Thơ Haiku
- Help
- Ghi nhớ?
- Tìm chi tiết
- Diễn đàn
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ THI ĐÀN _๑۩۞۩๑*·.¸
- Thơ Sưu tầm
- Thơ Haiku
- Nhảy tới trang:
-
Công cụ bài viết
- Hiện bản có thể in
- Email trang này…
- Theo dõi chủ đề này…
-
Hiển thị
- Xem bài ở dạng cây (Linear)
- Xem bài ở dạng lai ghép (Hybird)
- Xem bài viết ở dạng ren (Threaded)
- 10-06-2012 05:53 AM #1 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
Thơ Haiku
Haiku Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Haiku (tiếng Nhật: 俳句) (Bài cú) là loại thơ độc đáo của Nhật Bản, xuất phát từ ba câu đầu (発句 hokku, phát cú) của những bài renga (連歌 liên ca) có tính trào phúng gọi là renga no haikai (連歌の俳諧) mà sau gọi tắt là haikai (俳諧 bài hài). Mục lục [ẩn]
Trả lời với trích dẫn- 1 Sự ra đời
- 2 Nội dung thơ Haiku
- 3 Hình ảnh mẹ trong thơ Haiku
- 4 Niêm luật cơ bản của haiku
- 5 Ngũ trụ haiku của Nhật Bản
- 6 Liên kết ngoài
- Trong thơ haiku bắt buộc phải có kigo (季語, quý ngữ) nghĩa là từ miêu tả một mùa nào đó trong năm. Có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các hình ảnh, hoạt động hay những cái gì đó mà mang đặc trưng của một mùa trong năm.
- Một bài thơ haiku thường chỉ "gợi" chứ không "tả", và kết thúc thường không có gì rõ ràng, vậy nên hình ảnh và cảm nhận sau khi đọc thơ hoàn toàn phụ thuộc người đọc.
- Mỗi bài thơ thông thường có cấu trúc âm tiết 5 + 7 + 5 trong ba câu. Tuy nhiên, ngay cả tổ sư của haiku Matsuo Basho cũng đôi khi sử dụng ít hơn hoặc nhiều hơn số âm tiết đã nói trên; chẳng hạn như:
-
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:22 AM #2 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
ĐỌC THƠ HAIKU NHẬT BẢN QUA LỐI VIẾT ROMAJI Đàm Trung Pháp Mỗi bài thơ "haiku" (phát âm lối Hán Việt là "bài cú") của người Nhật Bản là một tiểu vũ trụ thu gọn trong vẻn vẹn 17 âm tiết. Trong cái hạn hẹp tối đa ấy, nhà thơ diễn tả cảm nghĩ của mình trước thiên nhiên và cho người đọc thoáng thấy một hình ảnh vĩnh cửu phát hiện qua một cảnh trí thông thường chóng phai mờ.Về điểm này thì hình như mỗi nhà thơ lớn, ở phương trời nào cũng vậy, đều có đôi chút “tâm hồn haiku” – như khi William Blake đã thấy cả vũ trụ trong một hạt cát, cả thiên đường trong một đóa hoa dại (“to see a world in a grain of sand, a heaven in a wild flower”) hoặc như khi Đinh Hùng mới chỉ nhìn vào đôi mắt lưu ly của Kỳ Nữ mà đã “thấy cả bóng một vầng đông thuở trước, cả con đường sao mọc lúc ta đi”! Tổng số 17 âm tiết của một bài haiku được thu xếp thành 3 dòng thơ, thông thường với 5 âm tiết cho dòng thứ nhất, 7 âm tiết cho dòng thứ hai, và 5 âm tiết cho dòng thứ ba. Ba dòng thơ ấy không bắt buộc phải vần với nhau và cũng không cần những dấu chấm câu. Thi bá Matsuo Basho thuộc thế kỷ XVII là người đã nâng thơ haiku lên hàng nghệ thuật siêu đẳng, và cũng từ đó haiku trở nên thể thơ thông dụng nhất trong văn chương Nhật Bản. Nghệ thuật siêu đẳng này gắt gao đòi hỏi nhà thơ phải diễn tả rất nhiều, gợi ý tối đa trong một hình thức vắn tắt, cô đọng nhất. Mỗi bài haiku phải gây nên một ấn tượng trọn vẹn bằng cách đặt vào bên cạnh yếu tố thiên nhiên một câu gợi ý về một mùa trong năm hoặc một cảm xúc mạnh. Bài thơ dưới đây của Basho dùng hai yếu tố thiên nhiên (con đường vắng vẻ, lúc xẩm tối mùa thu) để làm bối cảnh cho một cảm xúc mạnh (sự hiu quạnh tột cùng): kono michi ya yuku hito nashi ni aki no kure con đường ấy không người qua lại trời xẩm tối mùa thu Vì nhiều chữ Nhật Bản ở dạng đa âm tiết (thí dụ như danh từ shizukesa có nghĩa là sự thanh tịnh gồm 4 âm tiết),khi bị ghép vào mô thức haiku tiết chế, nhiều khi chỉ một hai chữ thôi đã chiếm hết cả dòng thơ rồi. Cho nên cả bài haiku chỉ là vài ba nét chấm phá để gợi cảnh, gợi tình, hoàn toàn "ý tại ngôn ngoại." Ba thi nhân haiku hàng đầu trong văn học Nhật Bản là Matsuo Basho (1644-1694), Yosa Buson (1716-1784), và Kobayashi Issa (1763-1827). Basho lẫy lừng nhất, thường được ví như một William Wordsworth, vì ông cũng đã suốt đời đi tìm sự cảm thông với thiên nhiên. Thơ Basho phảng phất cốt cách tiên của Lý Bạch và nhuộm mầu ly tao của Đỗ Phủ. Buson còn là một nhà danh họa; thơ ông rất đẹp nét, trữ tình, và nhậy cảm. Issa mồ côi mẹ từ thuở ấu thơ và bị mẹ ghẻ hắt hủi; từ năm 14 tuổi đã tự lập và nghiên cứu haiku. Thơ Issa bình dị và thường nhắc đến các sinh vật nho nhỏ như chim