
Trách nhiệm công vụ đối với người giữ vị trí lãnh đạo theo quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008 về cơ bản tiếp cận theo hướng gắn với trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền (tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý công chức) như: trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu (Điều 10); quy định về cơ quan thực hiện tuyển dụng công chức (Điều 39); tổ chức thi nâng ngạch công chức (Điều 46); trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong đào tạo, bồi dưỡng công chức (Điều 48); trách nhiệm đánh giá công chức (Điều 57); chế độ báo cáo về công tác quản lý cán bộ, công chức (Điều 68); quản lý hồ sơ cán bộ, công chức (Điều 69). Trách nhiệm trong hoạt động công vụ thể hiện ở quy định về việc xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ (khoản 1 Điều 30) và từ chức, miễn nhiệm đối với công chức lãnh đạo, quản lý (Điều 54), đối với cán bộ, công chức cấp xã (Điều 64). Việc đánh giá công chức đã được Điều 57 Luật cán bộ, công chức giao trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức sử dụng công chức và người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên quản lý trực tiếp, mà không phải do tập thể đánh giá, bỏ phiếu như trước đây.
Tuy nhiên, tình trạng thiếu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ hiện nay còn khá phổ biến và có nguy cơ làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự thiếu hợp lý về phân công, bố trí, sắp xếp công việc do áp lực về hiệu quả và chất lượng dẫn tới có người không được giao việc hoặc được giao ít việc hay việc ít quan trọng bởi năng lực hạn chế. Tuy nhiên, chế độ đãi ngộ và sự đánh giá giữa người làm nhiều và người làm ít lại không có gì khác biệt, thậm chí một số người tuy làm ít, chịu trách nhiệm thấp nhưng lương và đãi ngộ còn cao hơn những người có khối lượng công việc tương đương hoặc làm nhiều hơn bởi họ ở ngạch, bậc cao hơn. Điều này dẫn tới sự bất cập về ý thức trách nhiệm trong hoạt động công vụ như: những người được giao nhiều việc bị áp lực và căng thẳng do trách nhiệm lớn, số lượng nhiều có thể dẫn tới giảm sút chất lượng công việc; những người do năng lực hạn chế không được giao việc nhiều, không đạt thành tích vẫn được đánh giá tốt, không ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân nên không cần có gắng; một số người đứng đầu ngại va chạm, thiếu bản lĩnh nên khi đánh giá không phân biệt rõ người làm tốt và người làm chưa tốt... Hệ quả là, những cán bộ, công chức hạn chế về năng lực sẽ không phải chịu nhiều thách thức, từ đó không có cơ hội vươn lên và vì vậy càng thiếu trách nhiệm.
Do đó, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm công vụ là việc làm cần thiết để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; làm cơ sở để xử lý khi cán bộ, công chức có hành vi vi phạm, góp phần thiết thực vào công cuộc phòng, chống tham nhũng; là điều kiện để nâng cao năng lực của cán bộ, công chức. Vì vậy, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, khi phân công/giao nhiệm vụ cần đảm bảo người thực thi công vụ hiểu được chính xác trách nhiệm mà mình phải thực hiện và mức độ phải gánh chịu khi không thực hiện đúng trách nhiệm.
Trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ dù thuộc loại nào (trách nhiệm chủ động hoặc trách nhiệm bị động) thì xác lập một cam kết về nhiệm vụ phải thực hiện và kết quả phải hoàn thành với một thời gian nhất định là việc phải hình thành rõ nhất trong phân công và giao việc. Sự thiếu rõ ràng và không chuyên nghiệp trong giao việc dẫn tới người thực thi có thể không làm đúng với yêu cầu, không đạt kết quả như mong muốn, hoặc kéo dài thời gian theo quy định nhưng lại không thể quy trách nhiệm và xử lý vi phạm. Do đó trong nội dung giao việc, cấp trên cần làm rõ để cấp dưới nắm được những yêu cầu như: Bản chất của công việc cần làm là gì; Lợi ích đem lại cho tổ chức và cá nhân khi thực hiện công việc ra sao; Trách nhiệm thực hiện được trao cho tổ chức, cá nhân cụ thể nào, căn cứ vào đâu để trao trách nhiệm đó, họ có khả năng thực hiện trách nhiệm đó đến đâu; Vai trò, vị trí của người thực hiện trong mối quan hệ với cấp trên, đồng nghiệp ra sao khi thực hiện nhiệm vụ được phân công; Thẩm quyền đến đâu khi thực hiện nhiệm vụ; Trách nhiệm cá nhân đối với kết quả công việc (số lượng, chất lượng, thời gian) là gì; Làm thế nào để kiểm soát tiến trình thực hiện trách nhiệm đó; Người được giao nhiệm vụ đã ý thức đầy đủ về trách nhiệm của bản thân trước cơ quan, cấp trên và xã hội hay chưa; Nếu có vi phạm thì chế tài áp dụng nhằm đảm bảo tính chịu trách nhiệm là gì, thi hành dựa trên cơ sở nào và ai là người xử lý.
