Thơ Haiku

Diễn Đàn Việt Nam Thi Hữu - Powered by VBBForum
  • Help
  • Ghi nhớ?
  • Tìm chi tiết
  • Trang chủ
  • Diễn đàn
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ THI ĐÀN _๑۩۞۩๑*·.¸
  • Thơ Sưu tầm
  • Thơ Haiku
+ Trả lời chủ đề Trang 1/17 1 2 3 11 ... Tiếp CuốiCuối
  • Nhảy tới trang:
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 163 Chủ đề: Thơ Haiku
  • Công cụ bài viết
    • Hiện bản có thể in
    • Email trang này…
    • Theo dõi chủ đề này…
  • Hiển thị
    • Xem bài ở dạng cây (Linear)
    • Xem bài ở dạng lai ghép (Hybird)
    • Xem bài viết ở dạng ren (Threaded)
  1. 10-06-2012 05:53 AM #1 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   

    Thơ Haiku

    Haiku Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Haiku (tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi tắt là haikai (俳諧 bài hài). Mục lục [ẩn]
    • 1 Sự ra đời
    • 2 Nội dung thơ Haiku
    • 3 Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku
    • 4 Niêm luật cơ bản của haiku
    • 5 Ngũ trụ haiku của Nhật Bản
    • 6 Liên kết ngoài
    [sửa] Sự ra đời Thể thơ haiku được ra đời vào thế kỉ 17 và phát triển mạnh vào thời kì Edo (1603 - 1867) khi đã dần mất đi sắc thái trào phúng mà mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền tông. Thiền sư thi sĩ lỗi lạc Matsuo Basho được thừa nhận là người khai sinh ra haiku và Yosa Buson, Masaoka Shiki đã hoàn thiện nó dưới diện mạo và tên gọi như chúng ta thấy ngày nay. Đây có lẽ là thể thơ ngắn nhất thế giới bởi mỗi bài haiku, mặc dù đôi khi ta vẫn thấy có những hình thức khác, nhưng thường chỉ vỏn vẹn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 (17 âm tiết tiếng Nhật có khi chỉ vài ba từ ít ỏi, 3 câu trong cú pháp haiku cũng thường được viết thành một dòng). Chẳng hạn bài thơ con ếch nổi tiếng sau đây của Matsuo Bashō trong tập Xuân nhật (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ, có cú pháp 5+7+5 âm tiết: 古池や Furuikeya (Phư-rư-i-kê-ia)蛙飛び込む Kawazu tobikomu (Ka-oa-dư-tô-bi-kô-mu)水の音 Mizu no oto (Mi-dư-nô-ô-tô)[sửa] Nội dung thơ Haiku Về nội dung có luật cơ bản sau : không mô tả cảm xúc, chủ yếu ghi lại sự việc xảy ra trước mắt. Vì số chữ bị giới hạn trong 17 âm nên thơ Haiku thường chỉ diển tả một sự kiện xảy ra ngay lúc đó, ở thì hiện tại. Sự kiện này có thể liên kết hai ý nghĩ, hay hai ý tưởng khác nhau mà ít khi người ta nghĩ đến cùng một lúc. Ôi những hạt sương ( sự kiện hiện tại)Trân châu từng hạt (ý nghĩ thứ 1)Hiện hình cố hương (ý nghĩ thứ 2)Một bài Haiku Nhật luôn tuân thủ hai nguyên lý tối thiểu, đó là Mùa và Tính Tương Quan Hai Hình Ảnh.Trong thơ bắt buộc phải có “Kigo” (quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả mùa ( không dùng từ xuân, hạ, thu, đông nhưng dùng các từ như hoa anh đào, cành khô, lá vàng ,tuyết trắng ... để chỉ các mùa), và diễn tả một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một hình ảnh nhỏ (đời thường). Tiếng ve kêu râm ran ( tiếng ve kêu chỉ mùa hạ)Như tan vào trong than trong đáÔi, sao tĩnh lặng quá!Ðọc thơ Haiku, ta cảm được vị trí đứng ở ngoài sự kiện của tác giả. Tác giả dường như chỉ chia sẻ với người đọc một sự kiện đã quan sát được. Cỏ hoang trong đồng ruộngDẫy xong bỏ tại chỗPhân bón!Nhưng người đọc vẫn có thể nghiệm được tình cảm của tác giả, một tình cảm nhè nhẹ, bàng bạc trong cả bài thơ, nói lên niềm vui sống hay sự cô đơn, đôi khi cũng nêu ra điểm tác giả thắc mắc về cuộc đời của con người: ngắn ngủi, phù du, trước sự vĩnh hằng của thiên nhiên.Thế giới này như giọt sương kiaCó lẽ là một giọt sươngTuy nhiên, tuy nhiên...Thơ có xu hướng gợi ý hay ám chỉ bóng gió nhẹ nhàng. Thông thường trong thơ đưa ra hai hình ảnh : một hình ảnh trừu tượng sống động và linh hoạt, một hình ảnh cụ thể ghi dấu thời gian và nơi chốn.Trăng soi (hình ảnh trừu tượng)Một bầy ốc nhỏ (hình ảnh cụ thể)Khóc than đáy nồi (nơi chốn cụ thể)Nhà thơ không giải thích hay luận về sự liên kết giữa hai hình ảnh nầy, chỉ diễn tả sự vật theo bản chất tự nhiên của nó . Người làm thơ phải tự đặt mình như một đứa trẻ lúc nào cũng có cảm giác bỡ ngỡ , lạ lùng khi tiếp xúc lần đầu tiên với ngoại giới . Một bài thơ Haiku hay là làm sống lại những gì đã chôn sâu trong ký ức và đưa ra những cảm giác sâu sắc, tế nhị, để tự nó khơi lại trí tưởng tượng và mơ ước của người đọc để người đọc tự suy diễn , cảm nhận .Chim vân tước bayThở ra sương gióDẫm lướt từng mâyThơ như một bài kệ, sàn lọc từng chữ, không dư mà cũng không thiếu, cốt sao nói đến chính cái đang là - "đương hạ tức thị". Nắm bắt thực tại ngay trong giây phút nẩy mầm, cái đang xảy ra lắm khi chuyên chở cả một vũ trụ thu gọn vào trong thời điểm đó, tiểu thế giới và đại thế giới hòa nhập vào nhau. Một diễn tiến trước mắt khiến ta liên tưởng đến một hiện tượng hay biến cố nào đó trong một kinh nghiệm sống của riêng mình . Kỷ xảo của thơ Haiku là giản lược tối đa chữ nghĩa trong thơ để vận dụng trí tưởng tượng nơi người đọc . Không có người làm thơ và kẻ đọc thơ, cả hai nhập làm một, đồng âm cộng hưởng trong niềm rung cảm với sự liên hệ rất tinh tế và hài hòa của đất trời.Thiền tính trong thơ Haiku Thơ Thiền Nhật ban đầu cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa, nhưng đến thế kỷ thứ 17 thì thể thơ Haiku ra đời và phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 19 . Người sáng lập loại thơ này là Thiền sư Matsuo Basho. Năm 1680, Matsuo Basho viết bài thơ Con ếch theo lối Haikai - một thể thơ mới (theo thời điểm bấy giờ) mở đường cho thể thơ Haiku. Các bài Haikai của Basho ngắn, gọn, súc tích từ chữ đến ý, cho thấy cái nhìn và thi tứ của nhà thơ. Những người ngưỡng mộ ông tập làm lối thơ này, và thể Haikai trở nên nghiêm trang, chín chắn hơn để dần trở thành thể Haiku, nói lên cái quan niệm và ghi lại sự rung động của nhà thơ. Sau Basho, có ba nhà thơ lớn của Haiku lần lượt xuất hiện, hợp cùng Basho thành tứ trụ của Haiku Nhật Bản: Basho , Buson , Issa , Shiki . Trong bài thơ sau đây của Basho : Fu ru i ke ya Trong ao xưaKa e ru to bi ko mu Con ếch nhảy vàoMi zu no o to Tiếng nước khuaChỉ vài chữ : một ao nước, một con ếch nhảy , một tiếng nước khua động cũng diễn tả đầy đủ cảnh vật , không dông dài , nhưng luôn luôn đủ ý .Như vậy Haiku là một loại thơ thiền , một cách tập nhìn sự vật đơn giản , thuần khiết . Ðây là một quan hệ biện chứng giữa tĩnh và động như một công án, một tiếng chuông chiêu mộ thức tỉnh ngộ tính con người. Thi nhân ghi lại những bức xúc của mình đối với sự biến chuyển trong khoảnh khắc của thiên nhiên đang xảy ra trước mặt. Vạn vật thì thường trôi nổi lững lờ đối với kẻ vô tình mà thật ra đang nói muôn triệu điều trong từng mỗi khắc giây. Người không thấy, người không nghe vì người không chịu nhìn, chịu nghe hay người không biết đấy thôi. Haiku là một nghệ thuật tổng hợp tinh tế tuyệt vời giữa Phật giáo và Lão Giáo trong thế giới Thiền thi, giữa cụ thể và trừu tượng, giữa ẩn dụ và phân tích, giữa thiên nhiên vũ trụ và nội tâm con người . Vạn vật và vũ trụ đều có nguồn gốc từ Đạo, theo sự sinh hóa vô thường và kiếp người cũng chỉ là phù sinh hư ảo . Điều nói ra được thì hữu hạn, mà ý lại vô hạn . Ðiều mà thơ muốn mọi người lãnh hội chẳng phải là điều có thể nói được mà là những điều mà thơ chưa nói ra . Cái tiểu vương quốc của những con chữ gò bó chải chuốt bỗng vươn mình ảo hóa trở thành một vũ trụ siêu hình .Trong thơ Haiku có sự dung hợp giữa Thiền và Thơ, vì thơ biểu lộ tình cảm và thơ có thể tải đạo . Thơ Haiku đi từ một sự vật cụ thể thật nhỏ nhoi tầm thường để dẫn dắt người đọc đi vào cõi mênh mông bát ngát không hình tượng , như một thiền sư đã nói : "Gom góp tất cả lời nói để hoàn thành một câu, vò cả đại thiên thế giới thành một hạt bụi" . Nhà thơ William Blake cũng có nói : “Cả vũ trụ trong một hạt cát (a world in a grain of sand)”. "Từ trong hạt bụi ngu ngơ ấyMưa nắng vô thường sây sát nhau ."Ðể cuối cùng người thơ đốn ngộ được : "Từ trong hạt cát hằng sa đóVũ trụ Chân Như sáng nhiệm mầu ."Với dân tộc Nhật Bản, haiku được xem như tinh hoa của văn hóa dân tộc. Dưới góc nhìn của Thiền tông, haiku là thể thơ đặc biệt có thể hàm chứa được thực tại nhiệm mầu trong vỏn vẹn 17 âm tiết, vừa sâu lắng uyên thâm, lại vừa đơn sơ giản dị, nhiều khi trở thành phương tiện hữu hiệu truyền tải một công án để các môn sinh tu tập Thiền. Chủ đề của thơ haiku thường lồng vào khung cảnh của bốn mùa. [sửa] Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku Ngoài những đề tài về thiên nhiên, Haiku còn có đề tài về mẹ. Hình ảnh nầy thường thấy ở trong thơ Issa và Basho. Mẹ là thơ. Mẹ và thơ mãi khắn khít nhau như hình với bóng. Hình ảnh mẹ càng cần cù, mộc mạc bao nhiêu lại càng nên thơ bấy nhiêu. Trong ngôn ngữ thi ca của thế giới, dân tộc nào cũng có những vần thơ chứa chan tình mẹ. Mẹ hiển hiện trên đường về, trên từng ngõ hồn sâu kín. Mẹ là chất liệu kết tinh của tất cả những thiên anh hùng ca, những đại sử thi, những trường thiên tình sử và cả trong những vần thơ Haiku đơn sơ, thâm thúy. Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku lại càng bát ngát, phiêu diêu hơn bao giờ hết: Đến đây nào, với tôi cùng chơi đùa chim sẻ không còn mẹ trên đời. Issa Mẹ yêu ơi ! mỗi khi nhìn thấy biển khi thấy biển khơi. Issa Tóc mẹ còn đây tan trong lệ nóng sương mùa thu bay. Issa Hoa trong thơ Haiku Qua bài "Cánh hoa anh đào muôn thuở" Busho đề cập đến vấn đề vô thường: Nhiều chuyệnlàm nhớ lạiHoa anh đàoHoa anh đào đối với người Nhật có ý nghĩa đặc biệt, nhìn hoa anh đào khiến người ta chợt nhớ bao mùa hoa anh đào trong quá khứ. Còn nói theo ngôn ngữ nhà Phật, hoa anh đào là biểu tượng của sự vô thường trong cuộc đời. Một bài thơ Haiku khác nói lên hình ảnh của một loài hoa mong manh, mang kiếp sống phù du, giữa màn đêm sương khói huyền ảo, âm thầm lặng lẽ hé nở những cánh mỏng lụa là, như đem sức sống cuộn trào vào từng hơi thở của người thưởng ngoạn, phải chăng đó là một niềm hy vọng bí ẩn, khó hiểu của một loài hoa kiều diễm mang tên Nữ Hoàng Đêm. Người thơ hình như đã nhập thân vào loài hoa khêu gợi đó, để từ đó chiêm nghiệm được quá trình nở hoa " sinh sinh hoá hóa" từ bên trong : khởi đầu một cành cây trơ … đến một cái gì nhu nhú dưới phiến lá …. rồi xuất hiện một nụ trắng ngà … từ đó nụ tung cánh bung xòe ra… và cuối cùng là hoa mãn khai toàn vẹn với những cánh xinh xắn nõn nà tỏa hương thơm ngan ngát … Nữ Hoàng Đêm mảnh khảnhTrong âm thầm hé nụ phô hoaNiềm tin yêu huyền bíVới màu sắc trắng nhợt nhạt biểu tượng cho sự ngây thơ khờ dại, loài hoa đêm lộng lẫy khát khao nầy đang chờ đợi khai hoa nở nhụy…. đâu biết rằng kiếp sống tạm bợ ngắn ngủi đó sẽ đến hồi chấm dứt khi bình minh chợt sáng, chẳng khác gì bóng câu qua cửa sổ, giọt sương hư ảo trên cành … Những thi ảnh trữ tình, những biểu tượng thâm thúy, những tín hiệu bàng hoàng đã thu hút và dẫn dắt tâm tư người đọc vào một thế giới cao siêu để tự suy niệm về kiếp nhân sinh của con người quanh quẩn trong cuộc sống phù trầm đầy oan khiên nghiệp chướng nầy. Cánh hoa mềm êm áiThơm ngát, cầm mình giữa bụi gaiTrước bình minh chịu chếtNắng đã lên, những giọt sương mai lãng đãng, đang vắt vẻo trên nhành cây đọt lá . Những cánh hoa tàn úa đang rơi rụng . Một loài hoa đã chết và một ngày mới bắt đầu. Những hình ảnh của loài hoa mờ ảo đó , không sôi động mà vẫn lặng lẽ ẩn mật trong tâm cảm và tư duy của người thưởng ngoạn, để rồi đem lại những cảm giác lạ lẫm đột nhiên bỡ ngỡ, bàng hoàng, sững sốt giữa níu kéo và hoài nghi… " Ta ngỡ mất mà chưa đành đánh mất Bởi mùi hương ngự trị cánh hoa tàn ….." Một bài thơ Haiku, một bông hoa quỳnh nở rồi tàn, một kiếp phù sinh, một giấc mộng hoàng lương… " Phù bào khoảnh khắc vòng sinh diệt Sớm nở đêm tàn tựa kiếp hoa…" Cái sân khấu tuồng đời đầy hỷ nộ ái ố, tham sân si đã hạ màn theo những cánh hoa tàn ,để lại ngơ ngẩn , bần thần và luyến tiếc … (Tham khảo từ: http://www.oldcottage.net/thohaiku/thohaiku.html ) [sửa] Niêm luật cơ bản của haiku
    • Trong thơ haiku bắt buộc phải có kigo (季語, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó trong năm. Có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, hoạt động hay những cái gì đó mà mang đặc trưng của một mùa trong năm.