sẻ, dế, bươm bướm với nhiều thân thương trìu mến. Haiku là thơ vịnh thiên nhiên qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Chúng ta hãy xem ba thi nhân nêu trên chấm phá cảnh trí thiên nhiên như thế nào qua các bài haiku lừng danh của họ, được trích dẫn bằng romaji là lối viết tiếng Nhật rất dễ phát âm, dành cho những người quen với mẫu tự la-tinh, gồm cả người Việt chúng ta. Ưu điểm của romaji là nó cho người đọc thấy rõ được các từ ngữ tượng thanh cũng như sự hòa hợp các âm tương tự trong các dòng thơ. Trong bài viết này, các dòng chuyển sang tiếng Việt cố gắng giữ nội dung nguyên tác, mặc dù đôi khi phải thay đổi thứ tự ý nghĩa các câu để nghe cho thuận tai người Việt, và hoàn toàn không theo mô thức tiết chế của haiku. Vì sự ngắn gọn tối đa, thi nhân haiku không thể sử dụng cú pháp cầu kỳ -- một lợi điểm cho người chưa thạo tiếng Nhật nhưng lại thích đọc thơ haiku như bản thân tôi. Quả thực, chỉ cần một kiến thức căn bản về cú pháp Nhật ngữ và một cuốn tự điển Nhật dùng lối viết romaji dễ tra cứu mục từ sắp xếp theo thứ tự a, b, c (thí dụ như cuốn Kodansha’s Romanized Japanese-English Dictionary 666 trang xuất bản tại Tokyo năm 1993 mà tôi sử dụng) là có thể thưởng thức thơ haiku. Chính cuốn tự điển này đã giúp tôi "hiểu" ý nghĩa bài thơ của Basho viết về tiếng ve kêu (được trích dẫn đầu tiên dưới đây) trong đó có các danh từ shizukesa (sự thanh tịnh), iwa (tảng đá lớn), semi (ve sầu),koe (giọng), và động từ shimiru (thấm vào). Kiến thức cú pháp căn bản cho tôi biếtrằng giới từ ni (trong) phải đứng sau danh từ trong một đoản ngữ với giới từ đóng vai chủ động(prepositional phrase) –ngược hẳn với thói quen trong tiếng Anh và tiếng Việt. Vì vậy đoản ngữ "trong tảng đá lớn" khi dịch sang tiếng Nhật sẽ thành "tảng đá lớn trong" (iwa ni). Xin nói thêm, giới từ no (của) trong tiếng Nhật được dùng như chữ "chi" trong tiếng Tàu hoặc "sở hữu cách -'s" trong tiếng Anh– semi no koe do đó phải hiểu là "thiền chi thanh" hoặc "the cicada's voice." Xin bắt đầu bằng mùa hạ, khi mà Basho chỉ nghe thấy tiếng ve sầu vang vọng vào kẽ đá. Thi nhân ghi lại cảm giác rất nhiều thiền tính ấy như sau: shizukesa ya iwa ni shimi-iru semi no koe thanh tịnh và thấm vào non núi tiếng ve ca Khi vui hưởng đời, mấy ai thấy chết chóc đang chờ. Những con ve sầu của Basho cũng thế -- chúng có biết đâu là cuộc sống của chúng sắp tàn: yagate shinu keshiki wa mieru semi no koe ve sầu ca hát chẳng mảy may hay biết chết đã gần kề Nhân sinh vô thường, có khác chi đám mây trôi luôn thay hình đổi dạng, qua thi bút huyền diệu Issa: oni to nari hotoke to naru ya doyoo-gumo đám mây trong ngày khổ ải từ hình quỷ chuyển sang hình phật Cỏ mùa hạ tốt tươi thật đấy, nhưng Basho cũng thấy dưới lớp cỏ ấy là mồ chôn những ước mơ hiển hách của biết bao đấng trượng phu: natsu - kusa ya tsuwa-mono-domo ga yume no ato cỏ mùa hạ đang chôn vùi bao giấc mơ chiến thắng cố chinh nhân Chỉ nhìn những trái ớt chín mọng trên cây, nhà thơ kiêm danh họa Buson đã thấy cả một mùa thu đang làm lộng lẫy thiên nhiên: utsukushi ya no-waki no ato no toogarishi đẹp biết bao những trái ớt đỏ tươi sau trận thu phong Người thường khi nghe tiếng dế rên rỉ đêm thu thì có lẽ chỉ buồn thôi, nhưng thi sĩ Issa đa cảm đã vội nghĩ ngay đến ngày mình xuống mộ. Hãy nghe nhà thơ cô đơn đó căn dặn người bạn nhỏ nhoi đôi lời: ware shinaba haka-mori to nare kirigirisu này chú dế hãy làm người gác mộ sau khi ta lìa đời Bóng đêm dầy đặc, vài tia chớp, tiếng kêu xào xạc một con chim đi tìm mồi là mấy chấm phá kiệt xuất vẽ lên một đêm thu cô quạnh đến rùng mình qua thần bút Basho: inazuma ya yami no kata yuku goi no koe vài tia chớp lập lòe tiếng kêu con vạc ăn đêm bay vào cõi tối Và mùa đông đã tới, với băng giá ngoài trời và băng giá trong lòng thi nhân. Lúc ấy Buson ước ao đi ở ẩn trong núi: fuyu-gomori kokoro no oku no yoshino yama mùa đông ẩn dật ngọn núi yoshino chiếm trọn tâm tư Basho ít khi dừng bước giang hồ. Tuy vậy, ông ngao ngán trạng huống ốm đau khi chu du mùa đông qua những vùng hẻo lánh: tabi ni yande yume wa kare-no o kake-meguru lữ hành trong bệnh hoạn chờn vờn bóng ma trên cánh đồng hoang Và rồi, sau chuỗi ngày mùa đông giá lạnh, mùa xuân đã trở lại. Vì thiếu tình mẫu tử từ tấm bé, Issa rất trìu mến những sinh vật nho nhỏ của mùa xuân. Có lẽ khi vỗ về tinh thần chú ếch mảnh mai, thi