Những yêu cầu trên là căn cứ để xây dựng các quy phạm pháp luật có tính khả thi để đo lường trách nhiệm, mức độ ý thức về trách nhiệm và khả năng chịu trách nhiệm thông qua các biện pháp chế tài để tác động lên ý thức người thực hiện công vụ. Từ đó, các thành viên trong tổ chức sẽ chấp nhận làm theo và tự nguyện, tự giác điều chỉnh hành vi, thái độ và cảm xúc của mình một cách có trách nhiệm. Trên thực tế, có những công chức thiếu ý thức tổ chức kỷ luật không phải vì họ cố ý vi phạm mà là do họ chưa có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm công vụ.
Hai là, quy định trách nhiệm công vụ gắn trực tiếp với trách nhiệm cá nhân để đảm bảo tính rõ ràng.
Để đảm bảo trách nhiệm công vụ, điều quan trọng phải thiết lập được nhiệm vụ đối với cá nhân và quy trách nhiệm cho họ. Nhiệm vụ cá nhân phải được quy định rõ ràng sẽ là cơ sở để phân công trách nhiệm, xây dựng quy chế phối hợp, xác định chính xác khối lượng, chất lượng và thời gian hoàn thành công việc. Đồng thời, làm rõ mức độ trách nhiệm cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ và nếu có lỗi thì chịu trách nhiệm ra sao. Điều này góp phần khắc phục tình trạng khi đạt kết quả thì cá nhân nhận thành tích về mình, nhưng khi sai phạm thì không quy được trách nhiệm cho ai, không tích cực xử lý và khó khắc phục hậu quả. Để thực hiện trách nhiệm công vụ, cần gắn với cơ chế phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu.
Ba là, trách nhiệm công vụ cần gắn với các biện pháp khen thưởng và xử lý vi phạm để đảm bảo tính thiết thực và khuyến khích việc thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về công vụ.
Đối với những người tận tụy, có trách nhiệm cao với công việc cần phải được đánh giá khách quan, công bằng để kịp thời động viên, khen thưởng. Những người thiếu trách nhiệm trong công việc hoặc để xảy ra hậu quả làm ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng công việc hay uy tín cơ quan thì phải xử lý theo quy định của pháp luật; hoặc bố trí, sắp xếp lại công việc, nếu ở mức độ nghiêm trọng cần buộc ra khỏi nền công vụ. Vì vậy, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với việc thực hiện Luật cán bộ, công chức nói chung và trách nhiệm trong hoạt động công vụ nói riêng là hoạt động cần thiết nhằm kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong thực thi công vụ. Đồng thời, đẩy mạnh việc hoàn thiện quy định về công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức tạo cơ sở thực hiện tinh giản đối với những người năng lực hạn chế là yêu cầu cấp thiết, nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, công bằng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ./.
---------------------------------
Ghi chú:
(1) Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr.1020.
(2) Nguyễn Hữu Hải, Cải cách hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG-ST, H.2016.
(3) Quốc hội, Luật cán bộ, công chức năm 2008.
PGS.TS Nguyễn Hữu Hải, TS Trịnh Thị Thủy - Học viện Hành chính Quốc gia
Theo: https://tcnn.vn/
Từ khóa » Tích Cực Là Gì Từ điển Tiếng Việt
-
Nghĩa Của Từ Tích Cực - Từ điển Việt
-
Tích Cực - Wiktionary Tiếng Việt
-
Tích Cực Là Gì? Hiểu Thêm Văn Hóa Việt - Từ điển Tiếng Việt
-
"tích Cực" Là Gì? Nghĩa Của Từ Tích Cực Trong Tiếng Việt. Từ điển Việt-Việt
-
'tích Cực' Là Gì?, Từ điển Tiếng Việt
-
Từ Tích Cực Là Gì - Tra Cứu Từ điển Tiếng Việt
-
Tích Cực Nghĩa Là Gì? - Từ-điể
-
Từ đồng Nghĩa Là Những Gì Cho Tích Cực - Từ điển ABC
-
TÍCH CỰC - Nghĩa Trong Tiếng Tiếng Anh - Từ điển
-
Tư Duy – Wikipedia Tiếng Việt
-
Vietgle Tra Từ - Định Nghĩa Của Từ 'tích Cực' Trong Từ điển Lạc Việt
-
Hướng Dẫn Sử Dụng Từ điển Oxford Learners' Dictionary