    • Một bài thơ haiku thường chỉ "gợi" chứ không "tả", và kết thúc thường không có gì rõ ràng, vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc thơ hoàn toàn phụ thuộc người đọc.
    • Mỗi bài thơ thông thường có cấu trúc âm tiết 5 + 7 + 5 trong ba câu. Tuy nhiên, ngay cả tổ sư của haiku Matsuo Basho cũng đôi khi sử dụng ít hơn hoặc nhiều hơn số âm tiết đã nói trên; chẳng hạn như:
    Tịch liêu Thấu xuyên vào đá Tiếng ve kêu.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  2. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  3. 10-06-2012 10:22 AM #2 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    ĐỌC THƠ HAIKU NHẬT BẢN QUA LỐI VIẾT ROMAJI Đàm Trung Pháp Mỗi bài thơ "haiku" (phát âm lối Hán Việt là "bài cú") của người Nhật Bản là một tiểu vũ trụ thu gọn trong vẻn vẹn 17 âm tiết. Trong cái hạn hẹp tối đa ấy, nhà thơ diễn tả cảm nghĩ của mình trước thiên nhiên và cho người đọc thoáng thấy một hình ảnh vĩnh cửu phát hiện qua một cảnh trí thông thường chóng phai mờ.Về điểm này thì hình như mỗi nhà thơ lớn, ở phương trời nào cũng vậy, đều có đôi chút “tâm hồn haiku” – như khi William Blake đã thấy cả vũ trụ trong một hạt cát, cả thiên đường trong một đóa hoa dại (“to see a world in a grain of sand, a heaven in a wild flower”) hoặc như khi Đinh Hùng mới chỉ nhìn vào đôi mắt lưu ly của Kỳ Nữ mà đã “thấy cả bóng một vầng đông thuở trước, cả con đường sao mọc lúc ta đi”! Tổng số 17 âm tiết của một bài haiku được thu xếp thành 3 dòng thơ, thông thường với 5 âm tiết cho dòng thứ nhất, 7 âm tiết cho dòng thứ hai, và 5 âm tiết cho dòng thứ ba. Ba dòng thơ ấy không bắt buộc phải vần với nhau và cũng không cần những dấu chấm câu. Thi bá Matsuo Basho thuộc thế kỷ XVII là người đã nâng thơ haiku lên hàng nghệ thuật siêu đẳng, và cũng từ đó haiku trở nên thể thơ thông dụng nhất trong văn chương Nhật Bản. Nghệ thuật siêu đẳng này gắt gao đòi hỏi nhà thơ phải diễn tả rất nhiều, gợi ý tối đa trong một hình thức vắn tắt, cô đọng nhất. Mỗi bài haiku phải gây nên một ấn tượng trọn vẹn bằng cách đặt vào bên cạnh yếu tố thiên nhiên một câu gợi ý về một mùa trong năm hoặc một cảm xúc mạnh. Bài thơ dưới đây của Basho dùng hai yếu tố thiên nhiên (con đường vắng vẻ, lúc xẩm tối mùa thu) để làm bối cảnh cho một cảm xúc mạnh (sự hiu quạnh tột cùng): kono michi ya yuku hito nashi ni aki no kure con đường ấy không người qua lại trời xẩm tối mùa thu Vì nhiều chữ Nhật Bản ở dạng đa âm tiết (thí dụ như danh từ shizukesa có nghĩa là sự thanh tịnh gồm 4 âm tiết),khi bị ghép vào mô thức haiku tiết chế, nhiều khi chỉ một hai chữ thôi đã chiếm hết cả dòng thơ rồi. Cho nên cả bài haiku chỉ là vài ba nét chấm phá để gợi cảnh, gợi tình, hoàn toàn "ý tại ngôn ngoại." Ba thi nhân haiku hàng đầu trong văn học Nhật Bản là Matsuo Basho (1644-1694), Yosa Buson (1716-1784), và Kobayashi Issa (1763-1827). Basho lẫy lừng nhất, thường được ví như một William Wordsworth, vì ông cũng đã suốt đời đi tìm sự cảm thông với thiên nhiên. Thơ Basho phảng phất cốt cách tiên của Lý Bạch và nhuộm mầu ly tao của Đỗ Phủ. Buson còn là một nhà danh họa; thơ ông rất đẹp nét, trữ tình, và nhậy cảm. Issa mồ côi mẹ từ thuở ấu thơ và bị mẹ ghẻ hắt hủi; từ năm 14 tuổi đã tự lập và nghiên cứu haiku. Thơ Issa bình dị và thường nhắc đến các sinh vật nho nhỏ như chim sẻ, dế, bươm bướm với nhiều thân thương trìu mến. Haiku là thơ vịnh thiên nhiên qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Chúng ta hãy xem ba thi nhân nêu trên chấm phá cảnh trí thiên nhiên như thế nào qua các bài haiku lừng danh của họ, được trích dẫn bằng romaji là lối viết tiếng Nhật rất dễ phát âm, dành cho những người quen với mẫu tự la-tinh, gồm cả người Việt chúng ta. Ưu điểm của romaji là nó cho người đọc thấy rõ được các từ ngữ tượng thanh cũng như sự hòa hợp các âm tương tự trong các dòng thơ. Trong bài viết này, các dòng chuyển sang tiếng Việt cố gắng giữ nội dung nguyên tác, mặc dù đôi khi phải thay đổi thứ tự ý nghĩa các câu để nghe cho thuận tai người Việt, và hoàn toàn không theo mô thức tiết chế của haiku. Vì sự ngắn gọn tối đa, thi nhân haiku không thể sử dụng cú pháp cầu kỳ -- một lợi điểm cho người chưa thạo tiếng Nhật nhưng lại thích đọc thơ haiku như bản thân tôi. Quả thực, chỉ cần một kiến thức căn bản về cú pháp Nhật ngữ và một cuốn tự điển Nhật dùng lối viết romaji dễ tra cứu mục từ sắp xếp theo thứ tự a, b, c (thí dụ như cuốn Kodansha’s Romanized Japanese-English Dictionary 666 trang xuất bản tại Tokyo năm 1993 mà tôi sử dụng) là có thể thưởng thức thơ haiku. Chính cuốn tự điển này đã giúp tôi "hiểu" ý nghĩa bài thơ của Basho viết về tiếng ve kêu (được trích dẫn đầu tiên dưới đây) trong đó có các danh từ shizukesa (sự thanh tịnh), iwa (tảng đá lớn), semi (ve sầu),koe (giọng), và động từ shimiru (thấm vào). Kiến thức cú pháp căn bản cho tôi biếtrằng giới từ ni (trong) phải đứng sau danh từ trong một đoản ngữ với giới từ đóng vai chủ động(prepositional phrase) –ngược hẳn với thói quen trong tiếng Anh và tiếng Việt. Vì vậy đoản ngữ "trong tảng đá lớn" khi dịch sang tiếng Nhật sẽ thành "tảng đá lớn trong" (iwa ni). Xin nói thêm, giới từ no (của) trong tiếng Nhật được dùng như chữ "chi" trong tiếng Tàu hoặc "sở hữu cách -'s" trong tiếng Anh– semi no koe do đó phải hiểu là "thiền chi thanh" hoặc "the cicada's voice." Xin bắt đầu bằng mùa hạ, khi mà Basho chỉ nghe thấy tiếng ve sầu vang vọng vào kẽ đá. Thi nhân ghi lại cảm giác rất nhiều thiền tính ấy như sau: shizukesa ya iwa ni shimi-iru semi no koe thanh tịnh và thấm vào non núi tiếng ve ca Khi vui hưởng đời, mấy ai thấy chết chóc đang