nhân cũng tự an ủi chính mình: yase-gaeru makeru na issa kore ni ari chú ếch èo uột đừng bỏ cuộc nhé issa đang an ủi chú đây Mưa xuân khiến hoa cỏ tốt tươi, nhưng phũ phàng thay, dưới làn mưa ấy cũng có một lá thư bị ai đó quăng đi để gió thổi vô rừng, như Issa chứng kiến: haru-same ya yabu ni fukaruru sute tegami mưa xuân lá thư vứt bỏ gió cuốn vô rừng Xuân là mùa của hạnh phúc, của tái sinh, nhưng Buson thấy xuân cũng là mùa để tàn sát sinh linh: hi kururu ni kiji utsu haru no yama-be kana hoàng hôn tiếng bắn chim trĩ vang dội triền núi mùa xuân Trong ánh xuân rực rỡ, Basho ước ao được tự do, không vướng lụy hồng trần, như con sơn ca đang líu lo giữa thảm cỏ xanh: hara-naka ya mono nimo tsukazu naku hibari giữa bãi cỏ sơn ca líu lo tự do, chẳng ưu phiền
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:28 AM #3 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
Cuộc thi sáng tác thơ Haiku Nhật - Việt 2011 TTO - Cuộc thi thơ Haiku Nhật - Việt lần 3-2011 đề tài tự do sẽ nhận bài dự thi từ nay đến hết ngày 14-10-2011. Sân chơi thú vị này dành cho người Việt Nam và người Nhật Bản đang sinh sống tại Việt Nam, không giới hạn độ tuổi. Poster cuộc thi Sáng tác thơ Haiku Nhật - Việt Cuộc thi do Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM phối hợp với Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM tổ chức. Dự kiến trao giải vào ngày 1-2-2012, dịp hưởng ứng Ngày thơ Việt Nam 2012. Mẫu đăng ký dự thi và mẫu thông tin người sáng tác có tại http://www.hcmcgj.vn.emb-japan.go.jp...ku_contest.doc. Mỗi người dự thi tối đa ba bài thơ cho mỗi thể loại ngôn ngữ. Người Việt Nam có thể dự thi bằng tiếng Việt, tiếng Nhật hoặc cả hai. Người Nhật Bản chỉ được dự thi bằng tiếng Việt. Bài thi gửi đến email thithohaiku@gmail.com hoặc đến địa chỉ: Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại TP.HCM, Ban Văn hóa (ngoài bì thư ghi: Thi thơ Haiku), 13-17 Nguyễn Huệ, Q.1, TP.HCM. Haiku là thể thơ ngắn độc đáo của Nhật Bản, có lịch sử hơn 400 năm, gồm 17 âm tiết (5-7-5), ngắt nhịp thành ba câu; ghi lại tinh tế hiện thực sự vật, sự việc và có khả năng truyền cảm nhận sâu sắc cho người đọc. Vì đề tài của Haiku hầu hết là thiên nhiên, các mùa trong năm nên các bài thơ Haiku thường có từ chỉ mùa, tiếng Nhật gọi là kigo (quý ngữ). Giải nhất nội dung Haiku tiếng Việt trong cuộc thi thơ Haiku Nhật - Việt 2009 Xó chợ Chiếc lon trống Hạt mưa mồ côi (Nguyễn Thánh Ngã, Lâm Đồng) Giải nhất nội dung Haiku tiếng Nhật trong cuộc thi thơ Haiku Nhật - Việt 2009 ume no hana hohoemi hajime haru no kaze Tạm dịch: Một cành mai Vừa chớm nở Gió xuân thổi (Đào Thị Hồ Phương, TP.HCM)
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:31 AM #4 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
Chiếc thau người ăn mày Dăm xu mỏng Và mưa đêm nay (Issa)
Trả lời với trích dẫn - 10-06-2012 10:33 AM #5 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
Giải nhì thơ haiku tiếng Việt năm 2007 (Không có giải nhất) Con cá thở Bọt bong bóng vỡ Mưa phùn (Nguyễn Thế Thọ - Đà Nẵng)
Trả lời với trích dẫn -
Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc
- 10-06-2012 10:40 AM #6 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
THƠ HAIKU NHẬT BẢN - 3500 BÀI. Phần Một Người viết: Thái Bá Tân 05/12/2011 THÁI BÁ TÂN THƠ HAIKU NHẬT BẢN (3500 bài) _________________ ĐÔI LỜI CÙNG BAN ĐỌC Haiku là thể thơ ngắn rất độc đáo của Nhật Bản. Mỗi bài chỉ 17 âm tiết, chia thành ba phần, người Nhật viết liền một dòng nhưng khi dịch ra tiếng nước ngoài được ngắt thành ba câu. Vì chưa quen, người đọc lần đầu có thể hơi ngỡ ngàng, tuy nhiên, đọc kỹ và suy ngẫm, ta sẽ thấy thơ Haiku thật tinh tế. Mỗi bài, thường là một bức tranh phong cảnh nhỏ, tưởng như không nói gì mà thực tế gợi cho ta nhiều điều. Nội dung và triết lý thơ Haiku không nằm ở câu chữ mà ở sự tưởng tượng của chính người đọc. Thơ Haiku thật kỳ lạ. Ngắn và giản dị. Nhiều khi không nói gì hoặc nói điều chẳng đâu vào đâu, thậm chí tưởng như “ngớ ngẩn”. Thế mà càng đọc, (trong trường hợp của tôi là càng dịch), ta cứ bị cuốn hút bởi sự “không có gì” và “ngớ ngẩn” đó. Tôi có cảm giác người Nhật viết Haiku không phải để truyền tải ý, mà hình ảnh, những hình ảnh chấm phá giản dị. Hình như cũng không có ý định nói điều gì to tát về triết lý hoặc tình cảm như ta thường thấy ở các dòng thơ khác. Có lẽ vì thế