chờ. Những con ve sầu của Basho cũng thế -- chúng có biết đâu là cuộc sống của chúng sắp tàn: yagate shinu keshiki wa mieru semi no koe ve sầu ca hát chẳng mảy may hay biết chết đã gần kề Nhân sinh vô thường, có khác chi đám mây trôi luôn thay hình đổi dạng, qua thi bút huyền diệu Issa: oni to nari hotoke to naru ya doyoo-gumo đám mây trong ngày khổ ải từ hình quỷ chuyển sang hình phật Cỏ mùa hạ tốt tươi thật đấy, nhưng Basho cũng thấy dưới lớp cỏ ấy là mồ chôn những ước mơ hiển hách của biết bao đấng trượng phu: natsu - kusa ya tsuwa-mono-domo ga yume no ato cỏ mùa hạ đang chôn vùi bao giấc mơ chiến thắng cố chinh nhân Chỉ nhìn những trái ớt chín mọng trên cây, nhà thơ kiêm danh họa Buson đã thấy cả một mùa thu đang làm lộng lẫy thiên nhiên: utsukushi ya no-waki no ato no toogarishi đẹp biết bao những trái ớt đỏ tươi sau trận thu phong Người thường khi nghe tiếng dế rên rỉ đêm thu thì có lẽ chỉ buồn thôi, nhưng thi sĩ Issa đa cảm đã vội nghĩ ngay đến ngày mình xuống mộ. Hãy nghe nhà thơ cô đơn đó căn dặn người bạn nhỏ nhoi đôi lời: ware shinaba haka-mori to nare kirigirisu này chú dế hãy làm người gác mộ sau khi ta lìa đời Bóng đêm dầy đặc, vài tia chớp, tiếng kêu xào xạc một con chim đi tìm mồi là mấy chấm phá kiệt xuất vẽ lên một đêm thu cô quạnh đến rùng mình qua thần bút Basho: inazuma ya yami no kata yuku goi no koe vài tia chớp lập lòe tiếng kêu con vạc ăn đêm bay vào cõi tối Và mùa đông đã tới, với băng giá ngoài trời và băng giá trong lòng thi nhân. Lúc ấy Buson ước ao đi ở ẩn trong núi: fuyu-gomori kokoro no oku no yoshino yama mùa đông ẩn dật ngọn núi yoshino chiếm trọn tâm tư Basho ít khi dừng bước giang hồ. Tuy vậy, ông ngao ngán trạng huống ốm đau khi chu du mùa đông qua những vùng hẻo lánh: tabi ni yande yume wa kare-no o kake-meguru lữ hành trong bệnh hoạn chờn vờn bóng ma trên cánh đồng hoang Và rồi, sau chuỗi ngày mùa đông giá lạnh, mùa xuân đã trở lại. Vì thiếu tình mẫu tử từ tấm bé, Issa rất trìu mến những sinh vật nho nhỏ của mùa xuân. Có lẽ khi vỗ về tinh thần chú ếch mảnh mai, thi nhân cũng tự an ủi chính mình: yase-gaeru makeru na issa kore ni ari chú ếch èo uột đừng bỏ cuộc nhé issa đang an ủi chú đây Mưa xuân khiến hoa cỏ tốt tươi, nhưng phũ phàng thay, dưới làn mưa ấy cũng có một lá thư bị ai đó quăng đi để gió thổi vô rừng, như Issa chứng kiến: haru-same ya yabu ni fukaruru sute tegami mưa xuân lá thư vứt bỏ gió cuốn vô rừng Xuân là mùa của hạnh phúc, của tái sinh, nhưng Buson thấy xuân cũng là mùa để tàn sát sinh linh: hi kururu ni kiji utsu haru no yama-be kana hoàng hôn tiếng bắn chim trĩ vang dội triền núi mùa xuân Trong ánh xuân rực rỡ, Basho ước ao được tự do, không vướng lụy hồng trần, như con sơn ca đang líu lo giữa thảm cỏ xanh: hara-naka ya mono nimo tsukazu naku hibari giữa bãi cỏ sơn ca líu lo tự do, chẳng ưu phiền
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  4. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  5. 10-06-2012 10:28 AM #3 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    Cuộc thi sáng tác thơ Haiku Nhật - Việt 2011 TTO - Cuộc thi thơ Haiku Nhật - Việt lần 3-2011 đề tài tự do sẽ nhận bài dự thi từ nay đến hết ngày 14-10-2011. Sân chơi thú vị này dành cho người Việt Nam và người Nhật Bản đang sinh sống tại Việt Nam, không giới hạn độ tuổi. Poster cuộc thi Sáng tác thơ Haiku Nhật - Việt Cuộc thi do Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM phối hợp với Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM tổ chức. Dự kiến trao giải vào ngày 1-2-2012, dịp hưởng ứng Ngày thơ Việt Nam 2012. Mẫu đăng ký dự thi và mẫu thông tin người sáng tác có tại http://www.hcmcgj.vn.emb-japan.go.jp...ku_contest.doc. Mỗi người dự thi tối đa ba bài thơ cho mỗi thể loại ngôn ngữ. Người Việt Nam có thể dự thi bằng tiếng Việt, tiếng Nhật hoặc cả hai. Người Nhật Bản chỉ được dự thi bằng tiếng Việt. Bài thi gửi đến email thithohaiku@gmail.com hoặc đến địa chỉ: Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM, Ban Văn hóa (ngoài bì thư ghi: Thi thơ Haiku), 13-17 Nguyễn Huệ, Q.1, TP.HCM. Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản, có lịch sử hơn 400 năm, gồm 17 âm tiết (5-7-5), ngắt nhịp thành ba câu; ghi lại tinh tế hiện thực sự vật, sự việc và có khả năng truyền cảm nhận sâu sắc cho người đọc. Vì đề tài của Haiku hầu hết là thiên nhiên, các mùa trong năm nên các bài thơ Haiku thường có từ chỉ mùa, tiếng Nhật gọi là kigo (quý ngữ). Giải nhất nội dung Haiku tiếng Việt trong cuộc thi thơ Haiku Nhật - Việt 2009 Xó chợ Chiếc lon trống Hạt mưa mồ côi (Nguyễn Thánh Ngã, Lâm Đồng) Giải nhất nội dung Haiku tiếng Nhật trong cuộc thi thơ Haiku Nhật - Việt 2009 ume no hana hohoemi hajime haru no kaze Tạm dịch: Một cành mai Vừa chớm nở Gió xuân thổi (Đào Thị Hồ Phương, TP.HCM)
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  6. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  7. 10-06-2012 10:31 AM #4 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    Chiếc thau người ăn mày Dăm xu mỏng Và mưa đêm nay (Issa)
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  8. 10-06-2012 10:33 AM #5 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    Giải nhì thơ haiku tiếng Việt năm 2007 (Không có giải nhất) Con cá thở Bọt bong bóng vỡ Mưa phùn (Nguyễn Thế Thọ - Đà Nẵng)
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  9. Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc
  10. 10-06-2012 10:40 AM #6 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    THƠ HAIKU NHẬT BẢN - 3500 BÀI. Phần Một Người viết: Thái Bá Tân 05/12/2011 THÁI BÁ TÂN THƠ HAIKU NHẬT BẢN (3500 bài) _________________ ĐÔI LỜI CÙNG BAN ĐỌC Haiku là thể thơ ngắn rất độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, tưởng như không nói gì mà thực tế gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc. Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải có sự làm quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giớ có rất nhiều người yêu và bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku. Bản thân tôi cũng phải trải qua một thơ gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ ngày tôi tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập Thơ Haiku Nhật Bản này. Đầu tiên phải nhắc đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau. Do không biết tiếng Nhật và phải dịch từ tiếng Anh (một số trường hợp từ tiếng Nga), nên một số ít bài trùng lặp trong hai tập này có thể khác nhau, vì tôi chỉ biết những gì người khác đã dịch chứ không phải nguyên bản. Nghe nói tiếng Nhật cổ khó hiểu lắm, thậm chí cả với người Nhật hiện đại, nên việc hiểu khác nhau cũng là chuyện bình thường. Ngoài ba đại thụ nói trên, trong tập này tôi dịch một lương khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác. Cuối sách, tôi thêm phần PHỤ LỤC, giới thiệu những bài tanca đã nói và Thơ Cổ Triều Tiên tôi dịch ngày xưa, vì về cơ bản chúng cùng hơi hướng, phong cách và thời điểm sáng tác. Cuối cùng là hơn 100 bài Haiku của tôi viết năm 1980 khi tôi bắt đầu mê và chịu ảnh hưởng của loại thơ này. Có điều lúc ấy tôi chỉ mượn số lượng ba câu mỗi bài, chứ không theo phong cách thơ Haiku cổ điển. Thơ của tôi truyền tải ý chứ không phải hình ảnh. Âu cũng là một trải nghiêm nữa trong sự nghiệp dịch thơ chuyên nghiệp của tôi. Và tôi muốn giới thiệu nó với bạn đọc. Mong được đón nhận và nâng đỡ. Hà Nội, ngày 3 tháng Sáu, 2010. Thái Bá Tân
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  11. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  12. 10-06-2012 10:41 AM #7 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    Phần Một Matsuo BASHO Matsuo Bashō (松 尾 笆 焦, 1644-1694), nhà thơ thiền lỗi lạc thời Edo (江戶) Nhật Bản, tên thật là Matsuo Munefusa, là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một tòa thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (発句, phát cú) của thể renga (連歌, liên ca) có tính hài hước gọi là Renga no Haikai thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Masaoka Shiki (1867-1902) hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (俳句, bài cú hay hài cú). Tuổi trẻ Năm mới được 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho một lãnh chúa và trở thành bạn thân thiết với con trai vị lãnh chúa này, một người chỉ lớn hơn ông vài tuổi tên là Yoshitada. Hai người đã cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ. Cũng trong những năm đó, sự phát lộ năng khiếu thơ của ông đã được nhà thơ và nhà phê bình xuất sắc đương thời Kitamura Kigin phát hiện. Ông bắt đầu được Kitamura Kigin rèn tập, và có bài thơ đầu tay năm ông mới 18 tuổi được nhiều người biết đến. Khi người bạn Yoshitada lâm bạo bệnh mất vào năm 24 tuổi, Bashō lên núi Koya đặt một nạm tóc của bạn vào chùa và quyết định rời bỏ lâu đài Ueno mặc dù không được phép của lãnh chúa. Năm 1666, ông đến Kyotō và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư pháp. Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo. Trong những năm này, ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần cảm thấy mình chỉ hợp chương, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai (俳諧, bài hài), một thể loại thơ còn được gọi là haikai no renga(俳 諧の連歌, bài hài chi liên ca), là những bài thơ dài thiên về trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn rất thịnh hành trong thời Tokugawa. Năm 1675, Bashō xướng họa cùng thi sĩ Nishiyama Soin (1605-1682), chủ soái của trường phái Danrin (談林, Đàm Lâm), một trong hai trường phái haikai nổi tiếng đương thời (trường phái Teimon (貞門, Trinh Môn) của Matsunaga Teitoku (1571-1653) và trường phái Danrin). Tư tưởng thơ haikai của Nishiyama Soin, đứng trên mọi sự dung tục và tầm thường, vượt thoát ra ngoài khuôn khổ của một thể loại thơ giải trí thế tục đơn thuần vốn đang thịnh hành toàn quốc với trường phái Teimon, đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và sáng tác của Bashō về sau. Bashō-an, bút hiệu Bashō và phong cách Shōfu Mùa xuân năm 1679 Matsuo Bashō được phong tước hiệu Sosho (bậc thầy dạy thơ Haikai). Năm sau ông dời đến một túp lều bên sông Sumida và ở đây, có đệ tử mang tặng cây ba tiêu (cây chuối), một giống cây đương thời chỉ có ở Trung Hoa. Ngay tức thì, nhà thơ say mê nó và đem trồng trong sân nhà. Khách đến thăm gọi nhà ông là "ba tiêu am" (芭蕉庵, Basho-an). Cũng trong những năm này, ông tu tập thiền đạo với một thiền sư tại một ngôi chùa địa phương. Năm 1682 Bashō am bị cháy, ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (芭蕉, Ba Tiêu). Năm sau ông trở lại Edo và dựng lại "ba tiêu am". Bắt đầu từ đây, định mệnh thơ haikai rơi vào tay của Bashō: ông đã sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (蕉風, Tiêu Phong, ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), một phong cách dung hợp giữa sự trào lộng đời thường của haikai đương thời với yếu tố cao nhã tâm linh của thể thơ renga (liên ca) cổ điển. Ông cũng dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ haiku. Du hành bờ Tây Mặc dù danh tiếng ngày càng rực rỡ, những nghi vấn về bản thể, tâm linh, thiền tông và nghệ thuật không ngớt thúc bách Bashō tìm con đường cho chính mình để đạt được đại ngộ (satori). Mùa thu năm 1684, ông