mà người đọc phải có sự làm quen dần để cảm nhận và yêu. Trên thế giớ có rất nhiều người yêu và bắt chước viết thơ Haiku Nhật Bản. Hầu như nước nào cũng có Hội những người yêu thích loại thơ này. Thậm chí còn có trường dạy cả cách viết Haiku. Bản thân tôi cũng phải trải qua một thơ gian khá dài mới làm quen được. Cụ thể hơn 30 năm kể từ ngày tôi tò mò tìm hiểu thơ cổ Nhật Bản, và đã dịch một ít, dịch có thêm vần, mà chỉ loại thơ năm câu (tanca) trong tập Manyoshu đồ sộ. Giờ thì tôi yêu, và kết quả của tình yêu đó là tập Thơ Haiku Nhật Bản này. Đầu tiên phải nhắc đến ba cây đại thụ của thơ Haiku Nhật. Đó là Matsuo BASHO, Yasa BUSON và Kobayashi ISSA. Mỗi vị tôi dịch khoảng trên dưới nghìn bài. Riêng Basho tôi có hai bản dịch khác nhau, từ hai nguồn khác nhau. Do không biết tiếng Nhật và phải dịch từ tiếng Anh (một số trường hợp từ tiếng Nga), nên một số ít bài trùng lặp trong hai tập này có thể khác nhau, vì tôi chỉ biết những gì người khác đã dịch chứ không phải nguyên bản. Nghe nói tiếng Nhật cổ khó hiểu lắm, thậm chí cả với người Nhật hiện đại, nên việc hiểu khác nhau cũng là chuyện bình thường. Ngoài ba đại thụ nói trên, trong tập này tôi dịch một lương khá lớn thơ khất thực và thơ thiền của Taneda SANTOKA, một trong những nhà thơ Nhật hiện đại được ưa thích nhất hiện nay, cũng như một số nhà thơ Haiku tiêu biểu khác. Cuối sách, tôi thêm phần PHỤ LỤC, giới thiệu những bài tanca đã nói và Thơ Cổ Triều Tiên tôi dịch ngày xưa, vì về cơ bản chúng cùng hơi hướng, phong cách và thời điểm sáng tác. Cuối cùng là hơn 100 bài Haiku của tôi viết năm 1980 khi tôi bắt đầu mê và chịu ảnh hưởng của loại thơ này. Có điều lúc ấy tôi chỉ mượn số lượng ba câu mỗi bài, chứ không theo phong cách thơ Haiku cổ điển. Thơ của tôi truyền tải ý chứ không phải hình ảnh. Âu cũng là một trải nghiêm nữa trong sự nghiệp dịch thơ chuyên nghiệp của tôi. Và tôi muốn giới thiệu nó với bạn đọc. Mong được đón nhận và nâng đỡ. Hà Nội, ngày 3 tháng Sáu, 2010. Thái Bá Tân
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:41 AM #7 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
Phần Một Matsuo BASHO Matsuo Bashō (松 尾 笆 焦, 1644-1694), nhà thơ thiền lỗi lạc thời Edo (江戶) Nhật Bản, tên thật là Matsuo Munefusa, là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ cho lãnh chúa thành Ueno, một tòa thành nằm giữa con đường đi từ Kyoto đến Ise. Basho được thừa nhận là người phát triển những câu đầu (発句, phát cú) của thể renga (連歌, liên ca) có tính hài hước gọi là Renga no Haikai thành một thể thơ độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của Thiền đạo. Masaoka Shiki (1867-1902) hoàn thiện sự tách biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku (俳句, bài cú hay hài cú). Tuổi trẻ Năm mới được 9 tuổi, ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho một lãnh chúa và trở thành bạn thân thiết với con trai vị lãnh chúa này, một người chỉ lớn hơn ông vài tuổi tên là Yoshitada. Hai người đã cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ. Cũng trong những năm đó, sự phát lộ năng khiếu thơ của ông đã được nhà thơ và nhà phê bình xuất sắc đương thời Kitamura Kigin phát hiện. Ông bắt đầu được Kitamura Kigin rèn tập, và có bài thơ đầu tay năm ông mới 18 tuổi được nhiều người biết đến. Khi người bạn Yoshitada lâm bạo bệnh mất vào năm 24 tuổi, Bashō lên núi Koya đặt một nạm tóc của bạn vào chùa và quyết định rời bỏ lâu đài Ueno mặc dù không được phép của lãnh chúa. Năm 1666, ông đến Kyotō và sống ở đây 5 năm, tiếp tục đọc văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư pháp. Mùa xuân năm 1672, sau một thời gian về quê chừng vài tháng, ông dời lên sống ở Edo. Trong những năm này, ông đã thử làm nhiều nghề khác nhau nhưng dần cảm thấy mình chỉ hợp chương, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai (俳諧, bài hài), một thể loại thơ còn được gọi là haikai no renga(俳 諧の連歌, bài hài chi liên ca), là những bài thơ dài thiên về trào lộng, nhẹ nhàng và phóng túng, vốn rất thịnh hành trong thời Tokugawa. Năm 1675, Bashō xướng họa cùng thi sĩ Nishiyama Soin (1605-1682), chủ soái của trường phái Danrin (談林, Đàm Lâm), một trong hai trường phái haikai nổi tiếng đương thời (trường phái Teimon (貞門, Trinh Môn) của Matsunaga Teitoku (1571-1653) và trường phái Danrin). Tư tưởng thơ haikai của Nishiyama Soin, đứng trên mọi sự dung tục và tầm thường, vượt thoát ra ngoài khuôn khổ của một thể loại thơ giải trí thế tục đơn thuần vốn đang thịnh hành toàn quốc với trường phái Teimon, đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và sáng tác của Bashō về sau. Bashō-an, bút hiệu Bashō và phong cách Shōfu Mùa xuân năm 1679 Matsuo Bashō được phong tước hiệu Sosho (bậc thầy dạy thơ Haikai). Năm sau ông dời đến một túp lều bên sông Sumida và ở đây, có đệ tử mang tặng cây ba tiêu (cây chuối), một giống cây đương thời chỉ có ở Trung Hoa. Ngay tức thì, nhà thơ say mê nó và đem trồng trong sân nhà. Khách đến thăm gọi nhà ông là "ba tiêu am" (芭蕉庵, Basho-an). Cũng trong những năm này, ông tu tập thiền đạo với một thiền sư tại một ngôi chùa địa phương. Năm 1682 Bashō am bị cháy, ông dời về Koshu và từ đó lấy bút hiệu là Bashō (芭蕉, Ba Tiêu). Năm sau ông trở lại Edo và dựng lại "ba tiêu am". Bắt đầu từ đây, định mệnh thơ haikai rơi vào tay của Bashō: ông đã sáng tạo ra một phong cách mới là Shōfu (蕉風, Tiêu Phong, ẩn ý về đời người nghệ sĩ như những tàu lá ba tiêu bị xé tan trong gió những đêm giông bão), một phong cách dung hợp giữa sự trào lộng đời thường của haikai đương thời với yếu tố cao nhã tâm linh của thể thơ renga (liên ca) cổ điển. Ông cũng dần hoàn thiện một loại thơ ngắn 17 âm tiết trong 3 câu 5+7+5 từ những câu đầu (hokku) của thể thơ renga và thể thơ cực ngắn ấy về sau được mọi người biết đến với cái tên đã trở thành bất hủ haiku. Du hành bờ Tây Mặc dù danh tiếng ngày càng rực rỡ, những nghi vấn về bản thể, tâm linh, thiền tông và nghệ thuật không ngớt thúc bách Bashō tìm con đường cho chính mình để đạt được đại ngộ (satori). Mùa thu năm 1684, ông từ bỏ cuộc sống yên ổn ở am ba tiêu và bắt đầu làm một lữ khách (旅人, tabibito) của cõi phù thế. Theo con đường ven biển về hướng Tây, ông lang thang thăm lại cố hương Ueno rồi đi Nagoya. Ở đó, ông cầm đầu một nhóm thi sĩ soạn nên 5 tập renga xuất sắc mang tên Đông nhật (Fuyu no hi). Đến mùa hạ năm sau, Basho mới trở về Edo sau khi thăm viếng nhiều nơi. Chuyến đi lớn đầu tiên này được ông ghi lại trong kỷ hành (kikō, một dạng nhật ký hành trình) mang tên Nhật ký phơi thân đồng nội (Nozarashi kiko, Dã sái kỷ hành, 1685). Hai năm sau, Bashō tạo nên chấn động trong văn chương bằng bài thơ về bước nhảy bất ngờ của con ếch mà tiếng động của nó khi chạm mặt nước ao cũ vang trong thinh lặng của đêm đen như khoảnh khắc đạt đốn ngộ của thiền sư, đăng trong hợp tuyển của thơ ông và đồ đệ mang tên Xuân nhật (Haru no hi) (xin xem thêm haiku). Hành trình Kashima Chuyến đi kế tiếp của Bashō hướng về Kashima được Bashō mô tả trong Kỷ hành Kashima (Kashima kikō, 1687). Đây là chuyến đi mà đích đến của Bashō là đền Kashima thăm viếng sư phụ, thiền sư Bucho, và thăm lại cây anh đào nổi tiếng ở Yoshino mà nhớ về người bạn yểu mệnh tại Ueno năm xưa. Đường đến Sarashina Ngay sau chuyến đi Kashima, Matsuo Bashō lại khăn gói hành hương trong một năm trời từ Edo về bờ biển Suma, từ Akashi đến thôn Sarashina để được tận hưởng mùa trăng trên đỉnh núi Obasute. Chuyến đi này là tiền đề cho hai tập nhật ký thơ ca khác là Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688) và Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688). Đây là những trang ca ngợi thiên nhiên vô cùng nồng nàn, là lời kêu gọi say đắm "trở về với thiên nhiên". Đó là một lý tưởng mà Bashō gọi là fuga (phong nhã), biểu hiện qua những con người lỗi lạc như Saigyo của thơ tanka, Sesshu của tranh thủy mặc, Rikyu của trà đạo và Sogi của thơ renga. Bắc hành Chuyến đi dài nhất của Bashō với một người đệ tử là cuộc du hành phương Bắc đảo Honshu vào năm ông 45 tuổi. Đây là một chuyến đi kéo dài 151 ngày đầy gian khổ, bất trắc trên con đường thiên lý đến những vùng đất còn nguyên sơ, khởi đầu từ Edo ngày 27 tháng ba âm lịch năm 1689. Chuyến đi này đã đưa Bashō đến hàng loạt những thị trấn mới lạ, như Nikko, Shirakawa, Sendai, Matsushina v.v. Từ đây ông rẽ ngang đảo Honshu đến Sakata ở phía Tây trên biển Nhật Bản. Ông cũng lặn lội xuống miền duyên hải để tới Niigata, Kanazawa, Tsuruga và tạm dừng ở Ogaki, với tổng chiều dài lên đến 2.500 cây số. Đó là cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong văn học Nhật Bản vì nó đã để lại cho đời sau một kiệt tác thi ca xen lẫn những đoạn tản văn Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo). Tuy