từ bỏ cuộc sống yên ổn ở am ba tiêu và bắt đầu làm một lữ khách (旅人, tabibito) của cõi phù thế. Theo con đường ven biển về hướng Tây, ông lang thang thăm lại cố hương Ueno rồi đi Nagoya. Ở đó, ông cầm đầu một nhóm thi sĩ soạn nên 5 tập renga xuất sắc mang tên Đông nhật (Fuyu no hi). Đến mùa hạ năm sau, Basho mới trở về Edo sau khi thăm viếng nhiều nơi. Chuyến đi lớn đầu tiên này được ông ghi lại trong kỷ hành (kikō, một dạng nhật ký hành trình) mang tên Nhật ký phơi thân đồng nội (Nozarashi kiko, Dã sái kỷ hành, 1685). Hai năm sau, Bashō tạo nên chấn động trong văn chương bằng bài thơ về bước nhảy bất ngờ của con ếch mà tiếng động của nó khi chạm mặt nước ao cũ vang trong thinh lặng của đêm đen như khoảnh khắc đạt đốn ngộ của thiền sư, đăng trong hợp tuyển của thơ ông và đồ đệ mang tên Xuân nhật (Haru no hi) (xin xem thêm haiku). Hành trình Kashima Chuyến đi kế tiếp của Bashō hướng về Kashima được Bashō mô tả trong Kỷ hành Kashima (Kashima kikō, 1687). Đây là chuyến đi mà đích đến của Bashō là đền Kashima thăm viếng sư phụ, thiền sư Bucho, và thăm lại cây anh đào nổi tiếng ở Yoshino mà nhớ về người bạn yểu mệnh tại Ueno năm xưa. Đường đến Sarashina Ngay sau chuyến đi Kashima, Matsuo Bashō lại khăn gói hành hương trong một năm trời từ Edo về bờ biển Suma, từ Akashi đến thôn Sarashina để được tận hưởng mùa trăng trên đỉnh núi Obasute. Chuyến đi này là tiền đề cho hai tập nhật ký thơ ca khác là Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688) và Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688). Đây là những trang ca ngợi thiên nhiên vô cùng nồng nàn, là lời kêu gọi say đắm "trở về với thiên nhiên". Đó là một lý tưởng mà Bashō gọi là fuga (phong nhã), biểu hiện qua những con người lỗi lạc như Saigyo của thơ tanka, Sesshu của tranh thủy mặc, Rikyu của trà đạo và Sogi của thơ renga. Bắc hành Chuyến đi dài nhất của Bashō với một người đệ tử là cuộc du hành phương Bắc đảo Honshu vào năm ông 45 tuổi. Đây là một chuyến đi kéo dài 151 ngày đầy gian khổ, bất trắc trên con đường thiên lý đến những vùng đất còn nguyên sơ, khởi đầu từ Edo ngày 27 tháng ba âm lịch năm 1689. Chuyến đi này đã đưa Bashō đến hàng loạt những thị trấn mới lạ, như Nikko, Shirakawa, Sendai, Matsushina v.v. Từ đây ông rẽ ngang đảo Honshu đến Sakata ở phía Tây trên biển Nhật Bản. Ông cũng lặn lội xuống miền duyên hải để tới Niigata, Kanazawa, Tsuruga và tạm dừng ở Ogaki, với tổng chiều dài lên đến 2.500 cây số. Đó là cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó đã để lại cho đời sau một kiệt tác thi ca xen lẫn những đoạn tản văn Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo). Tuy nhiên, nếu con đường thi ca của Lối lên miền Oku chấm dứt ở Ogaki vào mùa thu năm 1689, thì con đường du hành của Bashō mãi đến 1691, khi nhà thơ về Edo mới kết thúc. Ông còn tiếp tục đi Kyotō, về quê thăm nhà và cùng các bạn thơ du ngoạn hồ Biwa. Trên đường thiên lý Basho đã dừng trú tại Huyền trú am (Genju-an) trong khu rừng bên hồ Biwa và tại đây ông viết nên bài tùy bút kỳ tuyệt mang tên Tùy bút Huyền trú am (Genjuan no ki, 1690). Cùng với các bài thơ haiku được viết trong thời gian này của tác giả, bài tùy bút được đưa vào thi tập Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên thoa, 1691), một tập thơ mang phong cách Shofu đậm đặc. Sau đó, ông cũng qua một vài tuần ở một thảo am khác là Lạc thị xá (Rakushisha) thuộc vùng Saga và ở đây ông soạn lên tác phẩm lớn nhất cuối cùng của đời mình là Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691). Bashō trở về Edo vào năm 1691 với danh tiếng lẫy lừng, được đông đảo bạn bè, môn đệ và người ái mộ vây quanh. Những năm sau đó ông có một vài trách nhiệm trong đời sống mà lúc này phải đảm nhận, như trông nom một phụ nữ tên là Jutei cùng các con của bà, chỉ vì hồi trẻ ông đã từng yêu Jutei. Thiền định trong cô tịch Đến năm 1693, Basho quyết định đóng cửa sống trong cô tịch, không tiếp khách, và người ta nói rằng cánh cửa nhà ông chỉ mở ra khi có một biến cố, như khi hoa triêu nhan nở bên hàng dậu. Trong thời gian này, cuộc đời và thơ ca của ông hướng đến một lý tưởng gọi là karumi (khinh), tức sự nhẹ nhàng thanh thoát tìm thấy ngay giữa cuộc đời ô trọc. Lý tưởng đó sau này được học trò của ông ấn hành trong thi tập Túi đựng than (Sumida wara, 1694). Chuyến Nam du định mệnh Mùa xuân năm 1694, Bashō quyết định đi thăm phương Nam mà đích đến là Osaka ở đảo Kyushu theo lời mời thành khẩn của một đệ tử. Trên đường đi ông mắc bệnh nặng tại một lữ quán ở Ōsaka. Đệ tử của ông xin ông làm bài thơ từ thế, như truyền thống của các thiền sư Nhật Bản, để cáo biệt cõi đời trước lúc lâm chung, ông đáp: "thơ lúc bình sinh đã là bài từ thế rồi", và viết: Dọc đường ốm... Trong mơ tôi lang thang Giữa những cánh đồng khô héo. Đặc điểm nghệ thuật Giữa hai chiều không gian và thời gian, con người từ khi đến với cõi thế này đã phải chấp nhận sự hữu hạn của năm tháng, do vậy mà luôn ước ao tìm đến cõi vĩnh hằng. Những chuyến du hành của Matsuo Bashō như muốn bộc lộ khát khao phá vỡ sự câu thúc của buổi chiều còn lại trong vũ trụ (thời gian) để tìm cho được sự rộng mở, khai phóng không gian tồn tại của bản thể và cái đẹp. Đời ông như một lữ khách trong thời gian, là những chuyến du hành không dứt, phản ánh qua các tập kỷ hành hay xoay quanh các thi tập phân theo bốn mùa. Ông yêu thích các thi nhân đời Đường và nhắc đến tứ thơ của họ trong các tác phẩm của ông. Ông chuộng Trang Tử và dựa trên nền triết học này mà đề ra thuyết "Bất dịch và lưu hành" trong thi ca của mình: thi nhân đi tìm những giá trị vĩnh hằng trong dòng biến động