nhiên, nếu con đường thi ca của Lối lên miền Oku chấm dứt ở Ogaki vào mùa thu năm 1689, thì con đường du hành của Bashō mãi đến 1691, khi nhà thơ về Edo mới kết thúc. Ông còn tiếp tục đi Kyotō, về quê thăm nhà và cùng các bạn thơ du ngoạn hồ Biwa. Trên đường thiên lý Basho đã dừng trú tại Huyền trú am (Genju-an) trong khu rừng bên hồ Biwa và tại đây ông viết nên bài tùy bút kỳ tuyệt mang tên Tùy bút Huyền trú am (Genjuan no ki, 1690). Cùng với các bài thơ haiku được viết trong thời gian này của tác giả, bài tùy bút được đưa vào thi tập Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên thoa, 1691), một tập thơ mang phong cách Shofu đậm đặc. Sau đó, ông cũng qua một vài tuần ở một thảo am khác là Lạc thị xá (Rakushisha) thuộc vùng Saga và ở đây ông soạn lên tác phẩm lớn nhất cuối cùng của đời mình là Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691). Bashō trở về Edo vào năm 1691 với danh tiếng lẫy lừng, được đông đảo bạn bè, môn đệ và người ái mộ vây quanh. Những năm sau đó ông có một vài trách nhiệm trong đời sống mà lúc này phải đảm nhận, như trông nom một phụ nữ tên là Jutei cùng các con của bà, chỉ vì hồi trẻ ông đã từng yêu Jutei. Thiền định trong cô tịch Đến năm 1693, Basho quyết định đóng cửa sống trong cô tịch, không tiếp khách, và người ta nói rằng cánh cửa nhà ông chỉ mở ra khi có một biến cố, như khi hoa triêu nhan nở bên hàng dậu. Trong thời gian này, cuộc đời và thơ ca của ông hướng đến một lý tưởng gọi là karumi (khinh), tức sự nhẹ nhàng thanh thoát tìm thấy ngay giữa cuộc đời ô trọc. Lý tưởng đó sau này được học trò của ông ấn hành trong thi tập Túi đựng than (Sumida wara, 1694). Chuyến Nam du định mệnh Mùa xuân năm 1694, Bashō quyết định đi thăm phương Nam mà đích đến là Osaka ở đảo Kyushu theo lời mời thành khẩn của một đệ tử. Trên đường đi ông mắc bệnh nặng tại một lữ quán ở Ōsaka. Đệ tử của ông xin ông làm bài thơ từ thế, như truyền thống của các thiền sư Nhật Bản, để cáo biệt cõi đời trước lúc lâm chung, ông đáp: "thơ lúc bình sinh đã là bài từ thế rồi", và viết: Dọc đường ốm... Trong mơ tôi lang thang Giữa những cánh đồng khô héo. Đặc điểm nghệ thuật Giữa hai chiều không gian và thời gian, con người từ khi đến với cõi thế này đã phải chấp nhận sự hữu hạn của năm tháng, do vậy mà luôn ước ao tìm đến cõi vĩnh hằng. Những chuyến du hành của Matsuo Bashō như muốn bộc lộ khát khao phá vỡ sự câu thúc của buổi chiều còn lại trong vũ trụ (thời gian) để tìm cho được sự rộng mở, khai phóng không gian tồn tại của bản thể và cái đẹp. Đời ông như một lữ khách trong thời gian, là những chuyến du hành không dứt, phản ánh qua các tập kỷ hành hay xoay quanh các thi tập phân theo bốn mùa. Ông yêu thích các thi nhân đời Đường và nhắc đến tứ thơ của họ trong các tác phẩm của ông. Ông chuộng Trang Tử và dựa trên nền triết học này mà đề ra thuyết "Bất dịch và lưu hành" trong thi ca của mình: thi nhân đi tìm những giá trị vĩnh hằng trong dòng biến động của vạn vật. Ông quan niệm phải tuân theo tạo hóa và quay trở về với tạo hóa, "tả thông thì học thông, tả trúc thì học trúc" và cho rằng trong đời chỉ có hai loại thơ: thơ tự nhiên dung hợp giữa thiên nhiên và nhân sinh còn thơ nhân tạo chỉ có kỹ thuật mà thiếu tấm lòng. Bashō đã từng nói học thi pháp để rồi quên nó đi, đối với ông cái tình cần hơn sự chuốt vẽ chữ nghĩa. Tin vào sự mẫn cảm của người nghệ sĩ, Bashō khuyên nên nắm bắt ngay ánh chớp loé ra từ sự vật trước khi nó tan biến đi trong tâm trí. Thơ cần nhẹ nhàng, đơn giản, trong sáng, gần với đời sống và thi nhân cần "nâng tâm hồn lên thành thơ để rồi quay trở về với đời thường”. Chính điều đó đã trở thành một trong những đặc trưng của thể thơ (haiku) do ông sáng tạo, một thể thơ mà tất cả những điều bình thường, nhỏ nhoi trong cuộc sống như bụi cám, tôm cá, tiếng dế mèn, ngôi nhà dột, cây cột xiêu đổ, con sâu đang gặm hạt dẻ, chiếc mũ chiến lăn lóc trên cỏ, cây chuối trong giông bão v.v. đều có thể trở thành những đề tài hồn nhiên, dịu dàng và đầy sức sống của thơ. Có hai điều mang tính cách tân trong quan niệm thi ca của ông: không lặp lại chính mình và không theo khuôn mẫu người khác. Ông tự bảo mình "phải biết chán cái tôi của ngày hôm qua" và tự chế diễu thơ mình như "lò sưởi trong mùa hạ và quạt trong mùa đông". Ông kêu gọi đừng bắt chước theo những thành tựu của các văn hào xưa mà chỉ nên truy tìm điều họ đã muốn đi tìm. Với tinh thần đó, dù đã có các trường phái haikai rất nổi tiếng trong thế kỷ 17 như Teimon (Trinh Môn) và Danrin (Đàm Lâm), Bashō vẫn tự lập nên một phong cách mới gọi là Shōfu (Tiêu Phong) trong đó chứa đựng những quan niệm nghệ thuật của riêng ông. Linh hồn thơ Shōfu chính là linh hồn của sabi (寂び, cái tịch liêu, tĩnh lặng) và karumi (軽み, nhẹ nhàng), mang âm điệu sâu thẳm của Thiền đạo và sắc màu tươi nhuận của thiên nhiên. Ảnh hưởng Thiên tài của Bashō ôm choàng những hiện tượng khác nhau của đời sống, do đó đã gây nên những ảnh hưởng sâu rộng về sau. Tương truyền, ông có đến 2000 đệ tử, và nổi danh nhất là 10 nhà thơ được gọi là Bashō Jitetsu (Ba Tiêu thập triết), đó là Etsujin, Hokushi, Joso, Kikaku, Kyorai, Kyoroku, Ransetsu, Shiko, Sanpu và Yaha. Các nhà thơ theo khuynh hướng lãng mạn hay hiện thực hậu sinh như Kobayashi Issa (1763-1827), Masaoka Shiki (1867-1902) đều có thể xem Bashō là bậc thầy của mình. Nhiều người đã hành hương theo bước đường phiêu lãng của Bashō ngày xưa. Sang thế kỷ 20, Bashō lại càng trở thành một hình ảnh vĩ đại được tôn vinh của nền văn hóa Nhật Bản. Một số nhà nghiên cứu xem ông là nhà thơ huyền bí tương tự Blake và Wordsworth, số khác thấy ông đi trước chủ nghĩa tượng trưng của Pháp. Thể thơ haiku do ông hoàn thiện bằng thiên tài của mình đã trở thành thể thơ quốc tế, được nghiên cứu rộng rãi cả trong và ngoài Nhật Bản. Nhiều nhà văn, nhà thơ lớn của thế giới còn sáng tác thể thơ này bằng tiếng mẹ đẻ của mình, trong đó có Paul Eluard của Pháp, Octavio Paz của Tây Ban Nha và George Seferis của Hy Lạp. Những tác phẩm chính - Đông nhật (Fuyu no hi, 1684), 5 tập, viết chung với bạn thơ. - Nhật ký phơi thân đồng nội (Nozarashi kiko, dã sái kỷ hành, 1685) - Xuân nhật (Haru no hi, 1686) viết chung với đồ đệ. - Nhật ký hành trình Kashima (Kashima kiko, 1687) - Ghi chép trên chiếc túi hành hương (Oi no kubun, cập chi tiểu văn, 1688) - Nhật ký về thôn Sarashina (Sarashina kiko, 1688) - Lối lên miền Oku (Oku no hoshomichi, áo chi tế đạo, 1689) - Áo rơm cho khỉ (Sarumino, viên thoa, 1691) - Nhật ký Saga (Saga nikki, 1691). (Theo Wilkipedia)
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:44 AM #8 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
Matsuo BASHO (Bản dịch Một) 1 Con quạ Ngồi trên cành cây khô Chiều thu. 2 Người thợ đập đá Ngồi nghỉ bên dàn hoa bìm bìm Cuộc đời này thật buồn. 3 Con ếch Nhảy xuống ao tù Tiếng nước té. 4 Làng này, vùng núi này Nơi không ai lui tới Sẽ rất buồn nếu không buồn. 5 Gió núi Phú Sĩ Tôi đem về trên chiếc quạt Làm quà cho ban ở Êđô. 6 Nước thủy triều nông Chân sếu ẩm ướt Vì hơi lạnh từ biển. 7 Núi Atsumi Quay sang bãi Gió Thổi Tìm cái mát. 8 Một năm nữa trôi qua Mà tôi Vẫn mũ rơm, giày rơm. 9 Đã mùa thu Có lý do để già Đám mây và con chim. 10 Cả nhà Chống gậy, tóc bạc phơ Tảo mộ.
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:46 AM #9 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
11 Gõ cửa cầu may Đền Mii Hôm nay có trăng. 12 Trăng Một nhà sư Mang trăng đi qua bãi cát. 13 Suốt đêm Nằm nghe gió thu Bên kia núi. 14 Biển xanh Sóng vỡ có mùi rượu gạo Trăng sáng đêm nay. 15 Trong thảm hoa màu trắng Đêm Chuyển thành ngày. 16 Người ta buồn vì vượn khóc Trẻ khóc thì sao? Gió thu. 17 Ngoài ấy, bây giờ Đã là mùa thu hoạch? Lều cỏ của tôi. 19 Không hóa thành bướm Mùa thu Đang chín dần, thành mồi cho sâu. 20 Sắp thu Càng muốn ngồi Trong căn phòng trải bốn chiếu.
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- 10-06-2012 10:48 AM #10 Thao Thuc Guest Hiện Đang :   
21 Lá vàng trôi dưới nước Từ phía nào bờ sông Con dế đang kêu? 22 Thủy triều dâng Con sếu bước trên đôi chân ngắn Nước quá gối. 23 Đêm trăng lặng yên Có thể nghe trong tán lá Tiếng sâu ăn hạt dẻ. 24 Đêm không trăng Con cáo bò trong vườn Về phía quả dưa chín. 25 Người hái chè không biết Với những cây chè Họ là ngọn gió thu.
Trả lời với trích dẫn -
2 Thành viên dưới đây cảm ơn Thao Thuc vì bài viết hữu ích này
Bạch Hồng Ngọc, thylan
- Nhảy tới trang:
- Chức Năng
- Bảng điều chỉnh cá nhân
- Tin nhắn riêng
- Theo dõi
- Ai đang online
- Tìm trong diễn đàn
- Trang Ðầu
- Diễn Ðàn
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ THÔNG BÁO _๑۩۞۩๑*·.¸
- Thông báo từ Ban Quản Trị
- Thông báo về nhân sự BĐH
- Thơ Hương Xuân - Đã xuất bản
- Sinh nhật VNTH lần thứ nhất