của vạn vật. Ông quan niệm phải tuân theo tạo hóa và quay trở về với tạo hóa, "tả thông thì học thông, tả trúc thì học trúc" và cho rằng trong đời chỉ có hai loại thơ: thơ tự nhiên dung hợp giữa thiên nhiên và nhân sinh còn thơ nhân tạo chỉ có kỹ thuật mà thiếu tấm lòng. Bashō đã từng nói học thi pháp để rồi quên nó đi, đối với ông cái tình cần hơn sự chuốt vẽ chữ nghĩa. Tin vào sự mẫn cảm của người nghệ sĩ, Bashō khuyên nên nắm bắt ngay ánh chớp loé ra từ sự vật trước khi nó tan biến đi trong tâm trí. Thơ cần nhẹ nhàng, đơn giản, trong sáng, gần với đời sống và thi nhân cần "nâng tâm hồn lên thành thơ để rồi quay trở về với đời thường”. Chính điều đó đã trở thành một trong những đặc trưng của thể thơ (haiku) do ông sáng tạo, một thể thơ mà tất cả những điều bình thường, nhỏ nhoi trong cuộc sống như bụi cám, tôm cá, tiếng dế mèn, ngôi nhà dột, cây cột xiêu đổ, con sâu đang gặm hạt dẻ, chiếc mũ chiến lăn lóc trên cỏ, cây chuối trong giông bão v.v. đều có thể trở thành những đề tài hồn nhiên, dịu dàng và đầy sức sống của thơ. Có hai điều mang tính cách tân trong quan niệm thi ca của ông: không lặp lại chính mình và không theo khuôn mẫu người khác. Ông tự bảo mình "phải biết chán cái tôi của ngày hôm qua" và tự chế diễu thơ mình như "lò sưởi trong mùa hạ và quạt trong mùa đông". Ông kêu gọi đừng bắt chước theo những thành tựu của các văn hào xưa mà chỉ nên truy tìm điều họ đã muốn đi tìm. Với tinh thần đó, dù đã có các trường phái haikai rất nổi tiếng trong thế kỷ 17 như Teimon (Trinh Môn) và Danrin (Đàm Lâm), Bashō vẫn tự lập nên một phong cách mới gọi là Shōfu (Tiêu Phong) trong đó chứa đựng những quan niệm nghệ thuật của riêng ông. Linh hồn thơ Shōfu chính là linh hồn của sabi (寂び, cái tịch liêu, tĩnh lặng) và karumi (軽み, nhẹ nhàng), mang âm điệu sâu thẳm của Thiền đạo và sắc màu tươi nhuận của thiên nhiên. Ảnh hưởng Thiên tài của Bashō ôm choàng những hiện tượng khác nhau của đời sống, do đó đã gây nên những ảnh hưởng sâu rộng về sau. Tương truyền, ông có đến 2000 đệ tử, và nổi danh nhất là 10 nhà thơ được gọi là Bashō Jitetsu (Ba Tiêu thập triết), đó là Etsujin, Hokushi, Joso, Kikaku, Kyorai, Kyoroku, Ransetsu, Shiko, Sanpu và Yaha. Các nhà thơ theo khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực hậu sinh như Kobayashi Issa (1763-1827), Masaoka Shiki (1867-1902) đều có thể xem Bashō là bậc thầy của mình. Nhiều người đã hành hương theo bước đường phiêu lãng của Bashō ngày xưa. Sang thế kỷ 20, Bashō lại càng trở thành một hình ảnh vĩ đại được tôn vinh của nền văn hóa Nhật Bản. Một số nhà nghiên cứu xem ông là nhà thơ huyền bí tương tự Blake và Wordsworth, số khác thấy ông đi trước chủ nghĩa tượng trưng của Pháp. Thể thơ haiku do ông hoàn thiện bằng thiên tài của mình đã trở thành thể thơ quốc tế, được nghiên cứu rộng rãi cả trong và ngoài Nhật Bản. Nhiều nhà văn, nhà thơ lớn của thế giới còn sáng tác thể thơ này bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hy Lạp. Những tác phẩm chính - Đông nhật (Fuyu no hi, 1684), 5 tập, viết chung với bạn thơ. - Nhật ký phơi thân đồng nội (Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành, 1685) - Xuân nhật (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ. - Nhật ký hành trình Kashima (Kashima kiko, 1687) - Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688) - Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688) - Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689) - Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên thoa, 1691) - Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691). (Theo Wilkipedia)
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  13. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  14. 10-06-2012 10:44 AM #8 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    Matsuo BASHO (Bản dịch Một) 1 Con quạ Ngồi trên cành cây khô Chiều thu. 2 Người thợ đập đá Ngồi nghỉ bên dàn hoa bìm bìm Cuộc đời này thật buồn. 3 Con ếch Nhảy xuống ao tù Tiếng nước té. 4 Làng này, vùng núi này Nơi không ai lui tới Sẽ rất buồn nếu không buồn. 5 Gió núi Phú Sĩ Tôi đem về trên chiếc quạt Làm quà cho ban ở Êđô. 6 Nước thủy triều nông Chân sếu ẩm ướt Vì hơi lạnh từ biển. 7 Núi Atsumi Quay sang bãi Gió Thổi Tìm cái mát. 8 Một năm nữa trôi qua Mà tôi Vẫn mũ rơm, giày rơm. 9 Đã mùa thu Có lý do để già Đám mây và con chim. 10 Cả nhà Chống gậy, tóc bạc phơ Tảo mộ.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  15. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  16. 10-06-2012 10:46 AM #9 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    11 Gõ cửa cầu may Đền Mii Hôm nay có trăng. 12 Trăng Một nhà sư Mang trăng đi qua bãi cát. 13 Suốt đêm Nằm nghe gió thu Bên kia núi. 14 Biển xanh Sóng vỡ có mùi rượu gạo Trăng sáng đêm nay. 15 Trong thảm hoa màu trắng Đêm Chuyển thành ngày. 16 Người ta buồn vì vượn khóc Trẻ khóc thì sao? Gió thu. 17 Ngoài ấy, bây giờ Đã là mùa thu hoạch? Lều cỏ của tôi. 19 Không hóa thành bướm Mùa thu Đang chín dần, thành mồi cho sâu. 20 Sắp thu Càng muốn ngồi Trong căn phòng trải bốn chiếu.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  17. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
  18. 10-06-2012 10:48 AM #10 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
    21 Lá vàng trôi dưới nước Từ phía nào bờ sông Con dế đang kêu? 22 Thủy triều dâng Con sếu bước trên đôi chân ngắn Nước quá gối. 23 Đêm trăng lặng yên Có thể nghe trong tán lá Tiếng sâu ăn hạt dẻ. 24 Đêm không trăng Con cáo bò trong vườn Về phía quả dưa chín. 25 Người hái chè không biết Với những cây chè Họ là ngọn gió thu.