- Thơ HƯƠNG QUÊ - Đã xuất bản
- Sinh nhật VNTH lần thứ 2
- Thông báo về Tập 3 - Thơ Hương Xưa
- Phòng Điều hành
- Ban đại diện VNTH - Khu vực phía Bắc
- Thông báo của BĐD
- Tin tức hoạt động
- Phòng Biên tập
- Bài dự thi Thơ Đường Luật VNTH lần thứ nhất
- Trao đổi - Góp ý - Thắc mắc
- Địa chỉ cần liên hệ
- Chúc mừng - Cảm tạ
- Thăm hỏi - Phân ưu - Chia buồn
- Ban Từ Thiện Xã Hội
- Thông báo Ban TTXH
- Tin tức Từ thiện
- Thông báo từ Ban Quản Trị
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ THƯ VIỆN THI HỮU _๑۩۞۩๑*·.¸
- Thơ tuyển chọn
- Thơ Sáng tác tuyển chọn
- Thơ Xướng-Họa tuyển chọn
- Thơ Thiếu nhi tuyển chọn
- Thơ Vui tuyển chọn
- Văn Sáng tác tuyển chọn
- Thơ tuyển chọn
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ THI ĐÀN _๑۩۞۩๑*·.¸
- Thơ Sáng tác
- Góc xướng họa thơ bốn câu
- Chuyên trang Đường luật
- Tứ tuyệt đường luật
- Nhặt sạn giúp bạn
- Thông báo - Trao đổi chuyên môn
- Ngũ ngôn đường luật
- Thơ biến thể - Phá cách
- Góc Xướng - Họa Đường luật
- Tập hợp Thơ Xướng - Họa
- Góc xướng họa thơ tứ tuyệt
- Góp ý - Xây dựng
- HUÊ VIÊN CÁC
- Cảm tác qua Tranh-Ảnh
- Sưu tập Hoa - Cây cảnh
- Thơ Vui
- Góc thơ dành cho Thiếu nhi
- Trang Thơ dịch
- Anh văn
- Trung văn
- Thơ Sưu tầm
- Câu Đối
- Thơ Sáng tác
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ VĂN ĐÀN _๑۩۞۩๑*·.¸
- Trang sáng tác Văn xuôi
- Trang Văn sưu tầm
- Thư viện Truyện
- Truyện tranh
- Truyện Tình cảm -Tâm lý -Xã hội
- Truyện Khoa học Viễn tưởng
- Truyện Trinh thám
- Lịch Sử
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ PHÒNG BÌNH LUẬN _๑۩۞۩๑*·.¸
- Thi ca
- Thành viên Thi Hữu
- Từ nguồn khác
- Văn học
- Âm nhạc
- Mỹ thuật
- Thi ca
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ NHÀ THIẾU NHI _๑۩۞۩๑*·.¸
- Phim họat hình
- Nhạc Thiếu nhi
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ GIỚI THIỆU TÁC PHẨM _๑۩۞۩๑*·.¸
- Tác phẩm mới
- Danh ngôn - Lời hay Ý đẹp
- Danh ngôn - Sưu tầm
- Lời hay Ý đẹp - Thành viên Thi hữu
- Câu lạc bộ Văn hóa dân gian
- Ca dao
- Tục ngữ
- Câu đố
- Hò vè
- Ca dao
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ Phòng Audio-Video Clip _๑۩۞۩๑*·.¸
- CD Thi ngâm
- Thơ phổ Nhạc
- Tiếng hát thành viên
- ¸.·๑۩۞۩๑_ PHÒNG TRANH ẢNH _๑۩۞۩๑·.¸
- Tranh Thơ Thi Hữu
- Tranh ảnh sáng tác
- Tranh ảnh sưu tầm
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ VÒNG TAY THI HỮU _๑۩۞۩๑*·.¸
- Chào mừng - Giới thiệu - Giao lưu
- Hồ sơ Thành viên
- Chân dung Thi hữu
- Nhật ký online
- Cửa sổ tâm hồn
- Gỡ rối tơ lòng
- Kết bạn bốn phương
- ¸.·๑۩۞۩๑_ THƯ GIÃN - GIẢI TRÍ _๑۩۞۩๑·.¸
- Cà phê Thi hữu
- Tiếu lâm quán - Tán dóc
- Nghe nhạc
- Xem phim - Video clip
- ¸.·๑۩۞۩๑_ CẬP NHẬT THÔNG TIN _๑۩۞۩๑·.¸
- Tin nội bộ
- Tin sinh hoạt
- Quỹ Tương trợ - Thành viên VNTH
- Các thông tin lãnh vực Văn học - Nghệ thuật
- Tin tức... mình - Theo dòng thời sự
- Sự kiện - Nhân vật
- Chân dung Cuộc sống
- Du lịch bốn phương
- Chuyện lạ Đó - Đây
- Tin nội bộ
- ¸.·*๑۩۞۩๑_ SỨC KHỎE & ĐỜI SỐNG _๑۩۞۩๑*·.¸
- Kiến thức Tây y
- Kiến thức Đông y
- Mẹo vặt - Cẩm nang cuộc sống
- Nữ công Gia chánh
- Ẩm thực
- Mua bán - Rao vặt - Quảng cáo
- Thùng rác
Quyền viết bài
- Bạn không thể gửi chủ đề mới
- Bạn không thể gửi trả lời
- Bạn không thể gửi file đính kèm
- Bạn không thể sửa bài viết của mình
- BB code đang Mở
- Mặt cười đang Mở
- [IMG] đang Mở
- HTML đang Tắt
Nội quy diễn đàn
Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 01:22 PM Powered by vBulletin™ Version 4.0.7 Copyright © 2024 VNTHIHUU.NET. All rights reserved.Từ khóa » Tịch Liêu Thấm Vào đá Tiếng Ve
-
Vẻ đẹp Tịch Liêu (sabi) Trong Lối Lên Miền Oku – Matsuo Basho
-
“Bức Tranh” đẹp Của Thơ Haiku | .vn
-
Bài Thơ: Bài 235 - 235 (Matsuo Basho - 松尾笆焦) - Thi Viện
-
Thiền Tính Trong Thơ Haiku Của Basho. - Chƣơng 2 - 123doc
-
Thi Pháp Chân Không Trong Thơ Haiku Của Basho | Trương Phương
-
Thơ Haiku Nhật Bản - Sự Cảm Nhận Cái Đẹp đến Từ đỉnh Cao.
-
Những Sắc Thái Cảm Thức Thẩm Mỹ Trong Thơ Haiku Nhật Bản
-
Phân Tích Bài Thơ Hai-cư Của Ba-sô - Văn Mẫu Lớp 10
-
More Content - Facebook
-
Oku No Hosomichi, Con đường Hẹp Vào Chiều Sâu Tâm Thức. Tác Giả
-
Tiếng Chuông Trầm Mặc Trong Thơ Haiku Của Basho - Văn Học
-
Lang Hue - Bút-Ký: Thơ Với Thẩn… - Làng Huệ
-
Skkn Một Số Kinh Nghiệm Giảng Dạy Thơ Hai Cư Trong Chương Trình ...
-
Matsuo Basho: Bậc Đại Sư Thơ Haiku By Makoto Ueda - Goodreads