    Trả lời với trích dẫn Trả lời với trích dẫn
  19. 2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này

    Bạch Hồng Ngọc, thylan
+ Trả lời chủ đề Trang 1/17 1 2 3 11 ... Tiếp CuốiCuối
  • Nhảy tới trang:
Di chuyển nhanh Thơ Sưu tầm Lên trên
  • Chức Năng
  • Bảng điều chỉnh cá nhân
  • Tin nhắn riêng
  • Theo dõi
  • Ai đang online
  • Tìm trong diễn đàn
  • Trang Ðầu
  • Diễn Ðàn
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ THÔNG BÁO _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Thông báo từ Ban Quản Trị
      1. Thông báo về nhân sự BĐH
      2. Thơ Hương Xuân - Đã xuất bản
      3. Sinh nhật VNTH lần thứ nhất
      4. Thơ HƯƠNG QUÊ - Đã xuất bản
      5. Sinh nhật VNTH lần thứ 2
      6. Thông báo về Tập 3 - Thơ Hương Xưa
    2. Phòng Điều hành
    3. Ban đại diện VNTH - Khu vực phía Bắc
      1. Thông báo của BĐD
      2. Tin tức hoạt động
    4. Phòng Biên tập
      1. Bài dự thi Thơ Đường Luật VNTH lần thứ nhất
    5. Trao đổi - Góp ý - Thắc mắc
      1. Địa chỉ cần liên hệ
    6. Chúc mừng - Cảm tạ
    7. Thăm hỏi - Phân ưu - Chia buồn
    8. Ban Từ Thiện Xã Hội
      1. Thông báo Ban TTXH
      2. Tin tức Từ thiện
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ THƯ VIỆN THI HỮU _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Thơ tuyển chọn
      1. Thơ Sáng tác tuyển chọn
      2. Thơ Xướng-Họa tuyển chọn
      3. Thơ Thiếu nhi tuyển chọn
      4. Thơ Vui tuyển chọn
    2. Văn Sáng tác tuyển chọn
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ THI ĐÀN _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Thơ Sáng tác
      1. Góc xướng họa thơ bốn câu
    2. Chuyên trang Đường luật
      1. Tứ tuyệt đường luật
      2. Nhặt sạn giúp bạn
      3. Thông báo - Trao đổi chuyên môn
      4. Ngũ ngôn đường luật
      5. Thơ biến thể - Phá cách
    3. Góc Xướng - Họa Đường luật
      1. Tập hợp Thơ Xướng - Họa
      2. Góc xướng họa thơ tứ tuyệt
      3. Góp ý - Xây dựng
    4. HUÊ VIÊN CÁC
      1. Cảm tác qua Tranh-Ảnh
      2. Sưu tập Hoa - Cây cảnh
    5. Thơ Vui
    6. Góc thơ dành cho Thiếu nhi
    7. Trang Thơ dịch
      1. Anh văn
      2. Trung văn
    8. Thơ Sưu tầm
    9. Câu Đối
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ VĂN ĐÀN _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Trang sáng tác Văn xuôi
    2. Trang Văn sưu tầm
    3. Thư viện Truyện
      1. Truyện tranh
      2. Truyện Tình cảm -Tâm lý -Xã hội
      3. Truyện Khoa học Viễn tưởng
      4. Truyện Trinh thám
      5. Lịch Sử
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ PHÒNG BÌNH LUẬN _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Thi ca
      1. Thành viên Thi Hữu
      2. Từ nguồn khác
    2. Văn học
    3. Âm nhạc
    4. Mỹ thuật
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ NHÀ THIẾU NHI _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Phim họat hình
    2. Nhạc Thiếu nhi
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Tác phẩm mới
    2. Danh ngôn - Lời hay Ý đẹp
      1. Danh ngôn - Sưu tầm
      2. Lời hay Ý đẹp - Thành viên Thi hữu
    3. Câu lạc bộ Văn hóa dân gian
      1. Ca dao
        1. Tục ngữ
      2. Câu đố
      3. Hò vè
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ Phòng Audio-Video Clip _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. CD Thi ngâm
    2. Thơ phổ Nhạc
    3. Tiếng hát thành viên
  • ¸.·๑۩۞۩๑_ PHÒNG TRANH ẢNH _๑۩۞۩๑·.¸
    1. Tranh Thơ Thi Hữu
    2. Tranh ảnh sáng tác
    3. Tranh ảnh sưu tầm
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ VÒNG TAY THI HỮU _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Chào mừng - Giới thiệu - Giao lưu
    2. Hồ sơ Thành viên
    3. Chân dung Thi hữu
    4. Nhật ký online
    5. Cửa sổ tâm hồn
      1. Gỡ rối tơ lòng
      2. Kết bạn bốn phương
  • ¸.·๑۩۞۩๑_ THƯ GIÃN - GIẢI TRÍ _๑۩۞۩๑·.¸
    1. Cà phê Thi hữu
    2. Tiếu lâm quán - Tán dóc
    3. Nghe nhạc
    4. Xem phim - Video clip
  • ¸.·๑۩۞۩๑_ CẬP NHẬT THÔNG TIN _๑۩۞۩๑·.¸
    1. Tin nội bộ
      1. Tin sinh hoạt
      2. Quỹ Tương trợ - Thành viên VNTH
    2. Các thông tin lãnh vực Văn học - Nghệ thuật
    3. Tin tức... mình - Theo dòng thời sự
    4. Sự kiện - Nhân vật
    5. Chân dung Cuộc sống
    6. Du lịch bốn phương
    7. Chuyện lạ Đó - Đây
  • ¸.·*๑۩۞۩๑_ SỨC KHỎE & ĐỜI SỐNG _๑۩۞۩๑*·.¸
    1. Kiến thức Tây y
    2. Kiến thức Đông y
    3. Mẹo vặt - Cẩm nang cuộc sống
    4. Nữ công Gia chánh
    5. Ẩm thực
    6. Mua bán - Rao vặt - Quảng cáo
    7. Thùng rác
« Chủ đề trước | Chủ đề tiếp theo »

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  • BB code đang Mở
  • Mặt cười đang Mở
  • [IMG] đang Mở
  • HTML đang Tắt

Nội quy diễn đàn

Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 01:22 PM Powered by vBulletin™ Version 4.0.7 Copyright © 2024 VNTHIHUU.NET. All rights reserved.

Từ khóa » Tịch Liêu Thấm Vào đá Tiếng Ve